Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lằn Ranh Sinh Tử - Tim Winton

Pike đã từng trải qua thời khắc cận kề cái chết khi còn là một cậu bé tuổi 15: bị sóng vùi dập lúc trượt ván nước một mình - vùng vẫy trước cơn sóng cuồn cuộn của đại dương, bị hất văng khỏi tấm ván trượt và rơi xuống biển, hoảng loạn và mất phương hướng, cố hít thật nhiều hơi và thở sâu vội vã... Sóng cuốn xô đẩy đập vào những mỏm đá, rồi nhấn chìm cậu dưới làn nước lạnh buốt khiến cậu gần như bị tê cóng, ngạt thở... Nhưng chính bản năng sinh tồn trỗi dậy đã giúp cậu vượt qua hiểm nguy, và từ đó, cậu thấu hiểu tận tâm can hơi thở quý giá như thế nào! Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường không bận tâm nhiều đến hơi thở, luôn coi sự tồn tại của nó như một lẽ đương nhiên. Nhưng đến khi "hơi thở" có vấn đề, sẵn sàng dẫn đến tình trạng ngưng bặt, ta mới nhận ra sự "có mặt đương nhiên, bình thường" ấy lại quyết định cả mạng sống. Với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, nhưng đầy kịch tính, "Lằn ranh sinh tử" dẫn bạn dõi theo một câu chuyện lôi cuốn, đầy xúc động, qua đó, bạn càng hiểu rõ hơn tính chất vô giá của hơi thở, từ đó biết trân trọng, bảo vệ nó vì đây chính là "lằn ranh" mong manh giữa sự sống và cái chết. *** Chúng tôi chạy qua con đường phố có hai hàng cây xanh với đèn chớp và còi hụ, và khi bộ phận định vị GPS yêu cầu quẹo trái vào con đường kế tiếp, chúng tôi đã quẹo quá nhanh đến nỗi tất cả các thiết bị trên xe va đập vào nhau và chuyển dịch tứ tung. Tôi chẳng nói tiếng nào. Ớ đằng kia con đường ngoại ô sẫm tối, tôi có thể thấy ngôi nhà được rọi sáng giống như một chiếc tuần dương hạm. - Vào trong đó đi - Cô ta nói khi tôi chưa kịp nhìn rõ ngôi nhà. - Cảm thấy thoải mái khi đi chậm lại. - Ông bị căng thẳng hả, Bruce? - Cũng gần như thế - Tôi lẩm bẩm. Nhưng sự thật là tôi thấy tươi tỉnh. Như thế mỗi khi tôi cảm thấy dễ chịu, khi các đầu dây thần kinh reo vui, và trong lòng tôi đã có sự dự đoán. Đây là một sự chuyển biến lâu dài, chậm chạp, và chẳng bao giờ mất đi một chút tình cảm nào giữa Jodie và tôi. Vào lúc bàn giao, tôi tình cờ nghe một cuộc nói chuyện mà mình không được phép nghe. Nhưng đó là vài giờ trước đây. Giờ đây tôi đang cảnh giác và bồn chồn lo sợ. Đi đến địa chỉ của cuộc gọi, Jodie tắt còi hụ và quay xe lại để đi ngược con dốc. Tôi nghĩ cô ta có vẻ hãnh diện và tự kiêu với sự ý thức về năng lực của mình. Như vậy không phải là xấu, nhưng chỉ hơi non nớt thôi. Jodie không biết, nhưng tôi đã có những đứa con gái bằng tuổi của cô ta. Khi Jodie kéo cái thắng tay và gọi chúng tôi vào làm việc, tôi liền nhảy xuống mở cánh cửa bên hông để lấy túi đồ cấp cứu. Bên dưới các bậc cửa và trên bãi cỏ đẫm sương là một người đàn ông trung niên nằm co ro im lặng, trong thoáng chốc, tôi đã có thể thấy rằng mặc dù có lẽ bị gãy xương đòn, ông ta vẫn không phải là người thuộc trách nhiệm của chúng tôi. Thế nên tôi để mặc ông ta cho Jodie và tiếp tục bước vào nơi khung cửa tự giới thiệu. Trong phòng khách có hai đứa con gái tuổi mới lớn đang lui cui ở hai đầu cái trường kỷ bằng da. - Trên kia à? - Tôi hỏi. Một đứa chỉ lên mà chẳng buồn ngước đầu dậy, và tôi biết ngay rằng nhiệm vụ của mình chỉ là gói ghém và đưa đi thôi. Thường ngày nhìn thấy bộ sắc phục thì chúng vui mừng hi vọng, nhưng chẳng một đứa nào thèm liếc nhìn tôi. Tìm phòng ngủ không khó. Ngoài hiên có một vũng nôn. Những mảnh gỗ vụn. Tôi bước qua cái cửa bị gãy và nhìn thấy người mẹ nơi chiếc giường có đứa con trai đang nằm, và trong khi tự giới thiệu, tôi đã hiểu hết tất cả. Căn phòng xông lên mùi nước tiểu với mùi thuốc sát trùng, có thể thấy rõ là bà ta đã cắt dây đem đứa con trai xuống, thay đồ cho nó và sửa soạn cho thật tươm tất. Tôi lách vào bên bà ta và làm công việc của mình, nhưng đứa con trai đã chết. Nó vào khoảng mười bảy tuổi. Có dấu dây buộc trên cổ và nhiều vết bầm trước đó xung quanh. Dù tôi chỉ khám lấy lệ nhưng tôi thấy bà vẫn vuốt ve mái tóc đen xoắn của đứa con trai. Một đứa con trai khôi ngô. Bà đã tắm rửa cho nó. Mình nó thơm mùi xà phòng Pears và mùi quần áo mới ủi. Tôi hỏi tên bà, tên cậu con trai, bà nói tên bà là June, còn đứa con trai là Aaron. - Tôi rất tiếc, bà June, con bà đã chết rồi. - Tôi biết mà. - Bà đã tìm thấy nó ít phút trước, trước khi bà gọi điện thoại? Bà không nói gì. - Bà June này, tôi không phải là cảnh sát. - Họ đang đến. - Tôi mở cái tủ áo có được không? - Tôi hỏi vừa lúc Jodie bước vào cửa. - Tôi xin ông đừng mở, bà June nói. - Được. Nhưng rồi cảnh sát cũng sẽ mở. - Họ nhất định phải mở sao? Lần đầu tiên tôi thấy người mẹ nhìn tôi một cách nghiêm trọng. Bà là một phụ nữ xinh đẹp ở cái tuổi ngoài bốn mươi với mái tóc ngắn, màu đen, và đôi bông tai thòng xuống duyên dáng. Tôi hình dung khoảng một giờ trước đây, khi lớp son môi và cuộc sống của bà hãy còn yên ổn, hẳn bà là con người cương nghị và tự tin, thậm chí có phần cao ngạo. - Công việc của họ là vậy, thưa bà. - Có vẻ như ông cũng chỉ… giả định. - Bà June này - Tôi nói và liếc nhìn Jodie - Có thể nói là trong đời tôi, tôi đã từng được thấy một vài câu chuyện. Nói thực ra, tôi không thể kể lại với bà. - Vậy ông hãy nói cho tôi biết vì sao xảy ra chuyện này, tại sao nó lại gây ra cái chuyện này cho mình! - Tôi đã gọi một một chiếc xe nữa rồi - Jodie nói. - Đúng đấy - Tôi nói khẽ - Thưa bà June, đây là Jodie, cô ấy sẽ làm việc với tôi tối nay. - Hãy nói tiếp đi và cho tôi biết vì sao! - Vì chồng của bà bị gãy xương đòn - Jodie nói - Ông ấy húc vào cánh cửa này, phải không? - Vậy tôi sẽ nói với họ thế nào? - Người mẹ hỏi, làm như không biết đến Jodie. - Thật ra thì tuỳ bà quyết định - Tôi nói - Nhưng nói ra sự thật thì cũng chẳng có gì xấu hổ. Như vậy mới là công bằng đối với mọi người. Người đàn bà kia lại nhìn tôi một lần nữa. Tôi ngồi xổm trước mặt bà bên cạnh cái giường. Bà ta vuốt nhẹ chiếc váy trên đầu gối. - Chiếc váy này mỏng quá - Bà lẩm bẩm. Tôi cố nở một nụ cười thân thiện với bà nhưng cảm thấy mặt mình trơ cứng. Phía sau bà, tôi có thể nhìn thấy những tấm ảnh lớn thường gặp trên tường: những nhà lướt ván, những tay leo núi, những người phụ nữ trong các tư thế khiêu gợi. Cái kệ sách bên trên chiếc bàn trưng bày những thành tích thể thao cùng những món đồ lưu niệm mua từ Bali và chiếc máy vi tính hiển thị quay vòng hình ảnh toà tháp đôi sụp đổ. Bà nắm lấy bàn tay tôi và tôi đưa tay mình cho bà. Người bà cũng chẳng ấm áp hơn đứa con đã chết của bà. - Sẽ không có ai hiểu cho đâu. - Vâng - Tôi nói - Có lẽ là không. - Ông cũng có con chứ? - Phải. Có tiếng cửa xe đóng sầm dưới đường. - Bà June, bà vui lòng ở lại đây một mình với Aaron trước khi cảnh sát vào, được chứ? - Tôi đã có được một thời khắc dễ chịu - Bà nói và buông tay tôi ra để vỗ nhẹ mơ hồ lên mái tóc mình. - Jodie, nhờ cô xuống dưới bảo cho cảnh sát biết chúng ta đang ở đâu nhé. Jodie khoanh tay cáu kỉnh nhưng rồi bước đi với chòm tóc đuôi ngựa đong đưa. - Cô gái này không thích anh. - Vâng, không thích cho lắm. - Vậy thì tôi nên làm gì? - Tôi không thể khuyên gì bà được, thưa bà. - Tôi còn phải lo cho mấy đứa con nữa. - Vâng. - Và một ông chồng. - Tôi e rằng ông ấy phải vào bệnh viện. - Cũng may cho ông ấy. Tôi đứng lên thu dọn bộ dụng cụ của mình. Bà ta đứng dậy, vuốt vuốt chiếc váy và nhìn lại đứa con trai nằm trên giường. - Bà có cần tôi gọi giúp cho ai nữa không? Jodie và hai viên cảnh sát xuất hiện nơi cửa. - Gọi ai ư? - Bà June nói - Ông có thể gọi cho con tôi trở về. Ông thấy đó, nó đâu có nghe lời mẹ nó. Khi chúng tôi sắp trở về trạm nghỉ ngơi thì Jodie phá vỡ sự im lặng. - Vậy anh định đến khi nào mới cho chúng tôi biết về tất cả mọi chuyện? - Tất cả chuyện gì? - Chuyện về người phụ nữ tội nghiệp này. Có một lúc ở đấy tôi nghĩ là anh đã tán tỉnh bà ta. - Được, cô có thể ghi thêm chuyện ấy vào trong nội dung tố tụng của cô. - Kìa, tôi xin lỗi nhé. - Kiêu căng, lạnh nhạt, thành kiến với giới tính, thiếu cởi mở. Rõ ràng là tôi đã không nắm hết mọi chuyện, vì đến trễ. Nhưng, Jodie, hãy nhớ rằng tôi không phải là một cựu chiến binh tại Việt Nam. Dù cô có tin hay không tin, nhưng khi ấy tôi chưa đủ tuổi. - Tôi thấy thật ghê sợ, đúng không? - Vậy hãy nên thay đổi công việc. Hãy làm khách mời của tôi. Nhưng đừng gièm pha như lúc bàn giao ỗ giữa nhà kho mà cô quay lưng ra cửa. Như vậy không phải là thân thiện và chuyên nghiệp. - Kìa, tôi đã nói là tôi xin lỗi mà. Khi nhìn lại Jodie, trong ánh đèn của một xe tải chạy qua, tôi thấy cô ta gần như đang khóc. Cô ta gục đầu trên tay lái. - Cô không sao chứ? Jodie gật đầu. Tôi hạ kính xe xuống. Thành phố nồng sặc mùi cỏ ướt và khói thải. - Tôi không ngờ là chuyện này làm tôi xúc động mạnh đến thế. - Chuyện gì? - Đây là vụ tự tử đầu tiên tôi gặp - Cô ta lẩm bẩm. - Phải, ghê thật. Nhưng đâu phải là tự tử. - Trời ơi, Bruce, người ta đã phải phá cánh cửa vào để cắt và đem nó xuống. Thằng nhỏ đã tự treo cổ. - Rủi ro thôi. - Nhưng sao anh biết thế? - Tôi là người biết tất cả. Cô không nhớ à? Cô ta nhăn mặt và tôi bật cười. - Này, anh là một người kỳ lạ. - Tôi cũng nghĩ thế. - Anh không định nói cho tôi biết sao? Tôi không tin là anh sẽ không nói. Tôi ngồi ở đó một lúc, nghĩ về những con người tội nghiệp đã làm sạch sẽ hiện trường trước khi chúng tôi tới. Bà mẹ ngồi đấy, băn khoăn với những nhục nhã, ngượng ngùng. Những đứa trẻ khác dưới kia sững sờ vì cú sốc. Người cha trên bãi cỏ ngoài kia trông như một pho tượng. - Hãy để lúc khác - Tôi nói. - Được - Cô ta nói - Tôi cứ chờ đó. Chúng tồi lặng lẽ chạy trở về nhà để xe. Tôi lao sâu vào đám sa mù dày đặc bên dưới mặt biển, xuyên qua bao lớp bọt tăm cho đến khi hết mọi nhiễu loạn, thì tôi gục người rũ rượi giữa vùng sáng xanh mờ nhạt trong khi tất cả hơi nóng nơi lồng ngực tôi tan đi và sự sống rút dần ra khỏi cơ thể tôi. Thế rồi một luồng ánh sáng trắng từ trên rọi xuống. Một người nào đó trên mặt nước đang bơi lại. Người đó nắm lấy tôi, kéo lê đi, và thổi không khí vào trong tôi nghe nóng như là luồng máu. Anh ta dúi xuống rồi ngưng lại, và tôi nhận thấy bộ mặt của mình qua bóng tối, ngập ngừng ở khoảng xa một cánh tay, có vẻ như không biết nên làm gì. Miệng tôi mở ra. Một chuỗi bong bóng sáng ngời tuôn ra và tôi không sao hiểu được. Rồi tôi thức dậy với tiếng lầm bầm trên chiếc trường kỷ trong căn hộ trống, nơi có nắng chiều xuyên ngang qua khung cửa trượt, vẫn còn mặc bộ sắc phục. Nơi này bốc mùi mồ hôi cùng mùi gà chiên bơ. Tôi đứng dậy, xô cánh cửa, nghe hơi gió nam mằn mặn. Tôi đi tiểu, bật ấm nước lên và rút lấy cái ống didj bên dưới tấm thảm lót nhà được làm bằng rong biển. Bên ngoài hành lang, cỏ mọc cao và xanh. Tôi bôi sáp ong lên miệng ống rồi dọn sạch cổ họng. Sau đó tôi thổi cho đến khi cổ họng bỏng rát. Tôi thổi vào những căn hộ trâng tráo chắn ngang giữa tôi với bãi biển. Tôi thổi vào những con hải âu đang ăn bánh pizza ngoài bãi đậu xe và luồng khí thổi ngang qua tôi thành những vòng tròn, nóng bức, vù vù, bất chấp tất cả. Nóng trên bầu trời xanh nhạt. Nóng trong căn hộ, trong thế giới chói chang ngoài kia. ... Mời các bạn đón đọc Lằn Ranh Sinh Tử của tác giả Tim Winton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Hè Để Nhớ - Mary Balogh
Anh - một tử tước đang chạy trốn bản thân - quyết định chọn một cô vợ để buộc ông bố dẹp bỏ ý đồ bắt anh lấy một người mà anh không còn muốn lấy nữa. Và vì lấy vợ mà không cần tình yêu ấy, anh quyết định chọn một quý cô "đoan trang nhất, cao quý nhất và ... buồn tẻ nhất"(!). Nàng - là người được chọn vì đáp ứng hoàn hảo các tiêu chuẩn ấy. Rồi nàng phát hiện ra ý đồ của anh, nhưng nàng đã quyết định làm người hứa hôn giả của anh để giúp anh thực hiện ý định, bù lại anh phải tặng cho nàng "một mùa hè để nhớ". Nàng đã phải nhớ mãi mùa hè ấy... vì những điều anh đã làm... *** Phòng thay quần áo của Lauren thình lình có vẻ đông đúc hơn dù nàng vừa mới đẩy cô hầu đầy nước mắt ra khỏi trước đó năm phút. Cô nàng ngốc nghếch cứ sụt sịt và chảy nước mắt suốt cả tiếng đồng hồ thay quần áo cho cô chủ và làm tóc cho nàng. Trong đời cô chưa bao giờ hạnh phúc hơn, cô đã nói thế khi thiểu não nấc lên và dù cô hoàn toàn chẳng vui tí nào khi không được gặp mẹ, sống ở hạ Newbury, được thường xuyên, thì cô vẫn rất hồi hộp được dời đến Alvesley và gọi ngài Ravensberg là ông chủ. Anh là quý ông tử tế nhất, đẹp trai nhất mà cô từng thấy. Lauren phải cho phép vì sự thật là hôm nay là ngày mà những xúc cảm có thể trở nên rất cao trào. Hôm nay là ngày cưới của nàng. Dì Clara là người đầu tiên vào phòng thay đồ của nàng. Lauren không ăn sáng với tất cả khách khứa trong phòng ăn. Một chiếc khay được mang lên phòng nàng, chất đầy những món ăn ngon lành, những món nàng ưa thích. Nàng không ăn nổi lấy một miếng. Dì Clara ôm lấy nàng nhẹ nhàng, để hai người họ không bị ép nghẹt thở bởi bộ trang phục lộng lẫy cho ngày cưới của mình. "Lauren," bà nói. Đấy là tất cả những gì bà có thể nói, rồi bà mỉm cười. Oh, phải, hôm nay là ngày của xúc động. Lauren biết dì rất vui mừng cho nàng. Bà đã buồn rầu kinh khủng khi biết tin hủy hôn, đã bị thuyết phục là cuối cùng cháu gái mình đã tìm thấy hạnh phúc khi ở Alvesley. Bà thực sự đã khóc – Neville và Lily đã phải an ủi bà – khi Lauren và Kit bước vào phòng khách ở tu viện khá trễ trong buổi chiều mưa một tháng trước. Họ không cần phải nói một lời nào. Mọi người biết ngay là họ đã giảng hòa với nhau. Thật là ngượng ngùng bối rối. Quá rõ như ban ngày tại sao họ lại ở dưới bãi biển quá lâu đến thế. Gwen là người tiếp theo vào phòng. "Oh," cô nói, dừng lại ở ngưỡng cửa, "em mới đẹp làm sao, Lauren. Chưa từng người nào chị biết – có lẽ trừ Elizabeth – có thể làm biến mất vẻ mộc mạc giản dị và làm cho mình thanh lịch và tao nhã đến thế. Vài người chúng ta trở nên vừa lùn vừa béo mất rồi." Lauren bật cười với niềm vui sướng thực sự. Gwen thấp người và tròn trịa hấp dẫn, nhưng lùn và béo mập là từ cuối cùng mà người ta có thể sử dụng để mô tả về cô. Rồi tử tước Whitleaf – em họ Peter – gõ nhẹ vào cửa và ló đầu vào, mặt đỏ bừng đầy háo hức khi Gwen mở cửa ra. "Oh, em nói nhé!" cậu thốt lên. "Chị đẹp lộng lẫy, chị họ. Em vừa ở nhà thờ về. Em nghĩ em sẽ thò đầu vào, chào buổi sáng tốt lành và chúc phúc cho chị, vì em là người thân duy nhất hiện diện từ bên nhà nội của chị. Em hy vọng thế không phải là láo xược. Vũ hội đêm qua rất là vui, đúng không?" Lauren vội băng qua phòng dùng cả hai bàn tay mình nắm lấy hai bàn tay cậu. "Vũ hội rất vui," nàng nói. "một phần lớn vì em đã đến và cuối cùng chị cũng gặp được em. Em đã làm cho niềm hạnh phúc của chị trở nên trọn vẹn." "Oh, em bảo mà!" cậu kêu lên, trông rất vui. "Nhưng em nên ra thôi." Cậu nhìn thấy Gwen đứng bên cửa và cúi chào cô. "Tôi có thể cảm ơn cô lần nữa không, thưa cô, vì lòng tốt vô cùng của cô khi dành phòng mình cho tôi đêm qua?" Chẳng còn phòng nào ở tu viện hay ngôi nhà thừa kế hay quán trọ. Gwen đã ngủ trên chiếc giường phụ trong phòng thay quần áo của dì Clara. Và rồi, chưa đầy hai phút sau khi cậu rời khỏi, Neville và Lily xuất hiện. "Chúng tôi chỉ muốn ghé qua xem Lauren trên đường ra nhà thờ thôi." Lily nói như xin lỗi. "Oh, Lauren, em đẹp tuyệt vời. Tôi rất hạnh phúc cho em. Rất hạnh phúc." Cô ôm lấy Lauren, chẳng bận tâm đến mối nguy hiểm cho bộ trang phục lộng lẫy của họ - và có thể thấy rõ do tình trạng cồng kềnh của cô. Lauren ôm lại cô. "Tôi yêu quý chị, Lily," nàng thì thầm. "Tuyệt quá, tôi cũng nghĩ thế," Lily nói, không chút nao núng. "Nếu không phải vì tôi, thì hôm nay sẽ không phải là ngày cưới của em, đúng không?" Lily đầy tin tưởng nói toạc ra tất cả. Rồi đến phiên Neville. Như dì Clara, anh không nói gì cả - không kể cả tên nàng. Nhưng anh vòng tay ôm chặt lấy nàng sát vào lòng. Nàng cũng vòng tay quanh người anh và nhắm mắt lại. Neville. Neville yêu dấu thân thương của nàng. Người anh trai thân thương nhất, thân yêu nhất mà một người phụ nữ từng có. Nàng biết – dù họ không nói ra điều đó – là ngày hôm nay có ý nghĩa nhiều với anh biết bao nhiêu. Hôm nay là ngày mà cuối cùng anh cũng nhìn thấy nàng được hạnh phúc trọn vẹn, là ngày cuối cùng anh cũng có thể để cho tội lỗi khủng khiếp của mình ra đi. "Hạnh phúc nhé," anh nói, khi cuối cùng cũng thả nàng ra và mỉm cười với nàng. "Hứa với anh nhé?" "Em hứa." nàng mỉm cười lại. "Em yêu anh ấy, anh biết mà." "Nếu chúng ta không đi ngay, Neville," dì Clara nói, "cô dâu sẽ phải lôi chúng ta tới nhà thờ. Như thế hổ thẹn lắm." Họ đều bật cười, và dì Clara là người sau cùng, chần chừ nhìn Lauren khi bước ra với Neville và Lily. Lauren còn lại một mình với Gwen. Nàng quay lại nhìn cô, nụ cười nhạt dần đi. "Có lẽ," nàng nói. "Em đã nên đề nghị tổ chức đám cưới ở Alvesley." Gwen hiểu ngay. Sao nàng không thể? Họ có các chị em gái và bao bạn bè suốt hai mươi ba năm qua. "Không," cô nói. " Sự đứng đắn và dũng khí của em đã không làm em gục ngã hơn một năm rưỡi qua, Lauren. Giờ chúng cũng không thể làm gì em được." Cô hầu của Lauren vỗ nhẹ vào cửa và thò đầu vào nhìn quanh. Cô vẫn còn nước mắt. Nam tước Galton đang đợi cô Edgeworth và quý cô Muir ở sảnh dưới, cô ta thông báo. Mọi thứ đều làm nhớ lại... Lần đó là vào cuối mùa xuân – tháng ba. Lần này là cuối tháng mười. Thời tiết đẹp hơn, mát mẻ nhưng có nắng. Cây cối quanh ngôi nhà thừa kế và dọc theo lối đi ngắn trước khi xe ngựa ra đến cổng công viên và chạy vào trong làng đến nhà thờ ở phía bên kia được trang hoàng bằng tất cả màu sắc lộng lẫy huy hoàng của mùa thu. Lối vào được trải thảm bằng những chiếc lá rơi. Bãi cỏ của làng lố nhố người. Đám người dầy đặc tụm lại quanh cửa và sân nhà thờ. Con đường bao quanh bãi cỏ xếp hàng dài những cỗ xe ngựa không người đủ loại. Những người đánh xe đứng vẩn vơ quanh đó, trố mắt ra nhìn với vẻ thích thú, những bộ chế phục màu sắc phân biệt họ với những người trong làng. Ah, phải, làm nhớ lại sự sợ hãi. Đứng bên trong hành lang nhà thờ vài phút sau đó trong khi Gwen khom người vuốt phẳng viền áo và sắp xếp đuôi áo cho nàng, Lauren có thể cảm nhận được những nhóm người đầy trong nhà thờ chỉ ngay bên kia tầm nhìn của nàng. Cha sở đang chờ ở tay vịn bàn thờ. Kit và Syd cũng vậy. Nàng có hình dung được tất cả những người đứng bên ngoài, đợi tiếng chuông nhà thờ ngân vang để báo nghi lễ đám cưới đã hoàn tất, đợi tóm được cái nhìn thoáng qua của cô dâu và chú rể khi họ từ nhà thờ đi ra, vừa mới cưới xong. Và nàng cũng gần như có thể cảm thấy người đàn bà ăn vận tồi tàn, chạy bổ nhào lên lối đi trong sân nhà thờ vào trong hành lang và phớt qua Lauren để vội vàng vào trong nhà thờ để làm cho thế giới sụp đổ đến tận cùng. Ông ngoại đang đợi một cách kiên nhẫn, mỉm cười yêu thương với nàng. Nàng nghĩ chắc chắn nàng sẽ ngất xỉu. Tệ hơn, nàng thấy cáu gắt kinh khủng. Sự hoảng loạn quắp lấy những bờ mép của sự kiểm soát. Rồi Gwen nhìn lên nàng – và đứng thẳng lên nắm lấy tay nàng, siết nhẹ trong tay mình. "Lauren," cô dịu dàng nói, "hiện giờ mọi chuyện đã qua rồi mà. Quá khứ đã qua rồi. Tương lai đang đợi em. Ngày hôm nay – là ngày cưới của em. Ngày cưới thực sự của em." Cây đàn lớn bắt đầu dạo nhạc. Ông ngoại chìa cánh tay ra. Và họ bước vào trong nhà thờ, vào trong lối đi dài dằng dặc giữa giáo đường. Trong vài phút nàng có thể nhìn thấy mọi thứ, như thể nó luôn được khắc trong tâm trí nàng. Những gương mặt quay lại nhìn nàng bước tới gần, phần lớn đều thân quen, đa số đều mỉm cười. Nàng thậm chí còn nhìn thấy từng người một – Joseph, dám nháy mắt với nàng, Claude và Daphne Willard, dì Sadie và chú Webster, công tước Bewcastle và quý ngài Rannulf Bedwyn, Elizabeth, công tước Portfrey, em họ Peter, bà nội Kit, gật đầu và cười rạng rỡ, Lily và Neville, dì Clara, ông bà bá tước Redfield. Nhưng chỉ vài phút thôi. Rồi mắt nàng tập trung vào điểm cuối lối đi, nơi có một người đang đứng đợi nàng. Anh không cao bằng cha sở đang đứng một bên anh hay Sydnam đứng ở phía bên kia. Nhưng anh đẹp trai không tin được và ăn vận tao nhã tuyệt vời trong chiếc áo khoác đuôi tôm vừa vặn màu đen, chiếc quần ống túm satin màu ngà và chiếc áo gi lê thêu bằng vải lanh và đôi vớ trắng tinh. Đăng ten vòng quanh cổ và cổ tay anh. Kit! Anh trông rất long trọng và trang nghiêm. Nhưng không! Khi đến gần hơn, Lauren có thể nhìn thấy đôi mắt anh mỉm cười. Không phải với vẻ vui tươi và ranh ma thông thường, và là cái gì đó lấy hết hơi thở của nàng dù nàng biết không hề nghi ngờ gì trong suốt cả tháng nay là anh yêu nàng. Anh viết thư hàng ngày từ Alvesley – đôi khi hai lần một ngày, có một lần viết những ba lần một ngày – để nói với nàng điều đó, thường là với thứ ngôn từ cầu kỳ hoa mỹ kỳ quặc ác liệt mà anh biết là sẽ làm cho nàng phì cười. Đôi mắt anh kéo nàng lại với anh. Chúng làm nàng thấy ấm nồng từ đầu đến ngón chân, chúng nhìn như nuốt lấy nàng, làm nàng thấy mình đẹp, được khao khát và rất được thèm muốn. Đôi mắt anh tôn thờ nàng. Đột nhiên nàng tự hỏi là mình có đang mỉm cười không và nhận ra là có. Nàng cũng sợ hãi như thường bị trong suốt những đêm mất ngủ, trong suốt lúc thay quần áo cho đám cưới, trong suốt thời gian đến nhà thờ và đứng trong hành lang. Ngay cả bây giờ nàng cũng sợ, ngay cả bây giờ khi ông nội đang trả lời những câu hỏi của đức cha và trao bàn tay nàng vào tay Kit, là điều gì đó sẽ xảy ra. Đám cưới – đám cưới của nàng – đang diễn ra, nàng nhận ra điều ấy, nhưng nàng vẫn không thể chú tâm vào nó được. Nàng nghĩ hoàn toàn có thể nàng sẽ ngất đi mất thôi. Anh chưa bao giờ thấy nàng đẹp hơn. Chiếc áo dài satin trắng tỏa sáng lung linh không hề trang trí cầu kỳ ngoại trừ viền gấu và vòng quanh đuôi áo, ở mép tay áo ngắn và viền quanh cổ, cổ áo được viền theo kiểu vỏ sò thanh nhã và trang trí bằng chỉ thêu bạc và hàng trăm – có lẽ hàng ngàn – những viên ngọc trai nhỏ xíu. Chiếc mũ, đôi giày mềm, đôi găng tay dài đều màu trắng, chiếc mũ được tô điểm với chiếc khăn trùm bằng ren tốt nhất, dài qua mặt nàng. Chỗ có màu duy nhất là sợi dây ruy băng màu tím dưới ngực áo, đuôi kéo dài đến tận gấu áo, và bó hoa nhỏ màu tím với những chiếc lá xanh sẫm nàng cầm trong một bàn tay. Anh chưa bao giờ nghĩ ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất trong đời mình. Anh luôn nghĩ rằng những đám cưới – nếu trừ đêm tân hôn – đều chán ngắt mệt mỏi, một việc khá là rối rắm với đàn ông. Nhưng hôm nay anh phải thừa nhận rằng người ta đã nói điều gì đó về sự rập khuôn xưa cũ. Thật ra là, nhiều điều. Ban đầu nàng trông khá là giống Lauren Edgeworth tượng đá ngày xưa. Nhưng rồi, khi mắt nàng tập trung vào anh và nàng bước tới gần hơn, nàng mỉm cười. Trái tim anh loạn nhịp. Lại một sự rập khuôn nữa. Có lẽ đám cưới là dịp để nhân cách hóa những sự rập khuôn. Anh đã không gặp nàng cả tháng qua. Và hôm qua anh khó khăn lắm mới đến được gần nàng. Hôm nay... phải, hôm nay là ngày hạnh phúc nhất trong đời anh. Rồi anh nhìn thấy sự sợ hãi khủng khiếp sau nụ cười của nàng và cảm nhận được sự đông cứng trong bàn tay nàng. Không chỉ là vì căng thẳng hồi hộp. anh biết nàng đủ rõ, Chúa ơi, để hiểu điều đó. Và dĩ nhiên – dĩ nhiên rồi! Anh đã suy nghĩ về tính thích hợp của nhà thờ Newburry – quang cảnh đám cưới đầu tiên của nàng – cho lễ cưới của họ. Nhưng anh đã kết luận là tốt hơn cho nàng nếu tổ chức đám cưới ở đây, để có thể để cho các bóng ma được yên nghỉ. Anh thật ngu xuẩn – ngốc nghếch ngu si – không nhận ra là phần này của ngày sẽ là sự thử thách khủng khiếp thế nào đối với nàng. Anh cố gắng mang lại sự an toàn cho nàng bằng bàn tay anh, bằng đôi mắt anh. Anh cố bao bọc sự an toàn của tình yêu của anh quanh nàng. Anh không chú tâm vào đám cưới nữa. "Ta yêu cầu và giao trách nhiệm cho cả hai con," cha xứ nói khi Kit tập trung trở lại – và anh có thể thấy Lauren cũng đột nhiên lắng tai nghe, "là hai con phải trả lời vào ngày phán xét đáng sợ này, khi những bí mật của tất cả những trái tim được phơi bày, là nếu ai trong hai con biết bất cứ điều gì cản trở lý do hai con không thể kết hợp với nhau hợp pháp vào đời sống vợ chồng, thì hai con phải thú nhận bây giờ; vì ta đảm bảo với các con rằng những cặp vợ chồng đến với nhau theo những cách khác mà không phải được lời của Chúa cho phép, sẽ không được Thiên Chúa kết hợp, và hôn nhân cũng sẽ không là hợp pháp." Bàn tay nàng đông cứng trong tay anh. Không, tình yêu của anh, không ai phá vỡ sự im lặng này đâu. Không có sự ngăn trở nào cả. Trong thời khắc này tất cả đã qua rồi – tất cả nỗi sợ hãi phi lý đó. Dũng cảm lên, tình yêu của anh. "Người phụ nữ này chưa từng kết hôn chứ?" Đã qua rồi. Đã qua rồi. Nàng thả lỏng ngay tức khắc và mỉm cười rạng rỡ với anh. Không có sự cản trở nào cả. Sớm – rất sớm thôi – họ sẽ là chồng và vợ. Kết hợp với nhau thành một cho đến khi cái chết chia lìa họ. Anh vén tấm mạng ra khỏi gương mặt nàng, gập nó qua vành mũ của nàng. Anh mỉm cười với đôi mắt nàng. Tình yêu của anh. Nữ bá tước của anh. Vợ anh. Sự khiếp sợ - sự khiếp sợ ngu xuẩn – đã được lãng quên. Ký tên vào sổ đăng ký, chuông nhà thờ rung lên từng hồi vui tươi báo cho thế giới bên ngoài, tiếng đàn vang lên tưng bừng hân hoan, cặp vợ chồng mới cưới quay bước lại trên lối đi giữa giáo đường, mỉm cười với tất cả họ hàng và bạn bè, và mọi người cũng cười lại với họ. Nhưng vài sự tụ tập không thể chờ đợi được. Những người họ hàng của cả hai gia đình và vài người khác len ra ngoài và tự trang bị cho mình trước khi Kit và Lauren bước ra ánh nắng mặt trời và người trong làng bùng lên chúc mừng, gần như tất cả mọi người đã tụ tập ở cửa ra vào và cỗ xe ngựa để mở - trang hoàng phong phú với những dây ruy băng và những dải giấy màu trắng – cỗ xe sẽ chở họ đến tu viện cho bữa tiệc cưới. Những người họ hàng đã xếp hàng dọc theo hai bên lối đi của sân nhà thờ, ai nấy đều cười toe toét đầy hiểm độc, người nào cũng được trang bị hàng đống lá cây khô. "Hmm," Kit nói khi Lauren cười rạng rỡ với mọi người xung quanh. Không gì có đủ sức làm hỏng niềm hạnh phúc ngày cưới của nàng. "Chúng ta sẽ co mình lại vào giữa đám đông và hy vọng thoát khỏi tầm nhìn của họ vài phút nhé? Hay là chúng ta chạy băng qua?" "Rất không đàng hoàng," nàng nói, "nếu làm hỏng niềm vui của họ." "Không đàng hoàng." Anh cười nhăn với nàng. "Vậy để nó xảy ra vậy. Nhưng họ sẽ thất vọng nhiều nếu chúng ta chúi đầu xuống và chạy qua. Ta sẽ làm họ thất vọng chứ?" "Chắc chắn," nàng đồng tình, khoác tay anh và điềm tĩnh bước xuống lối đi trong sân nhà thờ với anh, mỉm cười và vẫy tay và bị tưới bởi những chiếc lá đầy màu sắc rực rỡ. Họ vẫy chào đám đông lần nữa khi Kit giúp nàng vào trong cỗ xe và rồi nhảy tót lên ngồi cạnh nàng. Người đánh xe quát lên ra lệnh với giọng hiền lành, và đám đông rẽ ra để họ đi qua, chiếc xe tròng trành chuyển động, và Kit ném tung ra hàng nắm tiền xu để sẵn trên ghế ngồi. Khách dự đám cưới bắt đầu tràn ra khỏi nhà thờ. Bàn tay Kit tìm bàn tay Lauren và ấm áp nắm chặt lấy nó. Họ nhìn nhau, mỉm cười khi cỗ xe chậm rãi chạy vòng qua bãi cỏ trước khi đi vào giữa hai cột cổng vào trong công viên. "Cuối cùng cũng được ở một mình với nhau," anh nói. "Hoặc là gần như một mình. Tháng vừa rồi thật dài vô tận." "Phải, nhưng nó qua rồi." Đôi mắt nàng lóng lánh những giọt nước mắt bất ngờ. "Và sáng nay cũng qua rồi." Anh siết bàn tay nàng chặt hơn. "Mọi việc đều hoàn hảo," anh nói. "Vợ anh ạ. Luôn luôn và mãi mãi là vợ anh, Lauren. Luôn luôn và mãi mãi là tình yêu của anh." "Tình yêu của em," nàng nhẹ nhàng lặp lại. Rồi nụ cười của nàng rạng rỡ hơn. "Ôi, Kit, em rất vui vì anh đã đánh nhau trong công viên hôm đó và em đi ngang qua. Em rất vui là anh đã có cuộc đánh cược quá quắt đó với bạn anh. Em rất vui-" Anh nghiêng đầu qua và hôn nàng. Từ sau lưng họ, một tràng la ó chúc mừng dậy lên. Và một tiếng huýt sáo lảnh lót. Tiếng chuông nhà thờ vang lên từng hồi vui vẻ. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Để Nhớ của tác giả Mary Balogh.
Tấn Trò Đời - Honoré de Balzac
Honoré de Balzac dành nhiều công sức, thời gian cho việc viết tiểu thuyết và phần lớn số tiểu thuyết ông viết được gộp chung thành tác phẩm duy nhất mang tên La Comédie humaine (bản dịch tiếng Việt có tên gọi Tấn trò đời) Tấn trò đời gồm khoảng 95 tác phẩm được Balzac gộp lại vào năm 1842, gồm 3 phần: nghiên cứu về thói quen, nghiên cứu triết học và nghiên cứu bản chất. Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập. Người ta có thể hiểu một tác phẩm mà không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. Ví dụ trong chuyện này, nhân vật A có thể là nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta lại là nhân vật phụ, là một người có liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm xã hội là một chỉnh thể, tất cả các sự kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả ấn tượng như đang sống trong một xã hội có thực. Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn trò đời là một khối thống nhất vì tất cả cùng vẽ nên bức tranh xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ 19. Tựa đề "Tấn trò đời" được Balzac đặt theo tên tác phẩm Vở kịch thần thánh (Divina commedia) của Dante Alighieri (1265-1321). Balzac muốn cho thấy ý định của ông khi viết các tác phẩm trong "Tấn trò đời": tả về cái địa ngục ngay giữa xã hội con người. Nhà văn có đụng ý chọn cái tên đối lập với tên tác phẩm nổi tiếng của Dante có thiên đường và địa ngục. Balzac đã có ý định tập hợp các tác phẩm từ rất sớm. Năm 1830, ông đã cho in 6 tác phẩm vào một quyển sách chung với nhan đề Cảnh đời tư. Hai năm sau Cảnh đời tư được bổ sung thêm hai tác phẩm nữa. Năm 1834 sự tập hợp mở rộng thêm một bước, nhiều tác phẩm được sắp xếp dưới một nhan đề chung là Khảo cứu phong tục, chia làm 6 cảnh, đồng thời nhà văn còn dự kiến có thêm các phần Khảo cứu triết học và Khảo cứu phân tích. Năm 1842, ý định tập hợp và sắp xếp các tác phẩm thành hệ thống của Balzac mới thực hiện được đầy đủ. Nhan đề dự kiến trước đó Khảo cứu xã hội được thay bằng Tấn trò đời. Do ông mất khi mới 51 tuổi nên nhiều tiểu thuyết chỉ có tên chứ chưa có nội dung.  Tấn trò đời được chia làm ba phần: Khảo cứu phong tục, gồm 6 cảnh: Cảnh đời tư (32 tiểu thuyết, đã viết xong 28), Cảnh đời Paris (20 tiểu thuyết, đã viết xong 14), Cảnh đời chính trị (8 tiểu thuyết, đã viết xong 4), Cảnh đời quân sự (23 tiểu thuyết, đã viết xong 2), Cảnh đời nông thôn (5 tiểu thuyết, đã viết xong 3) Khảo cứu triết học (27 tiểu thuyết, đã viết xong 22) Khảo cứu phân tích (5 tiểu thuyết, đã viết xong 1) Tấn Trò Đời có tất cả 16 tập:   Tấn Trò Đời Tập 1-Khảo Luận (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 446 Trang Tấn Trò Đời Tập 2-Lão Goriot (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 489 Trang Tấn Trò Đời Tập 3-Luật Đình Chỉ (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 595 Trang Tấn Trò Đời Tập 4-Những Người Độc Thân (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 485 Trang Tấn Trò Đời Tập 5-Gaudissart Trứ Danh (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 356 Trang Tấn Trò Đời Tập 6-Vỡ Mộng (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 699 Trang Tấn Trò Đời Tập 7-Truyện Mười Ba Người (NXB Thế Giới 2000) - Balzac, 360 Trang Tấn Trò Đời Tập 8-Bức Thăng Trầm Của Kỹ Nữ (NXB Thế Giới 2000) - Balzac, 616 Trang Tấn Trò Đời Tập 9 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 10 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 11 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 12-Những Cảnh Đời Chính Trị (NXB Thế Giới 2001) - Balzac, 384 Trang Tấn Trò Đời Tập 13 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 14-Bông Huệ Trong Thung (NXB Thế Giới 2001) - Balzac, 321 Trang Tấn Trò Đời Tập 15 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 16 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Mời các bạn đón đọc bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn Trò Đời của tác giả Honoré de Balzac.
Nghệ nhân và Margarita - Mikhail Bulgakov
M.Bulgakov - Bản thảo không bị cháy Từng chương, từng trang sách, đều ẩn chứa trong đó những hàm ý triết học được "phổ" vào ngay cả những sự kiện xoàng xĩnh, khôi hài đến thảm hại của một hiện thực rã nát trong thế giới văn nhân. Và toàn thể tiểu thuyết là một tuyên ngôn nghệ thuật mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá không ngưng nghỉ. Nghệ Nhân là nhà văn vừa hoàn thành tiểu thuyết, viết về hai nhân vật Lesua và Ponti Pilat: Một là nhà triết học lang thang và một là quan tổng trấn quyền uy. Lesua đã bị gài bẫy, bị bắt và bị hành hình vì những rao giảng của mình. Cái chết của Lesua đã trở thành nỗi ám ảnh kéo dài suốt hai nghìn năm, không để cho Ponti Pilat được yên, bởi quan tổng trấn đã không thể "cứu" được Lesua khỏi án chết, như ước muốn bí mật chỉ riêng ông biết. Số phận của Nghệ Nhân cũng không hề may mắn hơn: Tác phẩm của anh bị nguyền rủa và khai tử bởi các đồng nghiệp ngay từ lúc chưa công bố, dẫn đến việc anh bế tắc, tuyệt vọng, tự đốt bản thảo và tìm đến nhà thương điên, trốn chạy cả tình yêu định mệnh của Margarita… Chỉ có quỷ sứ mới cứu nổi nhà văn. Và quả thật quỷ sứ đã xuất hiện. Phần lớn số trang của tiểu thuyết đã dành để mô tả những gì mà chúa quỷ Voland và đoàn tùy tùng đã "quậy tưng" thành phố Moscow lên theo cách nào. Bằng những phép thuật được sử dụng như thuốc thử, Voland đã buộc giới văn nhân tự lộn trái mình ra, bộc lộ những phẩm chất tồi tệ: Bất tài, dối trá, ăn bám và hám lợi. Quả thật, Bulgacov với "Tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực" đã nén đến tối đa những vấn nạn văn chương - tư tưởng, nhằm khẳng định khát vọng của nhà văn. Nó ở trong lời đáp của Voland khi Nghệ Nhân lên tiếng hỏi mình có nên chạy theo Ponti Pilat không: "Không, chạy theo dấu vết của cái đã kết thúc để làm gì?…Chẳng lẽ anh không muốn giống như Faust, ngồi bên chiếc bình cổ cong với niềm hy vọng mình sẽ tạo ra được một giống Homuncul mới?". Nếu Nghệ Nhân - nhà văn trong tiểu thuyết khá mềm yếu và thụ động thì Bulgacov - nhà văn ngoài đời thực hoàn toàn ngược lại. Mạnh mẽ, quyết liệt, Bulgacov đã gửi một bức thư dài đến chính phủ Liên Xô: "Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi - tiểu thuyết Sân khấu…Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống… Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu. Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin chính phủ Xô viết xử trí tôi như chính phủ thấy cần thiết…". Bức thư đã được gửi đi vào trước thời điểm mà Maiakovski đã dùng súng tự bắn vào đầu. Sự quyết liệt ấy đã thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết, ở những đối thoại giữa giữa Lesua - Pilat. Iesua đã trả lời Pilat, nhắc lại những gì mà vì nó, nhà triết học phải bước lên đoạn đầu đài: "Tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên… Bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc sẽ không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả…". Có lẽ sự quyết liệt ấy đã giúp cho "bản thảo không bị cháy", cho dù Nghệ Nhân, cho dù chính Bulgacov đã đốt nó. *** Năm 2006, Mikhail Bulgakov, một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ bí nhất của nước Nga, tròn 115 tuổi. Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử, như lời khẳng định của một nhà văn Nga: “Bulgakov – nhà văn đang sống và sẽ sống chừng nào còn tồn tại văn học Nga”. Hơn thế nữa, mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông liên tục được in, tái bản, dịch, dựng phim… Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu “Bulgakov học”. Ông là một trong số rất ít nhà văn ở Nga được làm “Bách khoa toàn thư”; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet. Nghệ nhân và Margarita là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của M. Bulgakov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt hai mươi năm trước, có thể nói đây là công trình dịch thuật công phu và tâm đắc nhất của tôi. Tuy nhiên, có một sự thật là, khác với ở nước Nga và phương Tây, kiệt tác này không thật sự được phổ biến và tiếp nhận rộng rãi ở bạn đọc Việt Nam – có lẽ là do những khác biệt nhất định về văn hóa. Lần này, 65 năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng tôi xin tái bản lại bản tiếng Việt trong một nỗ lực tiếp tục đưa Bulgakov đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc trẻ tuổi, thế hệ mà tôi hi vọng sẽ dễ dàng tiếp cận Nghệ nhân và Margarita hơn. Ngoài bản dịch cuốn tiểu thuyết, chúng tôi đưa thêm phần Phụ lục để phần nào giúp bạn đọc trong việc cảm thụ tác phẩm này. Hà Nội, 27 tháng 1 năm 2006 Ðoàn Tử Huyến *** Một buổi chiều mùa xuân, vào cái giờ mặt trời lặn nóng chưa từng thấy, trong công viên Hồ Pat’riarsi1 ở Moskva xuất hiện hai vị nam công dân. Người thứ nhất dáng thâm thấp, béo tốt, hói đầu, mặc bộ quần áo mùa hè màu xám nhạt, chiếc mũ còn khá lịch sự bóp lại cầm trong tay, cặp kính gọng sừng đen to quá cỡ ôm ngang khuôn mặt cạo kỹ lưỡng. Người thứ hai còn trẻ, vai rộng, tóc vàng hung rối bù, mũ cát két sọc vuông đội lệch ra sáu gáy, áo sơ mi kẻ ô, quần dài trắng nhàu nát và chân đi đôi giày vải đen. Người thứ nhất không phải ai khác, mà chính là Mikhail Aleksandrovich Berlioz2, chủ tịch ban chấp hành của một trong những hiệp hội văn học lớn nhất Moskva, viết tắt là MASSOLIT3, và ông đồng thời cũng là tổng biên tập một tờ tạp chí văn học lớn; còn người bạn đường trẻ của ông là nhà thơ Ivan Nikolaievich Ponưrev, bút danh Bezdomnưi4. Bước vào dưới dãy bóng râm của hàng cây lipa5 đang bắt đầu nhú lá xanh, việc đầu tiên của hai nhà văn là chạy vội đến bên chiếc quầy dựng bằng ván sơn sặc sỡ với dòng chữ “Bia và nước giải khát”. Mà quên, có lẽ cần phải thông báo ngay cho bạn đọc biết điều kỳ lạ thứ nhất của cái buổi chiều tháng Năm khủng khiếp này. Ðó là, không chỉ ở cạnh quầy giải khát, mà suốt dọc cả con đường có trồng cây chạy song song với phố Malaia Bronnaia cũng không thấy một bóng người nào. Vào cái giờ đó, khi hình như mọi người đã hết cả sức để thở, khi vầng mặt trời, sau một ngày thiêu đốt Moskva, đang bọc mình trong màn sương khô lặn xuống một nơi nào đấy phía sau tuyến đường vòng Sadovoie, chúng ta không hề gặp một ai đi dạo hóng mát dưới bóng hàng cây lipa, không thấy một người nào ngồi trên những chiếc ghế băng “suốt dọc con đường dài vắng tanh vắng ngắt.” “Cho cốc nước khoáng narzan”, Berlioz nói với người đàn bà bán hàng. “Không có narzan đâu”, người đàn bà trong quầy đáp, và không hiểu tại sao bà ta lại tỏ vẻ phật ý. “Có bia không?” Bezdomnưi hỏi bằng giọng khàn khàn. “Bia tối mới chở về”, người đàn bà trả lời. “Thế có gì?” Bezdomnưi lại lên tiếng. “Nước mơ ấm”, người đàn bà nói. “Thôi được, cho xin, cho xin, cho xin!…” Hai cốc nước mơ sủi rất nhiều bọt màu vàng, và trong không khí bốc lên một thứ mùi như ta thường thấy trong các cửa hiệu cắt tóc. Uống xong, hai nhà văn lập tức đua nhau nấc cụt; họ trả tiền và ngồi xuống một chiếc ghế băng, mặt ngoảnh ra hồ, lưng quay về phía phố Bronnaia. Ðúng lúc đó bắt đầu xảy ra điều kỳ lạ thứ hai của buổi chiều hôm đó, nhưng nó chỉ liên quan tới một mình Berlioz: ông bỗng thôi nấc, tim bỗng đập mạnh một cái rồi lặn hẫng đi đâu mất; và thoáng sau nó trở lại nhưng hình như có kèm theo một mũi kim tù nằm mắc bên trong. Thêm vào đó, Berlioz bỗng cảm thấy một nỗi sợ hãi vô cớ nhưng rõ rệt đến nỗi ông muốn ngay lập tức bỏ chạy khỏi nơi đây không ngoái lại. Không hiểu cái gì khiến ông hoảng sợ, Berlioz đưa mắt rầu rĩ nhìn quanh. Mặt ông tái mét; ông lấy khăn mùi soa lau trán, nghĩ thầm: “Cái gì xảy ra với mình thế này nhỉ? Trước đây chưa bao giờ như vậy cả… Hình như tim mình bị sao ấy… Mình mệt mỏi quá rồi. Có lẽ cần phải vứt tất cả lại để đến nghỉ ở Kislovodsk6 thôi…” Ðúng lúc đó, làn không khí oi ả bỗng cô đặc lại trước mắt Berlioz, tạo thành một người đàn ông trong suốt có hình thù hết sức kỳ dị. Trên mái đầu nhỏ tí của anh ta là chiếc mũ lưỡi trai của dân đua ngựa, áo vét kẻ ô mỏng ngắn cũn cỡn… Người này cao khoảng một sagien, nhưng vai hẹp, gầy không thể tưởng được, và bộ mặt, xin bạn đọc lưu ý cho, đầy vẻ nhạo báng! ... Mời các bạn đón đọc Nghệ nhân và Margarita của tác giả Mikhail Bulgakov.
Bến Hẹn - Janet Dailey
Mỗi người trong đời, không ai là không có lần đã lỗi hẹn với người yêu.  Thay vì cầm tay nhau tiến bước tới bến hẹn hạnh phúc, thì lỗi hẹn khiến hai người yêu nhau mỗi người phải rẽ sang một hướng đường khác. Đôi khi lỗi hẹn khiến cho người ta tìm đến được bến hẹn hạnh phúc mới, mà cũng có khi khôn. Nhưng dù thế nào, thì cũng có không ít người suốt đời cứ mãi luyến tiếc khôn nguôi đến "bến hẹn" của mối tình đầu dang dở. "Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Sh-annon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao lên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường sá mọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như San-non nghĩ. Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô đã kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc mày hạt dẻ cho thẳng mặc dù mới cách đấy mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm xờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô, khiến cô cảm thấy hơi khó chịu. Nhưng bây giờ cô hy vọng anh vẫn nghĩ về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5 giờ, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. *** Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. *** Một số tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang *** Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Shannon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao bên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường xá dọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. "Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như Shannon nghĩ". Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc hạt dẻ cho thẳng, mặc dù mới cách đây mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm sờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5h, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. Cô gặp anh từ ấy đến nay đã lâu, cô đã sống cô đơn suốt nhiều tháng trời. Cô nhớ cô đã khóc rất nhiều ở phi trường vào hôm Rick lên đường đi Alaska, nhớ những lời họ hứa hẹn với nhau, nhớ những nụ hôn vồ vập trước giờ anh đi. Thỉnh thoảng anh viết thư về, có khi anh gọi điện thoại, có khi anh gửi thư điện tử về cho cô. Nhưng tất cả những chuyện đó không làm sao lấp đầy được nỗi trống trải trong cô. Nhiều bạn gái đã khuyên cô nên bỏ anh, tìm người yêu khác, nhưng Shannon không nghe. Cô biết anh là phi công vùng hoang dã. Cô không mong chờ anh ngồi bên điện thoại để đợi cô gọi đến, mà cô biết anh đang ở đâu đó ngoài vùng hoang dã. Cô nghĩ anh đang chiêm ngưỡng cảnh đẹp huy hoàng trên Trái Đất này. Ít ra cô đã suy nghĩ như thế. Nhưng có phải làm phi công là không có thì giờ rảnh rỗi, để nói lời xin lỗi vì đã để cô chờ đợi và lo âu? Rick đã hứa với cô rằng, khi nào anh có được công việc ổn định và có chỗ ở hẳn hoi để hai người cùng sống, thì anh sẽ báo cô đến. Anh không nói bao lâu thì anh có công việc ổn định. Cách đây hơn một tháng anh có nhắn tin về, vào cuối tháng bảy, bằng thẻ điện thoại, nhưng hôm đó cô đi vắng. Rick để lại cho cô số máy nhắn tin, anh cho biết số máy này của anh còn hiệu lực cho đến cuối tháng 8. Cô thấy như thế còn hơn không... Nhưng Shannon không khỏi lo lắng. Rồi vào đầu tháng 9, cô nhận được bức thư Tốc hành liên bang. Trong phong thư có vé máy bay bằng loại giấy theo kiểu cổ điển rất đẹp, để đến Anchorage. Ngoài ra không còn gì nữa, không thư, không lời ghi chú gì. Nhưng cái vé chỉ đi một chuyến. Như vậy vấn đề quá rõ rồi: Rick muốn cô đến với anh. Sự lo sợ lâu nay của cô rằng anh hết yêu cô đã tan biến. Và bây giờ Shannon đang trên đường đến nơi cùng xây tổ ấm. Cô đã chuẩn bị để lên đường không quá lâu một tuần. Cô chỉ mang theo những thứ cần thiết, còn lại bao nhiêu sẽ gởi bằng tàu thủy sau. Bố mẹ cô sẽ bay đến vào cuối tuần lễ sau để dự lễ cưới. Dĩ nhiên hai ông bà đều tin rằng cả cô và Rick đều điên. Cô nghĩ ý kiến của bố mẹ cũng dễ hiểu thôi. Từ bỏ vịnh Texas ấm áp để đến vùng Alaska lạnh cóng, đối với nhiều người thì đây là hành động điên khùng. Nhưng Shannon đã lây tính phiêu lưu mạo hiểm của Rick từ ngày họ gặp nhau. Anh muốn sống tại vùng xa xôi nhất của nước Mỹ, và cô đã chia sẻ phần nào mong ước của anh. Nhưng cô biết chuyến phiêu lưu của họ không phải đi đến thiên đàng. Thôi thì mặc. Bây giờ cô đến Alaska rồi. Bố mẹ cô đã châm biếm nói rằng cô đi theo tiếng gọi của vùng hoang dã. Họ đã cố làm cho cô nản chí, nhưng họ đã thất bại. Dù sao thì cô và Rick cũng đã đính hôn hơn một năm rồi. Cô phải đến đây để thành hôn với anh là điều rất chính đáng. Mặc dù đồ đạc trên tay nặng nề, nhưng bước chân của cô nhẹ nhàng và nhanh nhẹn khi đi xuống cầu thang máy bay. Cô nhìn đám người lưa thưa đứng đợi ở bên kia cổng phi cảng để tìm Rick. Anh cao lêu nghêu và mái tóc vàng nhạt hấp dẫn. Cô nhìn từng khuôn mặt đàn ông tìm Rick, bất kể họ đang nhìn chằm chằm vào cô. Nhưng anh đâu nhỉ? Cô chậm lại. Bỗng người đi sau thúc lưng cô, khiến cô phải bước ra ngoài hàng để nhìn quanh tìm Rick thêm một lần nữa. Cặp mắt nâu xinh đẹp bỗng trở nên bối rối. Cô không tìm thấy anh ở đâu hết. ... Mời các bạn đón đọc Bến Hẹn của tác giả Janet Dailey.