Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lằn Ranh Sinh Tử - Tim Winton

Pike đã từng trải qua thời khắc cận kề cái chết khi còn là một cậu bé tuổi 15: bị sóng vùi dập lúc trượt ván nước một mình - vùng vẫy trước cơn sóng cuồn cuộn của đại dương, bị hất văng khỏi tấm ván trượt và rơi xuống biển, hoảng loạn và mất phương hướng, cố hít thật nhiều hơi và thở sâu vội vã... Sóng cuốn xô đẩy đập vào những mỏm đá, rồi nhấn chìm cậu dưới làn nước lạnh buốt khiến cậu gần như bị tê cóng, ngạt thở... Nhưng chính bản năng sinh tồn trỗi dậy đã giúp cậu vượt qua hiểm nguy, và từ đó, cậu thấu hiểu tận tâm can hơi thở quý giá như thế nào! Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường không bận tâm nhiều đến hơi thở, luôn coi sự tồn tại của nó như một lẽ đương nhiên. Nhưng đến khi "hơi thở" có vấn đề, sẵn sàng dẫn đến tình trạng ngưng bặt, ta mới nhận ra sự "có mặt đương nhiên, bình thường" ấy lại quyết định cả mạng sống. Với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, nhưng đầy kịch tính, "Lằn ranh sinh tử" dẫn bạn dõi theo một câu chuyện lôi cuốn, đầy xúc động, qua đó, bạn càng hiểu rõ hơn tính chất vô giá của hơi thở, từ đó biết trân trọng, bảo vệ nó vì đây chính là "lằn ranh" mong manh giữa sự sống và cái chết. *** Chúng tôi chạy qua con đường phố có hai hàng cây xanh với đèn chớp và còi hụ, và khi bộ phận định vị GPS yêu cầu quẹo trái vào con đường kế tiếp, chúng tôi đã quẹo quá nhanh đến nỗi tất cả các thiết bị trên xe va đập vào nhau và chuyển dịch tứ tung. Tôi chẳng nói tiếng nào. Ớ đằng kia con đường ngoại ô sẫm tối, tôi có thể thấy ngôi nhà được rọi sáng giống như một chiếc tuần dương hạm. - Vào trong đó đi - Cô ta nói khi tôi chưa kịp nhìn rõ ngôi nhà. - Cảm thấy thoải mái khi đi chậm lại. - Ông bị căng thẳng hả, Bruce? - Cũng gần như thế - Tôi lẩm bẩm. Nhưng sự thật là tôi thấy tươi tỉnh. Như thế mỗi khi tôi cảm thấy dễ chịu, khi các đầu dây thần kinh reo vui, và trong lòng tôi đã có sự dự đoán. Đây là một sự chuyển biến lâu dài, chậm chạp, và chẳng bao giờ mất đi một chút tình cảm nào giữa Jodie và tôi. Vào lúc bàn giao, tôi tình cờ nghe một cuộc nói chuyện mà mình không được phép nghe. Nhưng đó là vài giờ trước đây. Giờ đây tôi đang cảnh giác và bồn chồn lo sợ. Đi đến địa chỉ của cuộc gọi, Jodie tắt còi hụ và quay xe lại để đi ngược con dốc. Tôi nghĩ cô ta có vẻ hãnh diện và tự kiêu với sự ý thức về năng lực của mình. Như vậy không phải là xấu, nhưng chỉ hơi non nớt thôi. Jodie không biết, nhưng tôi đã có những đứa con gái bằng tuổi của cô ta. Khi Jodie kéo cái thắng tay và gọi chúng tôi vào làm việc, tôi liền nhảy xuống mở cánh cửa bên hông để lấy túi đồ cấp cứu. Bên dưới các bậc cửa và trên bãi cỏ đẫm sương là một người đàn ông trung niên nằm co ro im lặng, trong thoáng chốc, tôi đã có thể thấy rằng mặc dù có lẽ bị gãy xương đòn, ông ta vẫn không phải là người thuộc trách nhiệm của chúng tôi. Thế nên tôi để mặc ông ta cho Jodie và tiếp tục bước vào nơi khung cửa tự giới thiệu. Trong phòng khách có hai đứa con gái tuổi mới lớn đang lui cui ở hai đầu cái trường kỷ bằng da. - Trên kia à? - Tôi hỏi. Một đứa chỉ lên mà chẳng buồn ngước đầu dậy, và tôi biết ngay rằng nhiệm vụ của mình chỉ là gói ghém và đưa đi thôi. Thường ngày nhìn thấy bộ sắc phục thì chúng vui mừng hi vọng, nhưng chẳng một đứa nào thèm liếc nhìn tôi. Tìm phòng ngủ không khó. Ngoài hiên có một vũng nôn. Những mảnh gỗ vụn. Tôi bước qua cái cửa bị gãy và nhìn thấy người mẹ nơi chiếc giường có đứa con trai đang nằm, và trong khi tự giới thiệu, tôi đã hiểu hết tất cả. Căn phòng xông lên mùi nước tiểu với mùi thuốc sát trùng, có thể thấy rõ là bà ta đã cắt dây đem đứa con trai xuống, thay đồ cho nó và sửa soạn cho thật tươm tất. Tôi lách vào bên bà ta và làm công việc của mình, nhưng đứa con trai đã chết. Nó vào khoảng mười bảy tuổi. Có dấu dây buộc trên cổ và nhiều vết bầm trước đó xung quanh. Dù tôi chỉ khám lấy lệ nhưng tôi thấy bà vẫn vuốt ve mái tóc đen xoắn của đứa con trai. Một đứa con trai khôi ngô. Bà đã tắm rửa cho nó. Mình nó thơm mùi xà phòng Pears và mùi quần áo mới ủi. Tôi hỏi tên bà, tên cậu con trai, bà nói tên bà là June, còn đứa con trai là Aaron. - Tôi rất tiếc, bà June, con bà đã chết rồi. - Tôi biết mà. - Bà đã tìm thấy nó ít phút trước, trước khi bà gọi điện thoại? Bà không nói gì. - Bà June này, tôi không phải là cảnh sát. - Họ đang đến. - Tôi mở cái tủ áo có được không? - Tôi hỏi vừa lúc Jodie bước vào cửa. - Tôi xin ông đừng mở, bà June nói. - Được. Nhưng rồi cảnh sát cũng sẽ mở. - Họ nhất định phải mở sao? Lần đầu tiên tôi thấy người mẹ nhìn tôi một cách nghiêm trọng. Bà là một phụ nữ xinh đẹp ở cái tuổi ngoài bốn mươi với mái tóc ngắn, màu đen, và đôi bông tai thòng xuống duyên dáng. Tôi hình dung khoảng một giờ trước đây, khi lớp son môi và cuộc sống của bà hãy còn yên ổn, hẳn bà là con người cương nghị và tự tin, thậm chí có phần cao ngạo. - Công việc của họ là vậy, thưa bà. - Có vẻ như ông cũng chỉ… giả định. - Bà June này - Tôi nói và liếc nhìn Jodie - Có thể nói là trong đời tôi, tôi đã từng được thấy một vài câu chuyện. Nói thực ra, tôi không thể kể lại với bà. - Vậy ông hãy nói cho tôi biết vì sao xảy ra chuyện này, tại sao nó lại gây ra cái chuyện này cho mình! - Tôi đã gọi một một chiếc xe nữa rồi - Jodie nói. - Đúng đấy - Tôi nói khẽ - Thưa bà June, đây là Jodie, cô ấy sẽ làm việc với tôi tối nay. - Hãy nói tiếp đi và cho tôi biết vì sao! - Vì chồng của bà bị gãy xương đòn - Jodie nói - Ông ấy húc vào cánh cửa này, phải không? - Vậy tôi sẽ nói với họ thế nào? - Người mẹ hỏi, làm như không biết đến Jodie. - Thật ra thì tuỳ bà quyết định - Tôi nói - Nhưng nói ra sự thật thì cũng chẳng có gì xấu hổ. Như vậy mới là công bằng đối với mọi người. Người đàn bà kia lại nhìn tôi một lần nữa. Tôi ngồi xổm trước mặt bà bên cạnh cái giường. Bà ta vuốt nhẹ chiếc váy trên đầu gối. - Chiếc váy này mỏng quá - Bà lẩm bẩm. Tôi cố nở một nụ cười thân thiện với bà nhưng cảm thấy mặt mình trơ cứng. Phía sau bà, tôi có thể nhìn thấy những tấm ảnh lớn thường gặp trên tường: những nhà lướt ván, những tay leo núi, những người phụ nữ trong các tư thế khiêu gợi. Cái kệ sách bên trên chiếc bàn trưng bày những thành tích thể thao cùng những món đồ lưu niệm mua từ Bali và chiếc máy vi tính hiển thị quay vòng hình ảnh toà tháp đôi sụp đổ. Bà nắm lấy bàn tay tôi và tôi đưa tay mình cho bà. Người bà cũng chẳng ấm áp hơn đứa con đã chết của bà. - Sẽ không có ai hiểu cho đâu. - Vâng - Tôi nói - Có lẽ là không. - Ông cũng có con chứ? - Phải. Có tiếng cửa xe đóng sầm dưới đường. - Bà June, bà vui lòng ở lại đây một mình với Aaron trước khi cảnh sát vào, được chứ? - Tôi đã có được một thời khắc dễ chịu - Bà nói và buông tay tôi ra để vỗ nhẹ mơ hồ lên mái tóc mình. - Jodie, nhờ cô xuống dưới bảo cho cảnh sát biết chúng ta đang ở đâu nhé. Jodie khoanh tay cáu kỉnh nhưng rồi bước đi với chòm tóc đuôi ngựa đong đưa. - Cô gái này không thích anh. - Vâng, không thích cho lắm. - Vậy thì tôi nên làm gì? - Tôi không thể khuyên gì bà được, thưa bà. - Tôi còn phải lo cho mấy đứa con nữa. - Vâng. - Và một ông chồng. - Tôi e rằng ông ấy phải vào bệnh viện. - Cũng may cho ông ấy. Tôi đứng lên thu dọn bộ dụng cụ của mình. Bà ta đứng dậy, vuốt vuốt chiếc váy và nhìn lại đứa con trai nằm trên giường. - Bà có cần tôi gọi giúp cho ai nữa không? Jodie và hai viên cảnh sát xuất hiện nơi cửa. - Gọi ai ư? - Bà June nói - Ông có thể gọi cho con tôi trở về. Ông thấy đó, nó đâu có nghe lời mẹ nó. Khi chúng tôi sắp trở về trạm nghỉ ngơi thì Jodie phá vỡ sự im lặng. - Vậy anh định đến khi nào mới cho chúng tôi biết về tất cả mọi chuyện? - Tất cả chuyện gì? - Chuyện về người phụ nữ tội nghiệp này. Có một lúc ở đấy tôi nghĩ là anh đã tán tỉnh bà ta. - Được, cô có thể ghi thêm chuyện ấy vào trong nội dung tố tụng của cô. - Kìa, tôi xin lỗi nhé. - Kiêu căng, lạnh nhạt, thành kiến với giới tính, thiếu cởi mở. Rõ ràng là tôi đã không nắm hết mọi chuyện, vì đến trễ. Nhưng, Jodie, hãy nhớ rằng tôi không phải là một cựu chiến binh tại Việt Nam. Dù cô có tin hay không tin, nhưng khi ấy tôi chưa đủ tuổi. - Tôi thấy thật ghê sợ, đúng không? - Vậy hãy nên thay đổi công việc. Hãy làm khách mời của tôi. Nhưng đừng gièm pha như lúc bàn giao ỗ giữa nhà kho mà cô quay lưng ra cửa. Như vậy không phải là thân thiện và chuyên nghiệp. - Kìa, tôi đã nói là tôi xin lỗi mà. Khi nhìn lại Jodie, trong ánh đèn của một xe tải chạy qua, tôi thấy cô ta gần như đang khóc. Cô ta gục đầu trên tay lái. - Cô không sao chứ? Jodie gật đầu. Tôi hạ kính xe xuống. Thành phố nồng sặc mùi cỏ ướt và khói thải. - Tôi không ngờ là chuyện này làm tôi xúc động mạnh đến thế. - Chuyện gì? - Đây là vụ tự tử đầu tiên tôi gặp - Cô ta lẩm bẩm. - Phải, ghê thật. Nhưng đâu phải là tự tử. - Trời ơi, Bruce, người ta đã phải phá cánh cửa vào để cắt và đem nó xuống. Thằng nhỏ đã tự treo cổ. - Rủi ro thôi. - Nhưng sao anh biết thế? - Tôi là người biết tất cả. Cô không nhớ à? Cô ta nhăn mặt và tôi bật cười. - Này, anh là một người kỳ lạ. - Tôi cũng nghĩ thế. - Anh không định nói cho tôi biết sao? Tôi không tin là anh sẽ không nói. Tôi ngồi ở đó một lúc, nghĩ về những con người tội nghiệp đã làm sạch sẽ hiện trường trước khi chúng tôi tới. Bà mẹ ngồi đấy, băn khoăn với những nhục nhã, ngượng ngùng. Những đứa trẻ khác dưới kia sững sờ vì cú sốc. Người cha trên bãi cỏ ngoài kia trông như một pho tượng. - Hãy để lúc khác - Tôi nói. - Được - Cô ta nói - Tôi cứ chờ đó. Chúng tồi lặng lẽ chạy trở về nhà để xe. Tôi lao sâu vào đám sa mù dày đặc bên dưới mặt biển, xuyên qua bao lớp bọt tăm cho đến khi hết mọi nhiễu loạn, thì tôi gục người rũ rượi giữa vùng sáng xanh mờ nhạt trong khi tất cả hơi nóng nơi lồng ngực tôi tan đi và sự sống rút dần ra khỏi cơ thể tôi. Thế rồi một luồng ánh sáng trắng từ trên rọi xuống. Một người nào đó trên mặt nước đang bơi lại. Người đó nắm lấy tôi, kéo lê đi, và thổi không khí vào trong tôi nghe nóng như là luồng máu. Anh ta dúi xuống rồi ngưng lại, và tôi nhận thấy bộ mặt của mình qua bóng tối, ngập ngừng ở khoảng xa một cánh tay, có vẻ như không biết nên làm gì. Miệng tôi mở ra. Một chuỗi bong bóng sáng ngời tuôn ra và tôi không sao hiểu được. Rồi tôi thức dậy với tiếng lầm bầm trên chiếc trường kỷ trong căn hộ trống, nơi có nắng chiều xuyên ngang qua khung cửa trượt, vẫn còn mặc bộ sắc phục. Nơi này bốc mùi mồ hôi cùng mùi gà chiên bơ. Tôi đứng dậy, xô cánh cửa, nghe hơi gió nam mằn mặn. Tôi đi tiểu, bật ấm nước lên và rút lấy cái ống didj bên dưới tấm thảm lót nhà được làm bằng rong biển. Bên ngoài hành lang, cỏ mọc cao và xanh. Tôi bôi sáp ong lên miệng ống rồi dọn sạch cổ họng. Sau đó tôi thổi cho đến khi cổ họng bỏng rát. Tôi thổi vào những căn hộ trâng tráo chắn ngang giữa tôi với bãi biển. Tôi thổi vào những con hải âu đang ăn bánh pizza ngoài bãi đậu xe và luồng khí thổi ngang qua tôi thành những vòng tròn, nóng bức, vù vù, bất chấp tất cả. Nóng trên bầu trời xanh nhạt. Nóng trong căn hộ, trong thế giới chói chang ngoài kia. ... Mời các bạn đón đọc Lằn Ranh Sinh Tử của tác giả Tim Winton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Dải Trắng Trên Nền Đen - Ruben David Gonzalez Gallego
Ruben David Gonzalez Gallego. Cái tên thật bất thường với một người viết bằng tiếng Nga, lần đầu tiên xuất hiện vào năm 2001 trên tờ báo Sự kiện và Bình luận, và trong chương trình Ghi chép từ cô nhi viện phát trên Đài tự do của Nga.  Cuộc đời của Ruben David Gonzalez Gallego còn ly kỳ hơn cả số phận anh hùng và huyền thoại của tác giả Thép đã tôi thế đấy, Nicolai Oxtrovski.  Sinh năm 1968, Ruben là cháu ngoại của Ignacio Gallego, tổng bí thư đảng cộng sản Tây Ban Nha. Mẹ anh, Aurora Gallego, được gửi sang Moscva để “cải tạo”, gột sạch những tư tưởng phương Tây được bà hấp thụ trong những năm học ở Pháp. Ở Moscva, bà quen với chàng sinh viên người Venezuela. Kết quả của cuộc tình bị ngăn cấm là hai đứa trẻ sinh đôi, một chết ngay sau khi sinh, một bị liệt não bẩm sinh. Sau một lần đứa trẻ lên cơn, người mẹ được thông báo là nó đã chết. Sự thật là nó được đưa đến cô nhi viện dành cho trẻ tàn tật. Rồi từ đó bắt đầu những chuyến di chuyển liên miên tới các bệnh viện và cô nhi viện, nơi mà hai thìa cháo kiều mạch đã là đặc sản, nơi người ta quở trách lũ trẻ khi cho chúng ăn, rằng chúng đang tranh phần của các phi công vũ trụ. Một cuộc sống địa ngục sau khi bị tuyên bố là đã chết.  Nhưng câu chuyện có một kết cục thật không tưởng, trái với những gì đáng lẽ phải xảy ra, Ruben không những sống được mà còn có một cuộc sống bình thường như mọi người. Anh tốt nghiệp Cao đẳng Thương mại, hai lần lấy vợ, có hai đứa con gái, có dịp ra nước ngoài để hiểu rằng còn có một thế giới nơi những người như anh được giúp đỡ, được cổ vũ, được khâm phục. Ba mươi năm sau, anh tìm lại được mẹ mình, cùng  bà trở về sống tại quê hương.  Giải thưởng Booker Open Russia, một giải thưởng văn học danh giá của Nga, lần đầu tiên trong mười hai năm tồn tại đã được trao cho một người Tây Ban Nha, hơn nữa lại được trao cho một tác phẩm đầu tay. Và hoàn toàn xứng đáng. Cuốn tiểu thuyết Những dải trắng trên nền đen, được viết dưới dạng tập truyện ngắn, cũng như chính cuộc đời của Ruben đã làm đảo lộn mọi quan niệm thông thường về hạnh phúc. Một người có tất cả vẫn có thể là bất hạnh, còn kẻ bị tước bỏ mọi điều lại là người hạnh phúc nhất. Anh đã chứng minh một chân lý giản dị và xưa cũ, rằng con người không chỉ là một mớ cơ bắp và thần kinh, con người có tâm hồn và tâm hồn có thể tồn tại ngoài thể xác ngay cả khi người ta còn sống. “Tôi chỉ ghi ra giấy cuộc đời của mình. Không phải để lưu lại, mà chỉ để cho một số ít người cần đọc nó.” – Ruben nói. Cuốn sách viết về sự thật dã man, đen tối và nghiệt ngã, mà không một chút hận thù, chỉ tràn ngập ánh sáng của tình yêu.Những dải trắng trên nền đen.  Nhà xuất bản hội nhà văn *** Đôi khi mọi người hỏi tôi, những điều tôi viết có thật không.   Các nhân vật của tôi có thật ngoài đời không.  Tôi xin trả lời có, chúng có thật; thật hơn cả thật. Tất nhiên các nhân vật của tôi được gom lại từ những thay đổi bất tận trong những chuyến di chuyển bất tận được các cô nhi viện. Nhưng những điều tôi viết là sự thật.  Điểm đặc biệt duy nhất trong sáng tác của tôi, sáng tác xa rời, đôi khi là mâu thuẫn với hiện thức cuộc sống, là quan niệm, có thể hơi duy cảm, đôi khi đến mức hưng phấn. Tôi luôn luôn cố tránh viết về điều tồi tệ.  Tôi biết cuộc sống và văn học đã đầy u ám. Tôi đã phải chứng kiến quá nhiều tàn nhẫn và độcác của con người. Tôi muốn viết về cái thiện, về chiến thắng, về niềm vui và tình yêu.  Tôi viết về sức mạnh. Sức mạnh tinh thần và thể xác. Sức mạnh có trong mỗi chúng ta. Sức mạnh phá tung mọi rào chắn và chiến thắng. Mỗi một câu chuyện của tôi đều kể về chiến thắng. Thậm chí cậu bé trong truyện buồn “Thịt băm viên” cũng chiến thắng. Chiến thắng hai lần. Lần thứ nhất, giữa vô vàn kiến thức không cần thiết, trong hoàn cảnh không có dao bên mình, cậu đã chọn ra được ba từ duy nhất có tác dụng đôi với đối thủ. Lần thứ hai, khi quyết định ăn thịt băm viên, tức là quyết định sống.  Chiến thắng dàng cho cả những người mà bước thắng lợi duy nhất là tự nguyện rời bỏ cuộc sống. Người sĩ quan hy sing trước thế đang lên của kẻ thù, chết theo điều lệ, là người chiến thắng. Tôi kính trọng những người như vậy. Dù vậy, điều cốt yếu trong con người ấy là những đồ chơi nhồi bông. Tôi tin rằng suốt đời khâu những con gấu và thỏ nhồi bông khó hơn nhiều một lần tự cứa cổ. Tôi tin, trên cán cân xã hội niềm vui sướng trẻ thơ khi có đồ chơi mới sẽ nặng hơn bất cứ chiến công quân sự nào.  Cuốn sách này kể về tuổi thơ của tôi. Một tuổi thơ khủng khiếp, đáng sợ nhưng dù sao vẫn là tuổi thơ. Để giữ tình yêu cuộc đời, để lớn và trưởng thành, đứa  trẻ không cần gì nhiều: một mẩu mỡ, miếng bánh kẹp giò, một vốc chà là, bầu trời xanh, vài cuốn sách, những lời nói ấm áp tình người. Thế là đủ, thế là quá đủ.  Nhân vật của cuốn sách này là những người mạnh mẽ, rất mạnh mẽ. Con người thường hay phải mạnh mẽ. Và nhân hậu. Không phải ai cũng cho phép mình nhân hậu, Không phải ai cũng có thể vượt qua được rào chắn thiếu cảm thông. Lòng tốt thường bị coi là yếu đuối. Thật buồn. Làm người rất khó, nhưng có thể được. Để làm được điều đó không nhất thiết phải đứng được trên hai chi sau. Không nhất thiết. Tôi tin thế.  Ruben David Gonzalez Gallego Mời các bạn đón đọc Những Dải Trắng Trên Nền Đen của tác giả Ruben David Gonzalez Gallego.
Lặng Nhìn Đời Qua Những Thanh Âm - Jan-Philipp Sendker
Vì sao mưa rơi trong lòng người dù bên ngoài nắng rạng, và vì sao nỗi buồn chẳng viện cầu nguyên nhân… Bắt đầu từ tiền đề “bất hạnh chỉ là chút sẩy tay của tạo hóa”, câu chuyện trôi tuột về một quá khứ bão bùng.Một cô gái thị thành New York, một ngày ngủ dậy không thấy người cha thành đạt và phong độ của mình đâu nữa. Ông biến mất, một cách thong thả, đường hoàng, không che giấu vết tích, chỉ bặt vô âm tín khi người ta nhặt được hộ chiếu của ông rơi vãi ở Thái Lan. Cô gái hỏi mẹ mới biết, bà không rõ ông là ai, ông từ đâu đến sau ba mươi lăm năm chung sống. Giữa những vật dụng cha để lại, cô gái tìm được một lá thư tình không bao giờ gửi, đề một địa chỉ ở Đông Nam Á xa xôi.Theo địa chỉ cô tìm đến, nhưng chưa thấy cha đâu, cô đã bị ném vào một quá khứ chông gai đến huyền hoặc. Quá khứ ấy, trải ra giữa thiên nhiên dịu dàng, có gió ngan ngát, có nắng ngai ngái, có chiều buông thật chậm, có không khí mơn man tinh tế của từng khoảnh khắc trong ngày. Lòng sẽ dịu êm đến khôn cùng khi đi qua từng trang giấy. Mắt sẽ chảy những dòng lệ ngọt ngào nhất khi nhận ra, bất hạnh cũng không là gì hơn những chướng ngại tạm thời, bình thản vượt qua thì có thể đi rất xa và bởi thế, đây còn là cuốn sách cổ vũ tinh thần theo cách thức tự nhiên hết sức.Nó chứa đựng những miêu tả tinh tế, tỉ mỉ về cảm xúc và giác quan, về môi trường sống dị đoan lạc hậu nhưng lại là nơi con người có thể lớn lên trong trẻo và trung thực với bản thể; về cách đối xử khác nhau của cha mẹ trước khiếm khuyết của con cái tác động thế nào đến cuộc đời và tâm hồn chúng; về một mối tình rực rỡ không phải nhờ màu sắc mà nhờ âm thanh, tỏa sáng dưới bóng đổ của những dãy núi khắc khoải gió mùa. Và về một Myanmar vốn ở gần mà vẫn xa chúng ta, nay bỗng thân quen đến lạ qua ngòi bút không biên giới của một tác giả người Đức. *** Tôi bắt gặp ánh mắt của người đó. Hai con ngươi trũng sâu, ông ta lom lom nhìn tôi. Thật ra, mấy người trong quán trà đều đang tọc mạch dõi theo tôi, nhưng ông ta là kẻ táo tợn hơn cả. Chừng như tôi là thứ sinh vật ngoại lai ông ta chưa thấy bao giờ. Tôi cố lờ đi và liếc quanh quán trà. Một cái lán nhỏ, vài ba bộ bàn ghế trên nền đất khô bụi bặm. Sát bức vách phía xa kê chiếc tủ kính bày bánh ngọt và bánh gạo bám đầy ruồi. Cạnh đó, nước pha trà đang sôi sùng sục trong chiếc ấm đặt trên bếp ga. Những chai soda màu cam được chất trong mấy thùng gỗ ở góc. Tôi chưa từng tới nơi nào tồi tàn đến thế. Nóng như đổ lửa. Mồ hôi mẹ, mồ hôi con túa ra từ thái dương và cổ. Quần jeans bết vào người. Tôi ngồi trên ghế, băn khoăn chưa biết làm gì thì ông ta đứng dậy, tiến lại gần. “Cô gái trẻ, tôi thành thật xin lỗi vì sự mạo muội này,” ông ta lên tiếng và ngồi xuống bàn tôi. “Tôi biết như vậy thực khiếm nhã, nhất là khi chúng ta chưa hề quen biết, hoặc ít nhất, với cô, tôi hoàn toàn xa lạ. Tên tôi là U Ba. Tôi đã được nghe rất nhiều về cô. Tôi biết chứ, điều đó cũng không có nghĩa tôi được phép hành xử lỗ mãng thế này. Hẳn cô khó chịu lắm khi bị một kẻ lạ hoắc bắt chuyện trong một quán trà ở thành phố lạ, tại một vùng đất cũng xa lạ nốt. Tôi hiểu chứ, thực đó, nhưng tôi mong, đúng hơn là tôi cần được hỏi cô một câu. Tôi đã chờ đợi cơ hội này bao lâu nay, giờ cô đang ở ngay đây, tôi thật không thể chỉ ngồi nhìn và im lặng. “Chính xác thì tôi đã đợi bốn năm. Bao buổi chiều, tôi cứ đi đi lại lại trên con đường chính bụi mịt mù, nơi xe buýt sẽ thả xuống vài vị khách du lịch lạc bước đến nơi đây. Thi thoảng, vào những ngày hiếm hoi có máy bay đáp xuống từ thủ đô, nếu thu xếp được, tôi sẽ tới cái phi trường tin hin ấy để kiếm tìm cô. “Đằng đẵng bao tháng ngày. “Tôi không có ý trách cô đâu. Xin đừng hiểu lầm. Tôi chỉ là một lão già chẳng biết mấy nữa sẽ nhắm mắt xuôi tay. Người dân nước tôi mau già, lại còn chết trẻ. Cái kết của cuộc đời tôi sắp sửa gần kề. Nhưng tôi còn một câu chuyện chưa kể, câu chuyện dành riêng cho cô. “Cô cười. Có lẽ cô nghĩ tôi mất trí, khùng điên, không thì cũng lập dị? Cô có lý do để tin như vậy. Nhưng tôi xin cô, xin cô đừng quay mặt đi. Đừng để vẻ ngoài của tôi đánh lừa. “Ánh mắt cô đang mất dần kiên nhẫn. Làm ơn, hãy giúp tôi thỏa nguyện. Không có ai đang đợi cô, đúng chứ? Cô tới một mình, tôi cũng đoán vậy. Cho tôi xin ít phút. Hãy ngồi đây cùng tôi thêm chút nữa thôi, Julia. “Cô bất ngờ phải không? Đôi mắt nâu xinh đẹp của cô đang mở to, và lần đầu tiên, cô nhìn thẳng vào tôi. Ắt cô kinh ngạc lắm. Cô đang tự hỏi làm thế nào tôi biết tên cô khi chúng ta còn chưa hề gặp mặt, chưa kể, đây là lần đầu tiên cô đến đất nước này. Cô thầm nghĩ hay tôi thấy nhãn tên của cô đâu đó, trên áo khoác hoặc chiếc ba lô nhỏ. Không đâu. Tôi biết tên cô, ngày và thậm chí cả giờ cô cất tiếng khóc chào đời. Tôi biết tất cả về cô bé Jule thích nhất được nghe cha kể chuyện. Tôi còn có thể nói ngay tác phẩm cô bé yêu thích nhất: Chuyện chàng hoàng tử, công chúa và cá sấu. Mời các bạn đón đọc Lặng Nhìn Đời Qua Những Thanh Âm của tác giả Jan-Philipp Sendker.
Những Bí Ẩn Của Sa Mạc - Frederik Forsythe
Truyện Những Bí Ẩn Của Sa Mạc, chuyện về một đồng nghiệp chung của cả hai người tại văn phòng hãng nghiên cứu vũ trụ, một người đàn bà trông y như rắn độc, một kẻ ăn tươi nuốt sống đàn ông, lại hóa ra là một kẻ đồng tính. Hai người rời văn phòng ở ngoại ô, vài tháng trước cô đã bán chiếc ô tô của ông chủ vì ông là một tay lái rất tồi, cô sợ ông gặp nguy hiểm nếu tự lái xe lấy. Cả hai đi vào và ông mua một chiếc bánh mà ông rất thích ăn. Trời đổ mưa, họ cúi đầu chạy thẳng ra xe, không hay biết có một chiếc xe đang bám theo. Không dễ thấy điều này, một chiếc xe bình thường với hai người râu cằm đen rậm rì đã theo dõi nhà khoa học từ nhiều tuần nay, nhưng không bao giờ lại gần ông, họ chỉ quan sát và ông đã không trông thấy họ. *** Frederick McCarthy Forsyth, CBE là một tác giả, nhà báo, điệp viên người Anh, và là nhà bình luận chính trị không thường xuyên.  *** Ba người SAS nặng nhọc bước đi suốt phần còn lại của đêm. Họ tiến lên phía trước và đi ngược lên khiến Don Walker, người không phải đeo hành lý và nghĩ mình đang ở tình trạng sức khoẻ tốt, trở nên kiệt sức và thở hổn hển. Đôi lúc anh tưởng như sắp khuỵu xuống, biết rằng mình không thể đi xa hơn, rằng thậm chí chết còn dễ chịu hơn là cứ đau từng bắp thịt một cách dữ dội thế này. Khi điều đó xảy ra, anh có thể cảm thấy hai bàn tay thép, một đặt dưới cánh tay, và nghe thấy giọng vùng Cockney của trung sĩ Stephenson bên tai: - Đi tiếp đi nào, anh bạn. Chỉ còn một chút nữa thôi. Có thấy cái chóp núi kia không? Chúng ta có thể nghỉ ngơi ở sườn bên kia đấy. Nhưng họ không bao giờ làm được điều đó. Thay vì đi về hướng nam đến vùng đồi thấp Jebal và Hamreen, nơi dường như họ có thể gặp phải lính của đội Vệ binh Cộng hoà với xe cơ giới, Mike Martin đi thẳng về phía đông đến dãy đồi cao chạy ra biên giới Iraq. Đó là một chiến thuật buộc các đội tuần tra của những người miền núi Al-Ubaidi phải đi theo họ. Mời các bạn đón đọc Những Bí Ẩn Của Sa Mạc của tác giả Frederik Forsythe.