Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

1001 Bức Thư Viết Cho Tương Lai

Khi bạn cầm trên tay cuốn sách này, tôi tin rằng: Rất nhanh thôi bạn sẽ thấy được điều mình vẫn luôn tìm kiếm và theo đuổi từ sâu thẳm nơi trái tim bởi đây là một tuyển tập của những ý nghĩ ẩn sâu bên trong chúng ta. Trong cuốn sách này, chúng ta có thể tìm được con người thật sự của chính mình, cảm thấy được khuây khỏa, dù là những trái tim nhạy cảm nhất cũng sẽ cảm thấy được an ủi. Cho nên, xin đừng vội vàng gập cuốn sách này lại, hãy bình tĩnh và đọc tiếp, trong dòng chảy thời gian và không gian, chậm rãi mà đọc, rồi sau đó bạn sẽ có được cảm nhận đầy đủ. Thế giới này sẽ không vì những vui – buồn – yêu – ghét của chúng ta mà thay đổi. Có lúc chúng ta u buồn, có lúc chúng ta phiền não, rất nhiều loại tâm trạng và chúng luôn luôn theo ta như hình với bóng. Thực tế tôi muốn nói với bạn rằng: Đây đều là những phần rất cần thiết trong cuộc sống của bạn. Thậm chí nếu bạn không vui chút nào cũng vẫn hy vọng bạn có thể lau đi giọt nước nơi khóe mắt để có thể bắt đầu học cách tận hưởng hạnh phúc. Cuốn sách 1001 bức thư viết cho tương lai này sẽ khiến bạn 1001 lần cảm động. Cảm động rồi, chúng ta cũng phải học cách kiên cường hơn. Chúng ta không thể để năng lượng cuộc sống chảy mất được, hãy đặt những kiên trì và chân thành của chúng ta lên đầu tiên. Trong cuốn sách này, chúng ta có thể tìm lại những niềm tin trong quá khứ và mang nó trở lại với con người chân thật của bạn, với con người chân thành và tự mình hài hòa với nó, biết rằng bản thân phải thay đổi điều gì, có điều gì phải khắc phục, thậm chí có thể chúc mừng thất bại của mình một cách hài hước, dũng cảm đối mặt với bản thân không hoàn mỹ. Đừng ép bản thân phải trở thành người hoàn hảo hơn, cũng đừng ép bản thân trở thành người khác. Hãy giống như đóa hoa sen nở giữa đầm lầy, sinh ra vốn là một loài hoa hoàn mỹ, không bao giờ bị đem ra so sánh với các loài hoa hồng sống trên đất, cũng không cần nỗ lực trở thành một đóa “hoa sen tuyệt vời hơn bao giờ hết”. Bởi vì, hiện tại chính là giây phút tuyệt vời nhất của nó. Trong cuốn sách này, cuối cùng chúng ta có thể thẳng thắn đối mặt với tâm hồn của chính mình. Hãy lắng nghe tiếng nói và nhịp đập của trái tim rồi điều chỉnh lại từng bước một, như vậy hạnh phúc mới có thể tiếp tục đến với bạn… Xin mượn 1 câu kinh điển để làm lời tựa cho phiên bản 999 BỨC THƯ VIẾT CHO EM này: 第008封信 明知会失去自由,明知这是一生一世的合约,为了得到对方,为了令对方快乐,也甘愿作出承诺。恋爱是一个追求不自由的过程,当你埋怨太不自由了的时候,就是你不爱他的时候。 Míngzhī hui shīqù zìyóu, míngzhī zhè shì yīshēng yīshì de héyuē, wèi liǎo dédào duìfāng, wèile lìng duìfāng kuàilè, yě gānyuàn zuòchū chéngnuò. Liàn’ài shì yīgè zhuīqiú bù zìyóu de guòchéng, dāng nǐ mányuàn tài bù zìyóule de shíhòu, jiùshì nǐ bù ài tā de shíhòu. Bức thư viết cho tương lai số 008 Biết rõ rằng sẽ mất đi tự do, biết rõ rằng “một đời một kiếp bên nhau” chỉ là lời hứa hẹn, vậy mà ta sẵn sàng trao đi lời hứa để có thể gần hơn với người mình yêu và để có thể khiến họ được hạnh phúc. Tình yêu là cả một quá trình theo đuổi và nó không có sự tự do. Nếu như bản thân bạn cảm thấy mất tự do, đó chính là lúc tình yêu không còn tồn tại nữa.  *** 001 爱情与咖啡都需要靠一点想象力,它们既不能纯粹是生理器官的体会,也不能完全是肢体五官的感觉。需要一点想象力,让过程显得可贵,让余温值得回味。 Tình yêu và cà phê đều cần đến một chút tưởng tượng, chúng không hoàn toàn được cảm nhận bằng các giác quan thuần tuý, mà cần cảm nhận trong tâm trí, cần một chút trí tưởng tượng để sự cảm nhận ấy đáng trân trọng hơn, để những dư vị nồng ấm ấy trở nên đáng nhớ. 002 想知道一个人爱不爱你,就看他和你在一起有没有活力,开不开心,有就是爱,没有就是不爱。爱情不是感动,你不是他心目中的理想伴侣,即使一时接受你,将来碰上他心仪的那一位,也一样会离开你。 Muốn biết một người yêu bạn hay không hãy quan sát xem lúc anh ta ở bên bạn có nhiều năng lượng và vui vẻ không? nếu có tức là yêu, không có tức là không yêu. tình yêu không phải là sự cảm động, nếu bạn không phải là một nửa lý tưởng mà anh ta tìm kiếm thì mọi sự tiếp xúc chỉ là tạm thời, đến khi anh ta gặp được một người khác khiến anh ta rung động thì cũng sẽ rời xa bạn mà thôi. 003 爱是因为相互欣赏而开始的,因为心动而相恋,因为互相离不开而结婚。但更重要的一点是需要宽容,因为宽容才有谅解,习惯和适应才会携手一生。 Tình yêu bắt đầu từ việc có cảm tình với nhau, vì rung động mà yêu, rồi vì không thể rời xa mà kết hôn. nhưng quan trọng hơn cả chính là cần đến sự bao dung. Vì bao dung mới có thể tha thứ, thích ứng với thói quen của nhau, mới có thể nắm tay nhau đi đến hết cuộc đời. 004 不要去羡慕别人拥有的爱情。你以为你没有的,可能在来的路上;你以为他拥有的,可能在去的途中。 Đừng ghen tị với tình yêu của người khác: bạn cho rằng bạn không có nhưng biết đâu tình yêu đó còn đang chờ đợi bạn ở con đường phía trước; bạn cho rằng người ta đang có tình yêu nhưng biết đâu đó lại chỉ là những gì đã qua. 005 该醒醒了。为了他,你已经做了太多无谓的挣扎,太多荒唐的事情,太多盲目的决定,而错过了太多,本来的幸福,太多安静的生活,太多理性的选择。从现在开始,请认真把你做过的都忘记,再用心把你错过的都弥补回来。 Tỉnh táo lại đi! Chỉ vì người không xứng đáng mà bạn đã làm quá nhiều việc vô Nghĩa, quá nhiều những việc hoang đường và quá nhiều quyết định sai lầm. Vì những việc kia mà rất có thể bạn sẽ tuột mất hạnh phúc vốn có, những sự tĩnh lặng trong cuộc sống và rất rất nhiều những chọn lựa lý tính. Bắt đầu từ bây giờ hãy quên hết những gì bạn đã từng làm, dồn tâm sức làm lại những điều ý nghĩa mà bạn đã từng bỏ lỡ. 006 千万不可以,为了爱情放弃事业很简单,选择爱情,一旦爱情没有了,你就什么都没有了,选择事业,即使爱情没有了,可是你还有本事赚钱养活自己,还有属于自己的生活。 Chờ vì tình yêu mà bộ tứ mà từ bỏ sự nghiệp đơn giản là nếu bạn cho tình yêu thì đến khi tình yêu mất đi bạn sẽ chẳng còn lại gì còn nếu cho sự nghiệp thì dù tình yêu có mắt bạn vẫn còn có thể kiếm tiền nuôi sống bản thân và có cuộc sống của riêng mình. 007 无法厮守终身的爱情不够是人在长途旅程中来去匆匆的转机站,无论停留多久,始终要离去,坐另一班机。 Dù có tình yêu cũng không thể cùng nắm tay nhau đi đến cuối cuộc đời chẳng qua là trong một cuộc hành trình dài người ta luôn vội vã để bước lên một chuyến bay tốt hơn dù có dừng lại bao lâu từ đầu đến cuối vẫn phải ngồi trên những chuyến bay khác nhau. 008 明知会失去自由,明知这是一生一世的合约,为了得到对方,为了令对方快乐,也官燕做出承诺,恋爱是一个追求不自由的过程,当你埋怨太不自由了的时候就是你不爱他的时候。 Biết rõ rằng sẽ mất đi tự do biết rõ ràng một đời một kiếp bên nhau chỉ là lời hứa hẹn vậy mà ta sẵn sàng cho đi lời hứa để có thể gần hơn với người mình yêu và để có thể khiến họ được hạnh phúc tình yêu là cả một quá trình theo đuổi nếu như bản thân bạn cảm thấy mất tự do đó chính là lúc tình yêu không còn tồn tại nữa. 009 别在鸡蛋里挑骨头,也在太平盛世中想象,超乎,爱是理解之后的合景,无论你手上拥有的武器是什么?不要期待对方会为你投降。 Đừng đem luôn ra khi con cháu chứ và đừng nghĩ đến chiến tranh khi đang sống trong hòa bình yêu là thông cảm và thấu hiểu dù cho châu tay bạn đang làm giữ vũ khí gì cũng đừng mong đối phương sẽ vì bạn mà đâu hàm. 010 一旦接受,请相信你所选择的不要顾及太多世俗的眼光了,或许他的水利不高,或许他的容颜正在老去,或许他身处平凡的职业,但是不要忘记你曾经因为他的心灵之美而选择了他你的伴侣不是你闲谈时挂在嘴边炫耀的资本,而是要放在心里爱着的人。 Đã nắm lấy tay nhau thì hãy tin vào sự lựa chọn của bạn thân không cần quá để tâm đối ánh mắt của người khác nhìn mình ra sao có thể trình độ của anh ấy không cao có thể khuôn mặt của anh ấy không được cha có thể anh ấy chỉ có một công việc bình thường nhưng bạn đừng quên bạn chọn anh ấy là vì tâm hồn đẹp làm cho bạn rung động người yêu không phải là thứ để bạn tùy Tiện quê không cho những cuộc trò chuyện mà lại đi yêu đi giữ trong trái tim bạn. 011 你可以很爱很爱一个男人,但是要记住他不是你的全部你要留一部分爱自己,不要要被任何人牵着鼻子走,你也不是他的女朴没有必要对男人百依百顺,但是你一定要体贴。 Có thể bạn rất yêu anh ấy nhưng cần phải nhớ rằng anh ấy không phải là tất cả của bạn hãy giữ lại một chút tình yêu cho bản thân đừng để họ có thể dễ dàng rất mỗi bạn bất cứ lúc nào bạn không phải là nô lệ của anh ta cũng không phải phục tùng mọi lời anh ta nói nhưng bạn nhất định phải ân cần chu đáo có thể bạn rất yêu anh ấy nhưng cần phải nhớ rằng anh ấy không phải là tất cả của bạn hãy giữ lại một chút tình yêu cho bản thân đừng để họ có thể dễ dàng dắt mũi bạn bất cứ lúc nào bạn không phải là nô lệ của anh ta cũng không phải phục tùng mọi lời anh ta nói nhưng bạn nhất định phải ân cần chu đáo 012 你爱他吗?爱就告诉他,何必把思念秋胡藏在心底深处,怕样子地位身份不相配,别怕,爱一个人是美好的。 Bạn yêu anh ấy vậy thì hãy nói ra đâu cần phải cân nhắc để tâm đến quá nhiều điều sẽ tính cách giải địa dễ sợ không môn đăng hộ đối đừng sợ yêu một người là điều vô cùng đẹp đẻ. 013 在爱情没开始以前你永远想象不出会那样地爱一个人在爱情没结束,以前你永远想象不出那样的,爱也会消失,在爱情被忘却以前你永远想象不出那样刻骨铭心的爱也会巨流大啖痕迹,在爱情重新开始,以前你永远想象不出还能再一次找到那样的爱情。 Trước khi biết yêu bạn không tưởng tượng được yêu một người là như thế nào trước khi tình yêu mất bạn không tưởng tượng được tình yêu rồi cũng sẽ tan vỡ trước khi tình yêu bị lãng quên bạn không tưởng tượng được một tình yêu đã từng khắc cốt ghi tâm đến giờ cũng chỉ còn lại những ký ước mơ nha trước khi bắt đầu một tình yêu mới và cũng không nghĩ được rằng bạn lại có thể một lần nữa có được tình yêu tuyệt vời đến thế.   Mời các bạn đón đọc 1001 Bức Thư Viết Cho Tương Lai của tác giả Nhiều Tác Giả.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Viết Về Bạn
Viết về bè bạn là tập hợp hai cuốn hồi ký Rừng xưa xanh lá và Một thời đã mất của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Mỗi câu chuyện trong Viết về bè bạn là một mảnh ghép tạo nên bức tranh chân thực đến từng millimet của đời sống nghệ thuật một thời đã mất, thời bao cấp, thời goulag đã qua. Đọc Viết về bè bạn, ta biết thêm một Dương Tường bán máu đằng sau một Dương Tường dịch giả, những câu chuyện đằng sau dịch phẩm Tể tướng lưu gù, những bài thơ Cầu xi măng, Chợ Cầu Rào, Nói chuyện với mèo, Kiếp sau, chuyện của “người sống và chết vì nghệ thuật như người tử vì đạo” Lê Đại Thanh, chuyện của “người điên” Nguyên Bình, hay phiêu lưu cùng màu trắng với Nguyễn Thanh Bình, và chuyện của “nhà văn của những người dưới đáy” – Nguyên Hồng. Với hơn 600 trang sách, Bùi Ngọc Tấn đã đạo diễn một bộ phim tư liệu về những mặt ít được nói tới của văn chương nghệ thuật, về cả những con người thành danh lẫn những tiếng nói bị vùi dập. Ông viết về những khó khăn gian khổ, những long đong lận đận; ông viết về, và viết cho những con người viết để sống, sống để mà viết. Văn phong giản dị, chân thực, cách kể cuốn hút, chắt lọc, giàu tính triết luận mà cực kỳ hài hước, Viết về bè bạn là cuốn nghệ thuật sử có giá trị; một cuốn sách giúp ta hiểu hơn về quá khứ và cũng để lạc quan hơn về tương lai, để vui sống, sống chứ không phải tồn tại, để tin tưởng “thế hệ sau sẽ làm được những điều chúng ta ao ước.” *** Trước hết có thể gọi đây là một thiên sử ký về một tình yêu, tình yêu Hải Phòng - Bùi Ngọc Tấn viết trong một cái nhìn hồi cố nhưng thấu suốt đến hiện tại: “Tôi lãng mạn có cánh. Tôi không hiện thực nghiêm khắc. Càng không hiện thực trần truồng. Và tôi càng yêu thành phố Hải Phòng… cho dù đời tôi có nổi chìm thế nào chăng nữa”(tr.286). Ông viết ở đây những chân dung nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà nhiếp ảnh dù có sinh ra ở Hải Phòng hay không nhưng đã gắn một phần đời mình với Thành phố Cảng, với tình bạn của ông và đặc biệt đó “hầu hết là những người chịu nhiều vất vả, kể cả đắng cay, những người lận đận, không thành đạt… những người luôn vượt lên, không đầu hàng số phận” (tr.6) mà ông gọi là “những ngôi sao mờ mịt vần vụ bão giông”, phần nào bởi thế mà hầu hết họ đã có thể chia sẻ với thân phận của “những người mang nghiệp chướng trong mình” mà chính ông trải nghiệm. Tuy nhiên đây không chỉ đơn thuần một tập hồi ký nhớ-và-kể. Bùi Ngọc Tấn với văn chương của ông là một tài năng hiếm hoi có thể dùng sức mạnh của hư cấu để kể những chuyện trung thực, tức dựng lại được cái cốt truyện ẩn sâu bên trong mỗi cuộc đời nhìn bề ngoài có vẻ như toàn những ngẫu nhiên sống động khôn lường… Những chân dung văn nghệ sĩ trong tập sách này đều khiến nghĩ đến các ký họa chân dung tài hoa mạnh mẽ lột tả thần thái những nhân cách văn học một thời. Bùi Ngọc Tấn không đặt ngọn đèn của tình cảm vào chỗ khuất bóng. Hai tiếng “bạn bè” trong ngôn ngữ của ông thấm thía tình cảm trong sáng, trìu mến, lấp lánh một ánh mắt mẫn tiệp và ân cần, khiến dòng tự sự của ông luôn dồi dào cảm xúc. Nhưng nhãn quan hiện thực chủ nghĩa - theo đúng hàm nghĩa cổ điển của thuật ngữ này - dẫn dắt văn chương của ông một cách nhất quán. Và điều đó là căn cốt trong phong cách truyện kể của ông: sự lựa chọn những chi tiết, những giai thoại để kể và mô tả, việc đặt những tình tiết và giai thoại như thế vào đúng chỗ cần thiết trong tổng thể ký ức chính mình một cách hài hòa sống động, cách kể khách quan hóa vai trò chứng nhân của mình trong toàn bộ bối cảnh được tái tạo như là chấm phá nhưng luôn luôn gây được ấn tượng thời-gian-thực và tình-thế-sống. Tính chất khiêm nhường không thể nhầm lẫn trong giọng điệu ấy chẳng bao giờ làm phương hại đến khát khao kể những gì cần phải kể. Tất cả những điều ấy khiến cho rất nhiều khúc truyện ở đây gây ấn tượng như những đoạn phim tài liệu xã hội-kinh tế đầy sức biểu hiện. Và đọc những chân dung này có thể thấy sâu bên trong chúng cái cốt cách những thiên “Bản kỷ”, “Thế gia” kinh điển phương đông. Mà phẩm chất văn chương vượt trội của chúng - cái vẻ đẹp giản dị tuyệt vời của thứ ngôn ngữ vừa chính xác vừa thấm nhuần tình cảm, vừa thâm viễn vừa hàm súc - khiến nghĩ đến một thiên sử ký của thời đại. Nguyễn Chí Hoan Review Mời các bạn đón đọc Viết Về Bạn của tác giả Bùi Ngọc Tấn.
Lược Sử Đời Tôi
Stephen Hawking đã khiến độc giả trên khắp thế giới phải sửng sốt bởi loạt sách rất được yêu thích về chủ đề khám phá những bí ẩn của vũ trụ. Giờ đây, có lẽ là lần đầu tiên nhà vũ trụ học thông thái nhất trong thời đại của chúng ta đang nhìn lại cuộc đời mình cũng như quá trình tiến bộ về tư duy khoa học của bản thân. Tác phẩm Lược Sử Đời Tôi thuật lại chặng đường gần như không tưởng của Stephen Hawking, từ thời niên thiếu ở London sau chiến tranh cho đến giai đoạn ông trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới và được ca ngợi. Với một lượng lớn hình ảnh chưa được công bố cùng lời chú thích ngắn gọn, hóm hỉnh và chân thật, Lược Sử Đời Tôi đã đưa độc giả đến với một Stephen Hawking được nói đến rất ít trong những cuốn sách trước đây: một cậu học sinh luôn tọc mạch được các bạn cùng lớp đặt cho biệt danh Einstein; một tay cá cược khi đã từng đánh cược với một đồng nghiệp về sự tồn tại của một lỗ đen đặc biệt, và một người cha, người chồng trẻ đang đấu tranh để có được một vị trí trong giới vật lý và vũ trụ học. Với sự khiêm tốn và hóm hỉnh chỉ có ở riêng Hawking, ông đã cho độc giả thấy được những thách thức mà ông phải đối mặt sau khi bị chẩn đoán đoán nhiễm chứng bệnh ALS ở tuổi hai mươi mốt. Miêu tả về sự tiến bộ của bản thân như một nhà tư tưởng, ông giải thích làm thế nào mà cuộc sống rất có thể phải sớm kết thúc của ông lại thôi thúc ông tiến lên để đạt được những bước đột phá về trí tuệ, đồng thời cũng nói về nguồn gốc kiệt tác Lược sử thời gian - một trong những cuốn sách tiêu biểu của thế kỷ 20. Tinh tường, sâu sắc và khéo léo, Lược Sử Đời Tôi  mở ra cánh cửa cho chúng ta tiến vào vũ trụ của chính Hawking. *** Nếu tôi không có quyết tâm đủ, bây giờ tôi sẽ không ở đây. Stephen Hawking Stephen Hawking đã trở thành biểu tượng bất tử của một thiên tài khuyết tật, như mọi người đều biết, tên tuổi vang danh từ Đông sang Tây, chỉ sau Albert Einstein. Cuộc đời ông đầy trắc trở và bi kịch. Ông lấy nguồn cảm hứng từ trên trời, định mệnh lại luôn luôn muốn kéo ông xuống đất, nhưng ông không chịu đầu hàng. Ông ngước nhìn trăng sao, thiên hà, vũ trụ, “lỗ đen” , “lỗ sâu đục” , “du hành thời gian” , những định luật nền tảng của vũ trụ, nhưng vất vả, vấp ngã rồi lại đứng lên trong thân phận của một kẻ bị định mệnh “xử” bất lực cơ thể mình do chứng bệnh ALS nghiệt ngã gây ra. Chưa đủ, ông lại mất đi vĩnh viễn tiếng nói sau một ca phẫu thuật cứu cấp khi đi dự Hội nghị tại CERN năm 1985. Từ đó ông chỉ còn giao tiếp được qua chiếc máy tính điện tử với những chương trình phần mềm đặc biệt dành cho ông. Với tình trạng vô cùng chật vật ấy, vậy mà ông đã viết bảy cuốn sách nổi tiếng cho thế giới. Nhưng ông cũng có những “thiên thần” hộ mạng. Jane Wilde là người vợ đầu tiên của ông, Elaine Mason là người vợ thứ hai. Mỗi người đã cứu giúp ông một cách. Jane Wilde, yêu và cưới Stephen Hawking dù biết chồng tương lai mình bị căn bệnh hiểm nghèo ALS, đã giúp đẩy lùi nỗi tuyệt vọng ở tuổi xuân 21. Cô đã đem lại ý nghĩa sống cho ông, làm sống lên khát vọng khám phá khoa học như ý nghĩa của cuộc đời. Cô cũng quyết định không chịu rút ống thở ra cho Hawking, ngược lại lời khuyên từ sự tuyệt vọng của các bác sĩ, cô tìm cách cứu ông, “còn nước còn tát”. Cô cho ông ba đứa con kháu khỉnh và thành đạt. Còn Elaine Mason cũng đã cứu ông ba lần với tư cách một y tá điều dưỡng. Mỗi người như muốn kê vai gánh bớt gánh nặng của ông. Năm nay ông đã 72 tuổi, nửa thế kỷ vượt qua chẩn đoán hai năm sống sót của bác sĩ dành cho ông. Một điều kỳ diệu. Và lại nổi tiếng khắp thế giới. Lại kỳ diệu hơn. Tình yêu của ông mạnh mẽ đối với vũ trụ, nhưng cũng không thiếu phần sôi nổi với người yêu. Tinh thần ông dường như đã kéo lê cơ thể ông, buộc phải sống tiếp trong mọi tình huống để phụng sự cho khoa học. Đó là mệnh lệnh. Ông phải sống cho khoa học. Giống như nhà thơ Friedrich Schiller, đáng lẽ đã chết mười năm trước, như bác sĩ chẩn đoán, nhưng vẫn còn sống tiếp vì những ý tưởng văn chương của ông chưa viết hết. Stephen càng bị tước mất khả năng vật lý, thì các ý tưởng của ông lại càng phát triển thêm, tên tuổi ông càng nổi bật, quyết không chịu thua định mệnh. Hawking thường tự hào là người sinh đúng 300 năm sau ngày mất của Galilei (8 tháng 1,1642 của Galilei, và 8 tháng 1, 1942 của Hawking). Một sự tình cờ đặc biệt? Cũng như sự tình cờ Newton sinh đúng vào năm Galilei mất? Hawking cảm nhận có điểm chung giữa hai người đã phải chịu những nghịch cảnh nhưng luôn sôi sục sức sống, muốn cống hiến cho khoa học, và cho nhân loại. Nếu Galileo Galilei là nhà khoa học lớn nhất và đầu tiên của đại chúng trong lịch sử vào thế kỷ 17 - không phải Isaac Newton - thì Stephen Hawking là nhà khoa học lớn nhất của đại chúng thế kỷ 20, chỉ sau Albert Einstein. Tác phẩm Lược sử thời gian của ông bán trên 10 triệu bản, được dịch ra trên 40 thứ tiếng trong đó có tiếng Việt, một kỷ lục chưa từng có trong lịch sử khoa học. Hawking là người có vinh dự lớn thừa kế vị trí của Newton và Dirac trên chiếc ghế giáo sư toán Lucas được thành lập năm 1663-64. Ông cũng là thành viên của Hàn lâm viện Anh, Royal Society, một trong những tổ chức học thuật lâu đời nhất (1660) , và thành viên của Hàn lâm viện khoa học Hoa Kỳ, một tổ chức rất danh giá và uy tín. “Chúng ta hằng lo cuộc sống hàng ngày nhưng không hiểu hầu như chuyện gì của vũ trụ. [... ] Trong xã hội chúng ta, các bậc cha mẹ và thầy cô vẫn thường có thói quen trả lời những câu hỏi [về vũ trụ] với sự nhún vai, hay với sự viện dẫn các giáo huấn tôn giáo được nhắc lại mơ hồ. [... ] Đây là một quyển sách về Chúa... hay có lẽ về cả sự vắng mặt của Chúa. [... ] Hawking lao vào cuộc tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi nổi tiếng của Einstein rằng Chúa có sự chọn lựa nào hay không khi tạo ra vũ trụ.” Đó là những lời của nhà thiên văn học Mỹ Carl Sagan viết trong lời tựa cho quyển Lược sử thời gian. Tuy ông đi tìm ý Chúa, muốn hiểu bản đồ vũ trụ của Ngài, nhưng một trong những kết luận nổi tiếng của ông cuối cùng là, với kỹ thuật thời gian ảo, vũ trụ không có điểm khởi đầu cũng như kết thúc, và không có gì để cho Đấng Sáng thế làm cả. Trong một chương trình truyền hình, ông nói: “Chúng ta là những sinh linh tầm thường trên một hành tinh thứ yếu của một vì sao trung bình trong các vùng ngoại ô của một trong ngàn triệu thiên hà. Cho nên rất khó để tin vào một Chúa chăm lo chúng ta, hay ghi nhận sự tồn tại của chúng ta.” Cũng giống như Einstein, Hawking có sự thôi thúc phải đi tìm những định luật vĩnh cửu của thế giới trên trời. “Tôi có thể thấy các vì sao đã thu hút nó thế nào” , mẹ ông thuật lại. Ông nhớ lại những ấn tượng đẹp, đó là vào những lúc ông đi về nhà khuya từ London, đèn đường đã tắt vào nửa đêm để tiết kiệm điện, “Tôi nhìn bầu trời đêm chưa bao giờ như trước đó, với dải Ngân Hà nằm vắt ngang.” Đi tìm một lý thuyết cắt nghĩa được mọi thứ sẽ giúp chúng ta “hiểu thêm ý Chúa”. Cái nghiệt ngã của bệnh tình và quyết tâm chống trả số phận để vươn lên từ vực thẳm của tuyệt vọng với những khuyết tật kinh khủng như vậy, cùng việc kết hợp thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử để sáng tạo ra công thức bức xạ cho lỗ đen, cho biết độ bức xạ thoát ra lỗ đen, nghĩa là lỗ đen không còn là đen tuyền như người ta nghĩ nữa, một trong những công trình tuyệt vời, cùng với tài diễn tả và trình bày độc đáo trong sách đại chúng như trong Lược sử thời gian và những cuốn sách khoa học khác khiến cho Hawking xứng đáng là thần tượng của mọi người. Ở Pháp và nhiều nơi trên thế giới vừa chiếu cuốn phim về ông, The Theory of Everything (Lý thuyết của mọi thứ) , tên một quyển sách của ông, nhưng câu chuyện dựa trên quyển tự truyện của người vợ đầu Jane Hawking có tên Travelling to infinity: My life with Stephen, (Du hành về miền vô cực: Đời tôi với Stephen) rất cảm động làm bao người mủi lòng Mời các bạn đón đọc Lược Sử Đời Tôi của tác giả Stephen Hawking.
Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest
Hoang dã là cuốn hồi ký của Cheryl Strayed về chuyến hành trình đi bộ 1.770km dọc theo đường mòn Pacific Crest Trail khi cô 26 tuổi. Sau khi trải qua những năm tháng tàn tạ, mất phương hướng, phải chịu đựng cái chết của người mẹ thân yêu và cuộc ly dị đầy đau khổ, cô đã quyết tâm “xách balo lên và đi”. Và trong suốt cuộc hành trình dài hơn 1000 dặm, cô đã gặp được rất nhiều người, vượt qua nhiều thử thách tưởng chừng như không thể, để rồi chiêm nghiệm lại cuộc đời, tìm lại được chính mình. Sau khi được xuất bản vào tháng 3 năm 2013,Wild đã nhanh chóng leo lên vị trí dẫn đầu trong danh sách best-seller ở Mỹ và chiếm giữ vị trí đó trong vòng 7 tuần liên tiếp. Tính đến nay,Wild đã được dịch ra 28 thứ tiếng và được chuyển thể thành phim năm 2014. *** Những cái cây sừng sững cao vút, nhưng tôi còn cao hơn chúng. Tôi đang đứng trên một sườn núi dốc đứng phía bắc California. Tôi vừa tháo đôi giày leo núi ra và để rơi một chiếc xuống tán cây, đầu tiên, nó bật nhào vào không khí khi bị chiếc ba lô khổng lồ của tôi đổ ụp xuống, rồi lăn theo con đường mòn sỏi đá và bay khỏi đỉnh dốc. Chiếc giày rớt xuống một tảng đá trồi phía dưới cách tôi vài mét và nảy lên trước khi biến mất giữa vòm rừng, chẳng thể nào lấy lại được nữa. Tôi há hốc miệng, điếng người. Dù đã ở giữa nơi hoang dã này 38 ngày và thấm thía rằng điều gì cũng có thể xảy ra và sẽ xảy ra; nhưng tôi khi ấy vẫn không khỏi bàng hoàng. Giày của tôi đã mất. Mất thật rồi. Tôi giữ chặt chiếc kia trước ngực như đứa trẻ, dù tất nhiên là chẳng nghĩa lý gì. Một chiếc giày làm được gì khi không có chiếc còn lại chứ? Chẳng gì cả. Nó vô dụng, cô độc mãi mãi, và tôi chẳng hề mảy may thương cảm. Đó là đôi bốt Raichle vừa to vừa nặng bằng da nâu với dây đỏ cùng lỗ xỏ dây kim loại màu bạc. Tôi giơ chiếc giày lên cao, cố sức ném thật xa, nhìn nó rơi xuống những tán cây xum xuê và biến mất khỏi cuộc đời tôi. Tôi cô độc. Chân trần. Tôi 26 tuổi và mồ côi nữa. Một kẻ lạc đường đúng nghĩa, như một người lạ đã nhận xét vào hai tuần trước, khi nghe tên tôi và cái cách tôi đánh mất mọi thứ trong đời. Cha bỏ đi khi tôi lên sáu. Mẹ mất khi tôi 22 tuổi. Sau cái chết của mẹ, cha dượng – người tôi từng coi như cha đẻ – dần trở thành người mà tôi chẳng nhận ra nổi. Chị gái và em trai tôi mỗi người một phương, đắm chìm trong nỗi buồn khổ riêng của họ. Dù tôi đã gắng sức gắn kết cả gia đình lại với nhau, nhưng rốt cuộc vẫn là ly tán. Vài năm trước khi ném đi chiếc giày ấy, tôi cũng đã vứt bỏ chính mình. Tôi vất vưởng, lang thang, bắt tàu – từ Minnesota tới New York, tới Oregon và xuyên qua miền Tây nước Mỹ – để cuối cùng, vào mùa hè năm 1995, tôi thấy mình chân không giày, không tha thiết cũng chẳng thờ ơ với thế giới. Đó là một thế giới tôi chưa từng đặt chân tới, thậm chí chưa từng biết đến sự tồn tại của nó; nơi tôi lê bước trong muộn phiền và bối rối, sợ hãi và hy vọng. Một thế giới mà tôi tin sẽ biến tôi thành người phụ nữ tôi có thể trở thành, đồng thời đưa tôi về với cô gái Cheryl trước kia. Một thế giới rộng chừng 60 cm và dài 4.285 km. Thế giới ấy mang tên đường mòn Pacific Crest. Lần đầu tiên tôi nghe đến nó chỉ chừng bảy tháng trước đó, khi đang sống ở Minneapolis, buồn bã, tuyệt vọng, chuẩn bị ly hôn người đàn ông tôi vẫn yêu say đắm. Tôi với lấy cuốn The Pacific Crest Trail, Volume 1: California (Đường mòn Pacific Crest, tập 1: California) từ giá sách liền kề khi đang đứng xếp hàng, đợi thanh toán một chiếc xẻng. Bìa sách nói: Pacific Crest Trail (PCT) là con đường mòn hoang vu chạy dài từ biên giới Mexico ở California đến sát biên giới Canada, qua chín ngọn núi: Laguna, San Jacinto, San Bernardino, San Gabriel, Liebre, Tehachapi, Sierra Nevada, Klamath và Cascades. Khoảng cách là 1.600 km đường chim bay, nhưng độ dài đường mòn thì gần gấp đôi số ấy. PCT trải dài qua các bang California, Oregon và Washington. Nó đi qua các vườn quốc gia, những vùng hoang dã cũng như nhiều vùng đất thuộc liên bang, bộ lạc và tư nhân; qua hoang mạc, núi đồi và rừng nhiệt đới; qua sông suối và cả những con đường cao tốc. Tôi lật lại, nhìn chăm chăm vào bìa trước – một hồ nước trong đầy sỏi cuội bao quanh bởi những vách đá cheo leo, in bóng bầu trời xanh lồng lộng – rồi đặt lại nó lên giá, trả tiền chiếc xẻng và rời đi. Nhưng sau đó, tôi đã quay trở lại và mua cuốn sách. Khi ấy, đường mòn Pacific Crest chưa phải là một phần cuộc đời tôi. Đó chỉ là một ý tưởng, mơ hồ và lạ lùng, đầy hứa hẹn và bí ẩn. Khi đưa tay miết theo con đường nhấp nhô vẽ trên tấm bản đồ, có điều gì đó như rộn ràng bung nở trong trái tim tôi. Tôi quyết định sẽ chinh phục con đường ấy, hay chí ít là đi xa nhất có thể trong chừng 100 ngày. Tôi sống một mình trong căn hộ studio [1] ở Minneapolis, ly thân chồng, làm phục vụ bàn, và sống những ngày tháng rối bời tệ hại. Mỗi ngày, tôi lại cảm thấy như mình đang ngước lên từ một đáy giếng thẳm sâu. Nhưng từ chính nơi đó, tôi chuẩn bị trở thành một khách bộ hành đơn độc phiêu lãng giữa miền hoang dã. Và tại sao lại không chứ? Đã từng có rất nhiều “tôi” khác. Một người vợ đáng yêu và một phụ nữ ngoại tình. Một cô con gái được yêu thương và kẻ giờ đây phải cô đơn trong những kỳ nghỉ lễ. Một kẻ đầy tham vọng hoài bão và một cây bút tiềm năng liên tiếp nhảy giữa những công việc vô nghĩa trong khi học đòi nghiện ngập và ngủ với vô số đàn ông. Tôi là cháu gái một người thợ mỏ ở Pennsylvania, con gái một nhân viên kinh doanh từng là công nhân ngành thép. Sau khi bố mẹ chia tay, tôi sống cùng mẹ, chị gái và em trai trong một khu chung cư dành cho những bà mẹ đơn thân và con của họ. Thời niên thiếu, tôi từng sống theo kiểu về với tự nhiên trong khu rừng phía Bắc Minnesota, ở một ngôi nhà không có vệ sinh khép kín, không điện, không hệ thống nước. Dù vậy, tôi vẫn trở thành đội trưởng đội cổ vũ trường trung học và hoa khôi học đường. Rồi tôi vào đại học, đứng trong hàng ngũ những người cánh tả cấp tiến về bình đẳng giới. Nhưng trở thành người phụ nữ một mình bước qua gần 1.800 km đường hoang dã ư? Tôi chưa từng có suy nghĩ ấy. Dẫu thế, thử một lần cũng chẳng mất gì. Và giờ đây, đứng chân trần trên ngọn núi ở California này, tôi tưởng như đã vài năm trôi qua, vài năm sống một cuộc đời hoàn toàn khác, kể từ giây phút tôi đưa ra quyết định không tưởng đó: một mình đi bộ đường trường trên PCT để cứu lấy đời mình. Khi đó, tôi tin rằng, mọi điều tôi từng trải qua trước đó sẽ là hành trang tốt cho chuyến đi này. Nhưng không. Mỗi ngày trên con đường mòn chính là chuẩn bị duy nhất cho ngày tiếp theo. Và thậm chí đôi khi còn chẳng có cách nào để chuẩn bị cả. Như việc chiếc giày của tôi đã rớt bên sườn núi và chẳng thể lấy lại. Thực sự thì, tôi không hoàn toàn tiếc nuối khi đánh mất nó. Trong sáu tuần đi đôi giày ấy, tôi đã băng qua những hoang mạc và vùng tuyết phủ, thấy cỏ cây, bụi rậm, lá hoa đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc; tôi leo lên rồi lại đi xuống núi đồi, qua những cánh đồng, rừng thưa và những dải đất tôi thậm chí còn chẳng biết tên. Tôi chỉ có thể nói rằng mình đã từng ở đó, vượt qua và bỏ lại chúng sau lưng. Trong suốt quãng thời gian ấy, đôi giày khiến chân tôi phồng rộp, trầy da chảy máu; móng chân tôi đen lại và bốn móng đã tự bong ra, đau đớn vô cùng. Khi để mất đôi giày, cả tôi và chúng đều đã hoàn thành nghĩa vụ với nhau, dẫu từ tận đáy lòng tôi vẫn vô cùng yêu quý chúng. Đôi giày ấy chẳng còn là vật vô tri vô giác như với “tôi” ngày trước nữa; cũng giống chiếc ba lô, lều trại, túi ngủ, bình lọc nước, bếp lò siêu nhẹ và chiếc còi nhỏ màu cam tôi mang theo thay cho khẩu súng trong suốt mùa hè ấy. Chúng đều là những thứ tôi hiểu rõ và tin tưởng; những thứ giúp tôi tiến bước. Phía dưới kia, những ngọn cây cao ngất đang khẽ đu đưa trong làn gió nóng bức. Tôi chăm chú nhìn xuyên qua khoảng mênh mông xanh ngắt ấy, thầm nghĩ hẳn đôi giày của mình nằm dưới đó. Vì khung cảnh tuyệt vời trước mắt, tôi quyết định dừng chân tạm nghỉ. Tôi ở đây, trong một chiều muộn giữa tháng bảy, cách xa thế giới văn minh về mọi mặt, và còn nhiều ngày nữa mới tới được trạm bưu điện hiu quạnh để lấy chiếc hộp tiếp tế tiếp theo. Có thể ai đó đang đi xuống theo con đường mòn này; nhưng khả năng ấy rất mong manh. Thường thường, tôi đi rất nhiều ngày mà không thấy một ai khác. Dù sao thì, có người đi cùng hay không cũng vậy cả. Tôi là kẻ độc hành. Tôi lặng nhìn đôi chân trần dập nát với vài móng chân còn sót lại. Khi tháo đôi tất len tôi vẫn thường mang, từ trên mắt cá trở xuống, chân tôi nhợt nhạt khủng khiếp. Bắp chân gân guốc, sạm nắng và rậm lông; lem luốc bẩn thỉu với đầy vết xước và phồng rộp. Tôi bắt đầu đi bộ từ hoang mạc Mojave và không định dừng lại cho tới khi chạm tay tới cây cầu bắc qua con sông Columbia ở ranh giới giữa Oregon và Washington. Một cây cầu có cái tên hoa mỹ: Cầu của Chúa. Tôi nhìn về phương bắc, chăm chăm hướng tới cây cầu “hoa tiêu” ấy. Tôi ngoảnh lại phương nam, vùng đất hoang dã đã “dạy dỗ” và thiêu đốt tôi; cân nhắc những lựa chọn của mình. Và chỉ có duy nhất một đáp án thôi. Luôn luôn là như vậy. Tiếp tục tiến bước. Mời các bạn đón đọc Hoang Dã - Hành Trình Tìm Lại Mình Trên Đường Mòn Pacific Crest của tác giả Cheryl Strayed.
Hà Nội Lầm Than
"Tác giả Trọng Lang cũng là cây bút viết phóng sự sớm và chuyên nhất với thể văn này trong một thời gian dài. Các tác phẩm chính của Trọng Lang có Trong làng chạy, Đời bí mật của sư, vãi, Gà chọi (1935), Đồng bóng (1935-1936), Hà Nội lầm than (1937), Làm dân (1938), Làm tiền (1939); và sau này còn có thêm Thầy “lang”, Vợ lẽ nàng hầu, Những đứa trẻ (1941-1944)... Các phóng sự, ghi chép của Trọng Lang in khá rõ phong cách điều tra, kể chuyện, khai thác tư liệu thực tế. Nhà văn đã mở rộng diện đề tài, bao quát cả những khía cạnh đời sống tinh thần, phong tục tập quán và thực trạng những lối sống mới đang nảy sinh. Ở đây có cả thế giới muôn màu vẻ của bọn trộm cắp (Trong làng chạy), đời sống nhếch nhác cùng cực nơi thị thành (Hà Nội lầm than, Làm tiền) và muôn mặt những tệ nạn sau luỹ tre làng (Làm dân, Xôi thịt)... Nhiều trang viết thực sự sinh động, phô bày được những góc khuất tối của bọn người trộm cắp, đồng cốt, gái làm tiền, tệ nạn thuốc phiện... Không chỉ phản ánh và bộc lộ thái độ trước các vấn đề xã hội mà Trọng Lang còn tỏ bày khuynh hướng tư tưởng, chỉ ra những nỗi cơ cực, đau xót của lớp người “làm dân” dưới đáy xã hội. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan từng khái quát ý nghĩa sáng tác của Trọng Lang: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình... Muốn hiểu tâm hồn những hạng dân quê đã bị “lây” ít nhiều thói tỉnh thành, phải đọc những phóng sự của Trọng Lang; nhưng muốn hiểu tâm hồn những người dân quê còn đặc quê mùa, cần phải đọc những tập phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Ngô Tất Tố”. (Nguyễn Hữu Sơn) "Người ta có khi khoe rằng đã đi hát cô đầu, và biết nhảy đầm. Nhưng, tôi quyết rằng không ai dám nhận đã có đi vào..."nhà thổ", dù chỉ có một lần nhỏ thôi, trong đời mình... Tôi đã đàng hoàng bước vào nhà thổ...." Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt. Một góc nhìn riêng Hà Nội lầm than (1938)1 có thể coi là thiên phóng sự đặc sắc và được nhắc đến nhiều nhất của Trọng Lang và cho đến hôm nay, sẽ vẫn nằm trong số những diễn ngôn đáng chú ý nhất về mảnh đất này ở giai đoạn nó bị/được bao trùm không khí Âu hóa đa sắc thái. Hà Nội lầm than là Hà Nội của giai tầng dưới đáy, của những hạng người và hạng nghề nghiệp từng bị đặt trong sự dè bỉu, coi thường của đám đông xã hội. Trong vai một tay chơi có máu điều tra, Trọng Lang đã lần lượt chứng kiến và tái dựng nguyên trạng tình cảnh của những phụ nữ “nô lệ tạm thời” tại các quán bar, tiệm nhảy, nhà thổ…, nơi lui tới thường xuyên của tầng lớp giàu có và ưa thích thú vui xác thịt. Những nhân vật cụ thể được tiếp cận; các mánh khóe buôn da bán thịt được phơi bày; thói thực dụng tiền bạc được liệt kê; những ngóc ngách thân phận được chi tiết tường tận; những tàn tạ, nhếch nhác nhân hình được đặc tả…, tất cả, như vết chàm vô phương cứu chữa, đã là bằng cứ thuyết phục cho đời sống đô thị ở khía cạnh thị trường hóa, hàng hóa hóa len vào mọi nơi chốn, mọi mối quan hệ. Cố gắng giữ điềm tĩnh nhưng không ít lần, Trọng Lang đã phải thừa nhận sự bất lực trong việc miêu tả “những nỗi thống khổ ê chề của một hạng nô lệ cho xác thịt”, phải gay gắt mỉa mai thay vì cảm thương những nhà thổ “ô uế cực kì, một chỗ để chứng rằng tâm hồn, xác thịt của một đám đàn bà trụy lạc đã thối nát đến bực nào”, hay đám “nhà thổ đực” – “một cái nhục rất đau đớn cho người ‘có râu’”… Trong khi đẩy cao cảm giác bi phẫn, Trọng Lang đã dừng lại rất lâu ở sự phi lí, ngang trái của những biến đổi văn hóa (chẳng hạn, cô đầu khi xưa là “một cái thú nên thơ” nhưng giờ chỉ là trò mua vui giả dối), những tai ương, bệnh tật, khổ ải đổ xuống bất kì ai trong chốn ăn chơi và sau cùng, những thực tế khó lường của nếp sinh hoạt tiểu nông đang bị tha hóa khi xuất hiện “hạng ăn mày không đói, không rách, có khi sang trọng hơn người viết bài này, có tên là ‘tụi secours’, đi ăn xin nói bằng tiếng Pháp để lấy tiền bao gái và hút thuốc phiện”. Không chịu im tiếng, người quan sát-tác giả đã tham gia vào các màn đối thoại sinh động, đã khéo léo huy động các tiếng lóng, “từ chuyên môn” và sắc sảo nhất là những so sánh tạt ngang để khóa chặt đối tượng trong không gian tương ứng (“Như chim sơn ca, buồn bã, với tiếng gọi của rừng núi rộng, các cô sống theo tiếng gọi của đàn tâm có trăm ngàn điệu”; “Nếu tất cả những nhà thổ có thể ví được là những miếng thịt trâu ngâm nước, thì ả này là một miếng bạc nhạc, bụng nhụng mà người đồ tể thường cắt vất đi cho chó ăn, và đã rữa ra rồi…”; “Ông khách đó là một mẩu người tủn hoẳn, vừa gầy vừa xanh, quần áo xốc xếch, ngực bó cao, ống quần hẹp”…). Đằng sau các thủ pháp viết lách linh hoạt, Hà Nội lầm than có nhiều câu chuyện “có thể làm cho mặt trăng u ám đi được” vì mức độ tê tái, trắng phớ của nó. Hà Nội lầm than đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường (1943) của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt, bắt đầu từ tiểu sử trở đi. Nhưng cần thiết nhớ rằng, Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, bằng khả năng chọn lọc nhanh nhạy của mình, đã giới thiệu Trọng Lang thật nồng nhiệt: “Trong số các nhà văn viết phóng sự gần đây, Trọng Lang có óc phê bình hơn cả. Văn ông đanh thép và sắc cạnh, chuyên về tả cảnh nhiều hơn tả tình”. Tiếng kêu thương Hà Nội lầm than, vào năm 1938, quả thật, đã khía rất sâu vào một trong những thực tế đang trương phình ở các đô thị thuộc địa: nạn mua bán dâm, sự phát triển thiếu kiểm soát của hệ thống nhà thổ, các địa điểm kinh doanh tình dục trá hình. Báo chí thời ấy đã không bỏ qua thực tế này, và theo nhiều cách khác nhau, lần lượt lên tiếng như một nỗ lực khảo tả kĩ càng hơn về vị thế người phụ nữ. Không phải ngẫu nhiên mà Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà mới,… là những tờ báo xông xáo theo đuổi vấn đề mại dâm và hầu hết đều coi đây là một vấn nạn xã hội cần bài trừ. Tờ Trung Bắc chủ nhật ra ngày 27/9/1942 cho biết năm 1938 có tới 216 nhà hát, gần 2.000 cô đầu ở vùng ngoại ô Hà Nội và nạn hoa liễu do các cô đầu gây ra lan nhanh đến mức không thể ngăn chặn. Cô đầu hay rộng hơn, gái mại dâm, là hình ảnh trung tâm của sự khó khăn, bế tắc, mâu thuẫn mà phụ nữ ở các đô thị rất dễ mắc phải bởi những cạm bẫy sinh kế liên tục bủa vây, trong khi khoảng cách giàu nghèo và địa vị hoặc sự nới lỏng đạo đức ngày một nhiều hơn. Trong thiên phóng sự của mình, Trọng Lang không hoàn toàn đứng về phía bênh vực những cô đầu, gái nhảy, tầng lớp xét cho cùng là bị bóc lột, bị gạt ra rìa dù ông “đàng hoàng bước vào nhà thổ, với ngòi bút và lòng thương”. Về cơ bản, ông phê phán và liên tục chỉ ra thảm trạng bi đát mà họ đang chịu đựng. Với ông, nạn nhân cũng đồng thời là kẻ chủ ý chuốc lấy đau khổ vì đã tự mình lựa chọn một đời sống như vậy. Vì thế, nữ giới trong Hà Nội lầm than không đem lại thiện cảm nhan sắc, tính cách hay những nỗi niềm trắc ẩn số phận. Thái độ này không có nghĩa ông vô can với tha nhân mà trái lại, muốn tỉnh táo ghi chép, phân tích những tiếp nhận thiếu phản kháng từ lối sống chú mục hưởng lạc tai hại trong một đô thị trên đà hiện đại hóa như Hà Nội. Tính chất lưỡng phân của sợi dây đạo đức, vừa căm giận, khinh bỉ vừa xót xa, cảm thông đối với nghề mại dâm, trong trường hợp này, đã không thắt chặt được các ngả rẽ văn hóa của thị dân, nơi nhu cầu thuận mua vừa bán là hiển nhiên công khai. Trọng Lang kết thúc thiên phóng sự của mình trong sự vỡ lẽ rằng, chẳng có một giọt nước cam lồ nào đủ tưới hàng vạn người lầm than, còn bản thân thì lại thêm đau đớn. Khả năng dấn thân của một nhà văn, dù quyết liệt đến đâu, rút cuộc, cũng vẫn chỉ là “tiếng kêu thương”, hi vọng xã hội và chính thể thời điểm đó lắng nghe và thấu tỏ hơn mà thôi. Đọc Hà Nội lầm than để, bên cạnh những mĩ từ thanh lịch, hào hoa, hào hùng, văn hiến, cần thiết hiểu và cập nhật thêm một Hà Nội, xưa lẫn nay, không thiếu cơ cực, cam chịu và khuất lấp ngoài rìa muôn mặt nhân sinh. Trọng Lang tên thật là Trần Tán Cửu, sinh năm 1906 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học. Sau khi học xong bậc trung học, ông bắt đầu viết văn, viết báo, trở thành cây bút phóng sự thường xuyên trên các tờ Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội tân văn… Sự nở rộ của phóng sự giai đoạn này, như ta thấy, đã được nuôi dưỡng bởi sự phát triển đa dạng của báo chí và nhất là một môi trường xã hội mà những vấn đề cấp bách, thời sự trong đó chưa bao giờ lắng xuống, “những điều trông thấy” chưa bao giờ tạm ngưng thúc giục, khiêu khích người cầm bút phải đối mặt trực tiếp, mô tả và lí giải nó. Đời sống nhân sinh từ đô thị đến nông thôn, với tất cả những biến đổi khốc liệt, dữ dội, trái khoáy và thậm chí, đầy bẽ bàng, cay đắng của nó, trong giai đoạn các lực xung va chạm giữa hai thế giới (cũ-mới, truyền thống-hiện đại, phong kiến-thực dân, Việt Nam - Pháp…) đạt đến cao trào, đã trở thành mảnh vỡ nguyên liệu để các ngòi bút phóng sự, vốn nhiệt huyết và sắc bén, giải phẫu một cách chi tiết. Khả năng xét nghiệm chân xác văn hóa đô thị của Vũ Trọng Phụng, mức độ lật tẩy kịp thời hủ tục làng xã của Ngô Tất Tố ởViệc làng, hay tài miêu tả chân thực của Tam Lang trong Tôi kéo xe…, về cơ bản, không chỉ làm đầy thêm các tri nhận về diện mạo, bản chất xã hội Việt Nam thuộc địa mà rõ ràng, còn thúc đẩy sự trưởng thành vượt bậc của thể phóng sự, của văn xuôi quốc ngữ. Giữa những tiếng nói nổi bật đó, Trọng Lang không hề bị mờ đi. Vì trước nhất, ông đã kiên trì theo đuổi nhiều đề tài gai góc như một cây bút ý thức rất cao trách nhiệm can dự xã hội của mình và thứ nữa, ông lựa chọn kênh phát ngôn chính yếu ở phóng sự, một loại hình lao động chữ nghĩa cần đến cả bản lĩnh và sự trung thực tận đáy. Phẩm chất đó, cùng với việc kịp đứng trong chiến tuyến của tinh thần duy tân sẵn sàng phê phán mọi đối tượng, đã giúp Trọng Lang hoàn thành văn nghiệp đáng kể của mình ngay trước 1945 với những Trong làng chạy; Đời bí mật của sư, vãi; Đồng bóng; Làm tiền; Với các ông lang; Làm dân; Thi vị đồng ruộng… Năm 1954, Trọng Lang di cư vào Nam, tiếp tục hoạt động văn chương báo chí. Ông mất tại Sài Gòn ngày 29-4-1986. ---------------------------- 1 Ấn bản đầu do Đời Nay thực hiện năm 1938. Ấn bản 2015 do NXB Hội nhà văn và Nhã Nam thực hiện. Mời các bạn đón đọc Hà Nội Lầm Than của tác giả Trọng Lang