Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khát Vọng Đổi Đời

Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. *** Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ.   Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. *** Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916.   Mời các bạn đón đọc Khát Vọng Đổi Đời của tác giả Stefan Zweig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ánh Sao Lấp Lánh
Ông Tuấn bảo tất cả người nhà phải chuẩn bị chu đáo cho bữa cơm chiều nay. Hôm nay, ông khó khăn lắm mới mời được Vỹ Khang đến nhà, mục đích của ông là muốn giới thiệu cô con gái của mình cho anh. Nếu thành công, công ty của ông sẽ thoát được khó khăn và ông tin con gái mình đủ khả năng để làm mềm trái tim của người đàn ông sắt đá này. Buổi chiều, Vỹ Khang đến cùng trợ lý của mình, ông Tuấn thoáng thất vọng khi ông chỉ muốn Khang đến một mình để buổi tiệc có phần thân mật hơn. Nghĩ thế, nhưng ông vẫn tươi cười bắt tay anh: - Cảm ơn cậu đã đến! Tôi đã bảo người nhà chuẩn bị cơm, coi như cảm ơn cậu đã giúp đỡ tôi thời gian qua. Vỹ Khang khẽ cười không nói gì. Khi cả ba ngồi xuống phòng khách thì Hiểu Ngọc đã xuống đến bậc thang cuối, cô cười thật đẹp. Ông Tuấn nhìn con thầm hài lòng. - Ngọc! Con lại chào anh Khang và anh Nguyên đi. Hiểu Ngọc thật quyến rũ trong bồ đồ mặc nhà, cô duyên dáng gật đầu chào rồi xin phép ra phía sau. Ông Tuấn thầm quan sát nét mặt của Khang. Đôi mắt ông thoáng thất vọng, khi vẫn là khuôn mặt lạnh lùng cố hữu. Ông nói như vô tình: - Nó đang học năm cuối khoa Quản trị. Rất ngoan và học giỏi nên tôi rất yên tâm. Nguyên mỉm cười: - Tôi có biết Hiểu Ngọc, cô ấy rất nổi tiếng. Vừa là hoa khôi của trường lại là sinh viên xuất sắc. Ông Tuấn cười thật tươi không giấu được vẻ hãnh diện về con gái mình, ông nói khiêm tốn: - Tôi chỉ mong nó ra trường phụ tôi một tay. Nó còn khờ lắm, chưa biết gì về cách làm ăn bên ngoài cả. Cả ba nói chuyện một lúc thì Hiểu Ngọc bước ra, cô lễ phép mời mọi người vào dùng cơm. Ngọc ngồi đối diện với Vỹ Khang, cử chỉ hiền ngoan đến mềm lòng. Hình như suốt bữa ăn, chỉ có Nguyên là gợi chuyện với Ngọc, cô thoáng thất vọng nhưng cũng lịch sự đáp lại Nguyên. - Anh Khang chắc khó lắm nhỉ? Vỹ Khang khẽ nhướng mày như hỏi nhưng không nói gì. Ngọc mỉm cười: - Em chỉ nói theo cảm nhận của mình. Em nói có đúng không? Nguyên khẽ cười nhún vai: - Rất chính xác. Vỹ Khang hớp một ngụm rượu rồi nhìn Ngọc, cái nhìn thẳng thắn lần đầu tiên kể từ lúc gặp cô đến giờ. Như một luồng điện chạy khắp người cô, Hiểu Ngọc chớp mắt bối rối. Cùng lúc đó bà vú từ nhà sau mang lên một mâm cơm nhỏ trên tay. Bà Tuấn chặn lại: - Nhớ pha cho con bé ly sữa, hôm qua nó không ăn gì nhiều. - Dạ. Nói rồi bà vú đi thẳng lên phòng khách để lên lầu. Bà Tuấn quay lại, thấy cái nhìn của Nguyên, bà khẽ cười: - Con bé là em của Ngọc, nó bị bệnh nên không thể xuống. Chỉ một câu giải thích rồi chấm dứt, mọi người cũng không bận tâm. Lúc sau thì bà vú hớt hải chạy xuống: - Con Hân nóng quá, hình như là sốt rất cao. Bà Tuấn đứng bật dậy: - Để tôi xem. Tất cả đều ra phòng khách, ông Tuấn cũng không giấu được vẻ lo lắng khi gọi điện cho bác sĩ. Vỹ Khang và Nguyên đều trầm ngâm nhìn. Lúc sau bà Tuấn đi xuống: - Không hiểu sao nó bị bệnh như thế. Nó đâu có đi ra ngoài. Bác sĩ đến nhưng ông đề nghị phải đưa vào bệnh viện. Cả nhà lo lắng lên phòng của Hiểu Hân. Ông Tuấn ái ngại nhìn Vỹ Khang: - Xin lỗi cậu... Vỹ Khang khoát tay. Không thể làm khác, anh và Nguyên cùng lên xem sao. Đó là một căn phòng toàn một màu vàng ngộ nghĩnh, từ drap giường đến chiếc đèn ngủ nhỏ. Bấy giờ Khang mới lên tiếng: - Cô ấy không sao chứ? Anh bước vào phòng và nhìn đăm đăm cô gái nằm bất động được ủ ấm bằng chiếc chăn thật dày trên giường. Nguyên cũng nhìn nhưng đôi mắt không giấu giếm được sự say mê. Không ngờ ông Tuấn lại có hai người con gái đẹp đến như thế, nhưng ở Hiểu Hân lại có sức quyến rũ lạ thường dù cô đang bệnh. Chưa bao giờ Nguyên gặp người đẹp nào hoàn hảo đến thế. Anh cứ đứng lặng nhìn quên mọi thứ xung quanh. Bỗng Khang lên tiếng: - Sẵn có xe, để tôi giúp mọi người đưa cô ấy vào viện. Ông Tuấn dù đang lo cũng không giấu được sự ngạc nhiên về cách quan tâm của Khang. Bà Tuấn thì ngân ngấn nước mắt lăng xăng soạn đồ cho con. Ông Tuấn định đỡ Hiểu Hân nhưng Khang đã bước đến: - Để tôi giúp ông! Nói rồi anh bồng xốc Hiểu Hân trên tay trước đôi mặt ngạc nhiên của Nguyên. Khang đi nhanh ra xe bằng những bước chân hối hả, biểu lộ một sự lo lắng thực sự chứ không phải giúp xã giao. Hiểu Hân được đưa vào phòng cấp cứu, khoảng gần một tiếng bác sĩ mới bước ra: - Cô ấy bị suy nhược lại sốt rất cao, cũng may là đưa đến kịp. Mọi người đều thở nhẹ dù chưa hết lo lắng. Hiểu Hân được đưa vào phòng riêng biệt mà ông Tuấn đã đặt sẵn, cô vẫn chưa tỉnh. Sau khi đã an tâm về con, ông Tuấn quay qua Vỹ Khang: - Cám ơn cậu! - Không có gì. Cô ấy không sao là tốt rồi. Đôi mắt Khang lại chiếu vào Hiểu Hân đang nằm thiêm thiếp, ông Tuấn cũng nhận thấy sự khác lạ đó và khẽ thở dài. Một lúc sau thì Vỹ Khang và Nguyên ra về. Suốt đoạn đường, Nguyên thầm quan sát bạn, khuôn mặt của Vỹ Khang rất trầm ngâm, anh không nói một lời nào từ lúc lên xe. - Hôm nay mày lạ quá, có thể giải thích không? Khang châm cho mình điếu thuốc: - Không có gì. Nguyên thấy mình nên dừng lại và đừng hỏi gì cả, dù là bạn nhưng Nguyên thầm nhận mình rất ngán Khang. Hiểu Hân dựa vào cạnh giường. Mẹ vừa về nên cô cũng thấy thoải mái vì nếu có bà, bà sẽ ép ăn đủ thứ, mà Hiểu Hân lại rất ngán những thứ đó. Bà vú đã ra ngoài mua cháo, chỉ có một mình cô trong phòng. Bỗng có tiếng gõ, Hiểu Hân lắng tai nghe, chắc chắn không phải người nhà, cũng không thể là Uyên khi nhỏ đã vào lúc sáng. Hân nghĩ ngay đến Bình: - Vào đi! Tiếng chân bước hoàn toàn xa lạ, Hân không nhận ra âm thanh nào quen thuộc. Cô run giọng: - Ai? Tiếng bước chân dừng lại bên cạnh rồi một giọng nói trầm ấm vang lên. - Tôi là bạn của ba cô. Lúc cô vào bệnh viện tôi cũng có mặt nên tôi đến đây xem cô thế nào. Hiểu Hân chớp mắt: - Xin lỗi, tôi không biết ông. Người đàn ông khẽ cười: - Tôi tên Vỹ Khang. Cô khỏe chưa? - Tôi đỡ nhiều rồi. Cảm ơn ông. - Cô thấy tôi già lắm sao? Hiểu Hân chớp mắt, không hiểu ông ta vô ý hay cố tình khi nói như thế. Cô có thấy gì đâu? Không lẽ ông ta không biết cô không thể nhìn thấy ánh sáng hay sao? Hân bỗng nhớ ra cặp mắt kính mình đang đeo khi ra ngoài lúc nãy. - Xin lỗi, vì tôi nghĩ ông là bạn của ba mình. Vỹ Khang khẽ nhướng mắt, anh không thấy được gì khi cô che giấu cặp mắt của mình. - Tôi có nghe mẹ kể lại, chắc ông là người đã đưa tôi vào bệnh viện, đúng không? Vỹ Khang gật đầu không trả lời. Hiểu Hân cũng ngồi im vì không biết nói gì. Cô không quen khi tiếp xúc với người lạ như thế này. Cửa phòng được đẩy nhẹ, Hân nhẹ nhõm khi nhận ra tiếng chân bà vú: - Vú về rồi à? - Ừ. Bà vú quay qua nhìn Khang, cái nhìn đầy vẻ ngạc nhiên: - Cậu Khang đến lâu chưa? - Mới đây thôi. Vỹ Khang đưa cho bà vú bọc trái cây và một bó hoa rồi đưa mặt nhìn Hân: - Chúc Hân mau bình phục! - Cảm ơn. Khang hơi nhíu mày vì vẻ thờ ơ của Hân. Bà vú hình như nhận ra, liền nói: - Tôi nhận giùm Hân được rồi. Cảm ơn cậu. Khang trao tất cả cho bà vú. Hân chỉ gật đầu không nói gì. - Chào cô. Hân khẽ gật đầu chào lại, cử chỉ như đề phòng. Đợi cánh cửa khép lại, Hân vội hỏi: - Ai thế vú? Bà vú đặt vào tay cô cà mèn cháo: - Ba con rất quý cậu ấy. Ông định gả Hiểu Ngọc cho cậu ấy đấy. Hiểu Hân gỡ chiếc kính ra: - Vậy sao? Tại ông nói là bạn của ba con nên con thấy lạ, vì có bao giờ bạn của ba đến thăm con đâu. Hiểu Hân không hỏi nữa, cô ngoan ngoãn múc từng thìa cháo trong cái nhìn thương yêu của bà vú. Đây là lấn thứ hai Vỹ Khang đến nhà theo lời mời của ông Tuấn. Đặt tách trà xuống bàn, Khang hỏi: - Tôi có thể thăm Hiểu Hân không? Ông Tuấn nhìn Khang lo ngại: - Dĩ nhiên là được. Hiểu Ngọc từ trên lầu đi xuống, cô ngạc nhiên khi thấy Khang đứng lên. - Anh Khang về hả? Vỹ Khang đưa mắt nhìn cô: - Tôi lên thăm Hiểu Hân. Hiểu Ngọc chớp mắt, cô nói bình thản: - Để em đưa anh đi. Khang không nói gì, bước theo cô lên lầu. Ông Tuấn trầm ngâm nhìn theo. Ông không hiểu Khang là người thế nào, nhưng cách quan tâm của anh đối với Hiểu Hân thì chỉ có kẻ ngốc mới không nhận ra tình ý của Khang. Hiểu Ngọc mở cửa phòng em. Hân đang nằm ôm con gấu bông trên giường. Nhận ra ngay tiếng bước chân của chị, cô khẽ cười. - Có anh Khang đến thăm em nè. Ngồi dậy đi! Hiểu Hân bối rối ngồi lên. Hiểu Ngọc quay qua Khang: - Anh Khang ngồi chơi. Khang nhìn đăm đăm gương mặt của Hiểu Hân. Bây giờ anh mới thấy đôi mắt thật đẹp của cô nhưng có nét gì đó không linh động bình thường. - Hân nhớ tôi chứ? Hiểu Hân gật đầu không nói. Hiểu Ngọc chợt hỏi: - Cái đồng hồ chị tặng cho em đâu rồi? Hiểu Hân nhíu mày, cô luôn để trên đầu giường mà. Hân đưa tay tìm ở chỗ cũ nhưng trống không. Cô quờ quạng tìm chỗ khác, không hay có đôi mắt đang sững sờ nhìn theo từng cử chỉ của mình: - Em để ở đây mà, không biết ai lấy đi đâu mất rôi. Hiểu Ngọc bước đến nắm tay em: - Thôi đừng tìm nữa, để chị hỏi mọi người cho. - Dạ. Hiểu Hân lại ngồi im như lúc đầu. Khang như đã qua phút ngỡ ngàng, anh nhìn Hiểu Hân dịu dàng: - Tôi thấy Hân hồng hào hơn trước nhiều. Theo phản xạ, Hân đưa tay sờ lên mặt mình: - Vậy sao? Khang vẫn không rời mắt khỏi cô. Hiểu Ngọc cảm nhận được những gì Vỹ Khang đang thể hiện. Một nỗi cay đắng trào lên trong cô. - Hân có muốn hỏi gì về tôi không? Hân ngồi im, không hiểu Khang muốn nói gì, nhưng cô vẫn trả lời theo những gì mình biết: - Xin lỗi vì lần trước tôi không biết anh là ai. Nhưng giờ thì tôi biết rồi. - Biết gì? Hân ngước lên, có cái gì đó đau thắt trong Khang khi anh nhìn vào đôi mắt tuyệt đẹp của cô. Nó vẫn rất trong sáng, không ai ngờ được rằng cô không thấy được gì. - Anh là bạn của chị Ngọc. Vỹ Khang nhíu mày: - Và của Hân nữa, nếu em muốn. Hiểu Hân khẽ cười: - Tôi không vô phép thế đâu. Vỹ Khang nhìn cô không nói gì. Một lúc sau thì Khang ra về. Anh bước xuống phòng khách thì gặp ông bà Tuấn đang ngồi: - Cậu về sao? Vỹ Khang gật đầu: - Tôi có một cuộc hẹn nên phải đi. Hiểu Ngọc tiễn Khang ra cổng. Nhìn vẻ lạnh lùng cố hữu của anh, Ngọc khẽ quay đi. - Tôi về nhé! - Vỹ Khang bước đi. - Anh Khang! Vỹ Khang đứng lại chờ đợi. - Em muốn biết anh đến đây vì cái gì? Vỹ Khang quay lại nhìn cô: - Vì lời mời của ba em. - Thật không? Vỹ Khang nhướng mắt: - Nhưng bắt đầu từ ngày mai, tôi sẽ là vị khách không mời mà đến. Tim Hiểu Ngọc nhói đau, cô cố nói bình thản: - Nghĩa là sao? - Tôi sẽ nói chuyện với ba em về quyết định của mình. Em vào nhà đi! Hiểu Ngọc chớp mắt, cô muốn nghe Khang nói rõ ràng hơn, nhưng nhìn vẻ dứt khoát của anh, cô không dám. Tuần sau, ông Tuấn hoàn toàn kinh ngạc vì những điều Khang nói. Ông về nhà với tâm trạng vừa mừng lại vừa lo, một điều mà chưa bao giờ ông dám mơ. Hiểu Ngọc nghe với một nỗi đau không gì gượng nổi, Khang đã đánh vào lòng tự trọng của cô quá nặng nề. Anh là người đầu tiên cô đem tất cả tình cảm để yêu và hy vọng, thế mà Khang đã gạt bỏ không cần bận tâm. Ông Tuấn ngồi trầm ngâm bên tách trà, ông không biết mình phải nói gì với Hiểu Hân, con bé sẽ có thái độ gì? Vỹ Khang lại đến, bây giờ anh có thể tự do lên thăm Hiểu Hân mà không cần phải e dè. Khang gõ nhẹ cửa: - Vào đi! Sự im lặng của Hân làm Khang thấy thất vọng khi cô vẫn chưa quen được tiếng chân anh: - Em không đoán được ai à? - Xin lỗi, tôi không quen. Vỹ Khang ngồi xuống, đối diện với cô: - Nhận ra tiếng anh không? Hiểu Hân chớp mắt, cô thấy ngại vì cách nói thân mật gần như âu yếm của Khang: - Chị Ngọc không lên với anh sao? Vỹ Khang nhìn cô rồi cố ý hỏi để cho cô hiểu: - Tại sao Hiểu Ngọc phải lên với anh? Hiểu Hân chớp mắt, cô ngồi thẳng người lên, cách nói chuyện của Khang luôn làm cô bất an, luôn đề phòng. - Đừng căng thẳng như thế, anh hỏi rất nghiêm túc. Em cứ nói những gì mình nghĩ. Hiểu Hân lắc đầu: - Tôi không hiểu anh nói gì, khi tôi thấy mình không nói điều gì sai cả. Vỹ Khang khẽ cười: - Em không nói sai, nhưng anh muốn em hiểu rằng việc anh đến thăm em không liên quan gì đến Ngọc. Anh đến vì anh thích, thế thôi. Hiểu Hân ngồi im. Vỹ Khang nhìn cô đăm đăm như quan sát, cái nhìn của anh sắc đến nỗi nó lây sang cả Hân, dù không thấy nhưng cô vẫn cảm nhận được. Hân vụng về nắm chặt bàn tay mình lại, cử chỉ đó không qua mắt Khang: - Em không hiểu anh nói gì phải không? - Không và cũng không muốn hiểu. Anh đừng nói nữa. - Tại sao? Hiểu Hân chớp mắt như sắp khóc, cô thấy giận cay đắng: - Không tại sao cả. Nếu muốn lên thăm tôi, tốt nhất là anh hãy đi cùng chị Ngọc. Tôi mệt lắm, tôi muốn nghỉ. Xin lỗi anh... Vỹ Khang vẫn ngồi yên, không ngờ cách thể hiện của anh lại làm cô giận đến thế. Vỹ Khang hiểu để làm Hân chấp nhận thì là cả một quá trình, nhưng quan trọng là anh sẽ không bỏ cuộc. Vỹ Khang bước đến gần cô. Hân hơi lùi lại khi cảm nhận được sự gần gũi rất gần. Cô run giọng: - Anh muốn gì? Vỹ Khang thấy đau lòng khi nhìn vẻ sợ sệt của cô. Không ngờ có lúc anh khó diễn đạt tình cảm của mình như thế này. - Hôm nay, anh muốn em hiểu đúng những gì anh nói. Anh đến đây là vì em, Hiểu Ngọc không liên quan gì cả. Đừng suy nghĩ lung tung mà hãy đón nhận và suy nghĩ xem em có chấp nhận được anh không? Hiểu Hân im lìm. Vỹ Khang khẽ quay đi: - Em nghỉ đi. Anh về đây. Nói rồi Vỹ Khang bước ra ngoài. Anh biết cách thể hiện tình cảm của mình sẽ làm Hiểu Hân hoang mang, đề phòng nhưng Khang chấp nhận, chứ anh không bao giờ muốn Hân hiểu lầm tình cảm của mình. Ông Tuấn lên phòng Hân sau khi đã tiễn Khang về. Ông cứ ngồi trầm ngâm bên giường của con. Nhìn dáng vẻ im lìm thụ động của con, ông không khỏi đau lòng: - Con thấy Vỹ Khang thế nào Hân? - Sao ba lại hỏi thế? Ông nắm tay con khẽ cười: - Thằng Khang nó muốn cưới con. Con nghĩ sao? Hân nắm chặt tay ba mình: - Con không thể... Ông Tuấn vuốt tóc cô: - Ba hiểu con khó chấp nhận, nhưng Khang là người đáng tin cậy. Ba tin nó sẽ mang hạnh phúc đến cho con. Hiểu Hân khóc lặng lẽ, cô quá yếu đuối: - Con không muốn. Ba đừng đồng ý, sao ba không hiểu... Ông Tuấn ngắt ngang: - Ba hiểu tất cả, nhưng con đừng sống như thế nữa. Cơ hội chỉ đến một lần thôi, đó là hạnh phúc cả đời, con nên nắm lấy. Hiểu Hân im lìm, cô khẽ lắc đầu nhưng không diễn tả được suy nghĩ của mình. - Con xin lỗi. Ông Tuấn khẽ thở dài: - Ba nói thật, công ty sắp phá sản rồi mà Khang lại là người có thể cứu gia đình mình. Ba nói thế, con hiểu không Hân? Ông Tuấn gục đầu trong tay, ông không nhìn Hiểu Hân vì thấy mình không xứng đáng. Gương mặt thất thần, tuyệt vọng của con như ngọn roi quất vào lương tâm ông đau nhói: - Ba xin lỗi, nếu con không đồng ý, ba sẽ không ép. Con nghỉ đi. Nói rồi ông bước ra khỏi phòng, bỏ lại Hiểu Hân một màu đen tối cả ở ngoài lẫn trong tâm hồn. Cô không còn nhận biết được thứ ánh sáng nào có thể dìu dắt mình nữa. Vỹ Khang đưa cô vào phòng, anh để cô ngồi trên giường: - Em mệt lắm hả? Hiểu Hân im lìm, Khang khẽ nắm tay cô, Hân rút nhẹ: - Tôi muốn gặp vú. Khang vẫn dịu dàng: - Em cần gì? Hiểu Hân chớp mắt: - Xin lỗi, tôi chỉ quen với sự chăm sóc của vú. - Anh là chồng em, đó là bổn phận của anh. Hiểu Hân rụt tay lại: - Đừng làm tôi sợ, anh Khang. Vỹ Khang nhìn cô im lìm, ước gì cô đọc thấy tình yêu của anh dành cho cô: - Em nghỉ đi. Nói rồi anh bước ra ngoài, lát sau thì bà vú vào. Hiểu Hân nắm tay bà áp lên má: - Vú đừng đi đâu nhé, ở lại với con. Bà vú khẽ vuốt tóc cô: - Con nên tập làm quen với sự hiện diện của Vỹ Khang, cậu ấy mới là người con cần đấy. Hiểu Hân chớp mắt, cô hiểu chứ. Nếu được như những người bình thường khác, có lẽ cô sẽ không như thế này. Tâm trạng của cô làm sao mọi người hiểu được. Mời các bạn đón đọc Ánh Sao Lấp Lánh của tác giả Hoàng Anh.
Bảy Ngày Đếm Ngược
“Tốt nhất là không gặp, không gặp sẽ không yêu. Tốt nhất không quen, không quen sẽ không nhớ. Nhưng từng gặp thì sẽ quen, gặp hay không gặp khác gì nhau? Đành cùng người quyết đoạn tuyệt, tránh được thương nhớ giữa sống chết.” Nếu biết còn 7 ngày để sống, tôi sẽ……… Đã bao giờ bạn tưởng tượng bạn sẽ được báo trước 7 ngày nữa mình sẽ chết? Nghe thật buồn cười nhưng một ngày như thế sẽ làm bạn phải suy nghĩ lại chứ? Những lời nào bạn muốn nói Người nào bạn muốn gặp gỡ Việc gì bạn muốn làm Cô nghệ sĩ hết thời từng danh nổi như cồn lại ôm trong lòng sự hối tiếc đối với tình thân Cô gái trẻ xuất thân trộm cắp vùng vẫy nơi đáy xã hội, khư khư ôm chặt ước mơ của mình Chàng dũng sĩ nhí cô độc lẻ loi chưa từng từ bỏ hi vọng, kiên trì tìm đến vòng tay của người thân “Bảy ngày đếm ngược” có thể sẽ lấy đi những giọt nước mắt, cũng có thể mang theo cả nụ cười cho bạn đọc. Hơn cả, cuốn sách này sẽ mang lại cho bạn cả những lúc cần phải lặng người hỏi bản thân “Tôi đã sống trọn vẹn hay chưa?”  *** Chuyện không liên quan thứ nhất là dạo này nóng thật, nóng khủng khiếp ấy. :((( Chuyện không liên quan thứ hai là mình rất thích đọc tiểu thuyết Đài Loan, cá nhân mình thấy thích hơn tiểu thuyết Trung Quốc luôn ấy. ❤ (Không, mình nghĩ là có liên quan đó. :3) Chuyện không liên quan thứ ba là chúc các bạn một ngày tốt lành! Rồi, giờ vào chuyện liên quan luôn nhé. Lâu rồi mình chưa đọc sách giấy, toàn ôm điện thoại đọc thôi. Xong rồi mình nhìn thấy một bài giới thiệu Bảy ngày đếm ngược trên Facebook, lúc đó mình kiểu quyết tâm phải mua về đọc ấy. Và mình không hề thất vọng, quyển này hay lắm luôn ấy. Bảy ngày đếm ngược là tiểu thuyết Đài Loan, không phải ngôn hay đam đâu, nên ai không đọc được hai thể loại này cứ mạnh dạn mà rước về nhé. Sơ Tam – nhân vật chính làm việc tại Cục tử vong của Thiên giới, công việc của cậu là lắng nghe tiếng lòng sau cuối của các vong linh, sau đó ghi lại cuộc đời họ. Thiên giới thử nghiệm kế hoạch Thông báo tử vong, mỗi người trước khi chết sẽ được thông báo trước 7 ngày, Sơ Tam chính là người được chọn để quan sát quá trình ấy. Đọc đến đây, chắc bạn đã có câu trả lời về nội dung truyện rồi nhỉ? Chính là kiểu truyện lồng trong truyện đó. Thật sự thì mình đã khóc khi đọc truyện này đấy, sợ hãi, tuyệt vọng, hy vọng, chờ đợi, cuốn sách này có cả. Bảy con người, bảy số phận khác nhau, điểm chung giữa họ là chỉ còn bảy ngày để sống. Diễn viên hết thời, kẻ móc túi, anh lính cứu hỏa, thanh niên mắc ung thư, cậu bé bị bỏ rơi, kẻ khủng bố, vị bác sĩ chân chính cống hiến cả cuộc đời. Nội dung chi tiết ra sao, bạn hãy tự đọc để cảm nhận nhé. Nghe truyện có vẻ u ám đúng không? Nhưng mình cam đoan là HE hết nhé. À, nói sơ qua về hình thức một chút nhé, sách cầm chắc tay, mình mở sách thô bạo lắm ấy mà quyển sách nhìn vẫn siêu đẹp. Vẫn có lỗi chính tả, nhưng mình không khó tính lắm nên thôi bỏ qua. Một số đoạn, mình thích dùng từ “cô” hơn là “cô ta”, cứ “cô ta”, “cô ta” suốt làm mình kiểu hơi ngừng lại một chút, hoặc là “cô ấy” nghe cũng hay hơn mà. Chung quy lại thì mình không thích văn phong dịch lắm. Không phải mình ship mù quáng đâu nhưng mình thích Phạm Khương Dịch Trạch x Sơ Tam, nhưng mà Phạm Khương Dịch Trạch x Trì Linh Dao kiểu cực đẹp ấy nên mình ship cả hai luôn. Mình nghĩ là sẽ kha khá người ship Tiêu Bang x Sơ Tam đó. ❤ Nói gọn lại là thì quyển này đáng mua lắm luôn, mọi người thử đọc và cảm nhận nhé. *** “Bảy ngày đếm ngược” của Cát Bốc Lặc đem lại cho độc giả những trăn trở sâu thẳm về đời người, với những mảnh số phận khác nhau khi đối diện với bản án chỉ còn bảy ngày để sống. Sơ Tam là người làm việc tại Cục Tử vong của Thiên giới, được giao công việc ghi chép lại cuộc đời của người đã khuất. Công việc đó khiến Sơ Tam có cơ hội được lắng nghe những tiếng lòng sau cuối của những vong linh, cảm nhận được những xúc cảm chân thật nhất của con người vào giây phút cận tử. Khi ấy, con người bộc lộ nguyên vẹn nhất với đầy đủ những hỷ nộ ái ố trong đời. Ở vị trí ấy, Sơ Tam cũng nhận ra rằng, dẫu cuộc đời mỗi người từng trải qua những biến cố ra sao, điều họ khao khát nhất vẫn là được sống. Những câu chuyện của người sắp chết khiến Sơ Tam ám ảnh. Cậu sống trong trạng thái bị quấy nhiễu bởi những ký ức trở đi trở lại. Cho đến một ngày, Sơ Tam được phân công nhiệm vụ trở thành người thông báo tử vong. Nhiệm vụ mới đặt cậu vào vai trò thông báo cho con người về cái chết của họ trước bảy ngày, và quan sát xem trong bảy ngày cuối cùng ấy, con người sống ra sao. Đây là một trải nghiệm đặc biệt đối với Sơ Tam, cũng mở ra những khoảng không vô tận, khiến cậu thấu hiểu hơn về con người nơi trần thế. Họ là một diễn viên hết thời, một cô gái hành nghề móc túi, anh lính cứu hỏa luôn hết mình với công việc, người thanh niên mắc ung thư, cậu bé bị bỏ rơi, kẻ khủng bố, vị bác sĩ chân chính cống hiến cả cuộc đời. Bảy số phận khác nhau ấy cùng ghép lại thành một bức tranh đa sắc về số phận con người trong cuộc sống hiện đại dù cuộc đời họ chỉ được tái hiện trong bảy ngày cuối cùng ngắn ngủi. Củng Thiên Nghi là một diễn viên ngôi sao hết thời, đang vướng vào những vụ lùm xùm, sống trong cảnh buồn chán vì ế show. Khi Sơ Tam xuất hiện, thông báo rằng sinh mệnh của cô chỉ còn bảy ngày, ấy cũng chính là chìa khóa mở cánh cửa bí ẩn về cuộc đời cô. Bảy ngày ấy, với vai trò người quan sát, Sơ Tam đã có cơ hội để hiểu những tâm tư sâu thẳm của một ngôi sao. Trước đó, vì đuổi theo những thành công của sự nghiệp, cô đã rời bỏ cha mẹ, từng có con nhưng đành để cho người em gái nuôi nấng, đã mang trong mình một mối thâm tình nhưng rồi cũng lìa bỏ. Cuộc đời của Củng Thiên Nghi đến hôm ấy tưởng như trống không, chỉ còn lại là những ảo ảnh của sự nổi tiếng. Nhưng bảy ngày cuối cùng ấy, chính là những giây phút duy nhất trong đời cô có thể hàn gắn lại cuộc đời mình. Củng Thiên Nghi về thăm bố, dùng máu của mình để cứu ông. Rồi cô dành những thời gian hiếm hoi còn lại cho người con trai cô đã bỏ rơi, kết nối lại sự đồng cảm giữa cô và em gái. Khoảng thời gian ngắn ngủi biết bao nhưng có lẽ là khoảng thời gian ý nghĩa nhất, để đến giây phút cuối cùng, dùng sinh mệnh của mình để cứu con trai, cô có thể nở một nụ cười viên mãn trước khi nhắm mắt. Được kể bằng giọng văn đầy chất mê hoặc tạo dựng nên một không gian mênh mang xóa nhòa những lằn ranh giữa nhân gian, thiên đường, địa ngục, nhưng vẫn tập trung lột tả được đời sống, tâm tư của con người một cách chân thật chính là tài năng của tác giả Cát Bốc Lạc trong Bảy ngày đếm ngược. Đời người vốn ngắn ngủi, còn thời gian cứ thế trôi đi. Sống thế nào, đều do mỗi cá nhân tự chọn lựa… Qua cuộc đời của những nhân vật được thử nghiệm thông báo cái chết trước bảy ngày, mỗi người đều có cơ hội nhìn lại bản thân mình, kẻ hối hận, người hài lòng, kẻ hối hận, người mãn nguyện… đó đều là những xúc cảm rất chân thật, ai từng sống trên đời đều sẽ trải qua, không thể trốn tránh. Với cách kể truyện lồng trong truyện khiến Bảy ngày đếm ngược tựa như một chiếc gương soi, để con người soi chiếu cuộc đời mình, để có thể nhìn thấu suốt cuộc đời, cũng là thấu suốt bản thân. Sơ Tam, khi làm công việc quan sát, cuối cùng đã gặp lại ân nhân của mình trước khi anh chết. Những ngày còn sống trên nhân gian trở về sắc nét trong tâm trí anh, khiến anh càng xót xa trước sự ngắn ngủi của đời sống. Người bác sĩ tên Trâu Khoan Thủ năm nay 75 tuổi, đã dành cả đời để chữa bệnh cứu người. Cuộc đời ông đến đây là những ngày đã trọn vẹn. Ông không còn gì hối hận trên đời. Bởi thế, khi nhận được thông báo về cái chết của mình, ông dành những ngày cuối đời để ngẫm nghĩ về những chuyện quá khứ đã qua. “Cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời, khi quay đầu nhìn lại, nếu bạn vẫn có thể mỉm cười mà hồi tưởng lại quá khứ. Chứng tỏ cuộc đời này, bạn đã sống không uổng phí”. Cuộc đời của bác sĩ Trâu chính là như vậy, nhắm mắt xuôi tay, nhẹ nhàng thanh thản. Đời người vốn ngắn ngủi, còn thời gian cứ thế trôi đi. Sống thế nào, đều do mỗi cá nhân tự chọn lựa. Bảy ngày đếm ngược viết về đời người, về quá trình mà con người phải trải qua trong đoạn đời sống của chính mình nhưng được thể hiện dưới hình thức hư ảo đặc biệt, trong vùng sương khói của không gian thiên giới, hạ giới và địa phủ, tạo nên những ngữ nghĩa thâm sâu, khiến toàn bộ câu chuyện vừa có nỗi đau đớn lại cũng không thiếu những hân hoan, cảm động. Bảy ngày đếm ngược của Cát Bốc Lạc là cuốn sách đoạt giải nhất trong cuộc thi viết tiểu thuyết ngắn của Nhà xuất bản Phi Yến, Đài Loan. theo Thủy Nguyệt/Zing.vn   Mời các bạn đón đọc Bảy Ngày Đếm Ngược của tác giả Cát Bốc Lặc & Mỹ Linh (dịch) & Dinh Dinh (dịch).
Sự Tha Thứ Muộn Màng
Sự Tha Thứ Muộn Màng Maxence Van der Meersch Nguyên tác: L'Empreinte du dieu NXB: Albin Michel Dịch giả:  chưa rõ Nhà xuất bản: Lao Động - 1989 Đoạt giải Goncourt năm 1936 ​ Maxence Van der Meersch từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L’Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Maxence Van Der Meersch (1907 – 1951) là nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế kỷ XX. Tiểu thuyết "Thể xác và tâm hồn" của ông đã được giải thưởng lớn về tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Trước đó năm 1936 ông đã được nhận giải Goncourt danh giá cho tác phẩm "Dấu ấn của Chúa" (L'Empreinte du Dieu). Mời các bạn đón đọc Sự Tha Thứ Muộn Màng của tác giả Maxence Van der Meersch.
Người Cân Linh Hồn
Anh cho rằng nếu có thể hợp nhất từng nguyên tử của hai linh hồn vốn đã gắn kết sâu xa thì sẽ xuất hiện một trạng thái ưu việt hơn. Dưới bề ngoài châm biếm, James là người đa cảm. Anh hết lòng tin tưởng vào tình bạn, và tình yêu. Lần thí nghiệm duy nhất còn lại mà anh đã nói sẽ phụ thuộc vào cơ may cho anh gặp được hai con người, ngay lúc họ lâm chung, mà trong cuộc đời họ vốn đã có sự gắn kết hoàn hảo: anh sẽ cố hợp nhất họ một lần nữa khi họ chết. --- Tôi tắt đèn và không nén được tiếng kêu thảng thốt. Một khối cầu ánh sáng đang rực lên trên bệ lò sưởi với ánh hào quang phi thường. Không thể so sánh nó với bất cứ thứ gì ngoài vầng trăng rằm trên bầu trời đêm hè trong vắt, ở Hy Lạp hay phương Đông. Đó là một viên ngọc sáng ngời và trong lòng sâu là những luồng chuyển động còn rạng rỡ hơn, một thứ kim cương lỏng bốc cháy quay cuồng như một tinh vân lấp lánh. Tôi đã viết khá nhiều sách, một số là sách tiểu sử, một số là tiểu thuyết. Lạ thay, ở Pháp tôi lại có tiếng là tiểu thuyết gia trong khi ở Anh và Mỹ thì sáng tác của tôi lại ít thành công, còn sách tiểu sử lại được đón nhận tốt. Ngoại lệ duy nhất là một truyện đã xuất bản từ năm 1931 – NGƯỜI CÂN LINH HỒN. Ý tưởng của câu chuyện này, hoàn toàn hư cấu, đã nảy sinh trong Đệ nhất Thế chiến. Nhiều bằng hữu và người thân của tôi đã thiệt mạng vì chiến tranh nên việc tôi hay nghĩ đến cái chết có lẽ là điều tự nhiên. Giai đoạn ấy tôi có đọc trên một nhật báo có hai dòng tin tức về một bác sĩ điên nào đó đã cân tử thi của những người vừa lìa đời, nhưng phải rất lâu (bảy hay tám năm sau) ý tưởng truyện này mới hình thành. Rồi một hôm, ở London, tôi gặp một bác sĩ người Anh đúng ngay mẫu nhân vật mà tôi cần đến, và nhờ động lực này mà truyện được viết xong trong vòng hai tuần. Nhiều độc giả cứ tin là chuyện có thật. Ngay cả bây giờ, sau hơn 30 năm, tôi thỉnh thoảng vẫn nhận được một bức thư hay điện tín từ một nước xa xôi, hỏi rằng: “NGƯỜI CÂN LINH HỒN có thật không?” Khi viết, tôi đã dốc lòng viết sao cho câu chuyện đáng tin và thậm chí còn nhờ một bác sĩ Pháp danh tiếng thời đó, Jean Perrin, nghĩ ra cho tôi một kiểu thiết bị khoa học, một yêu cầu mà ông ấy đã thực hiện vui vẻ và chu đáo. (trích tự thuật của André Maurois cho bản dịch tiếng Anh “The Weigher Of Souls” – Macmillan 1963) *** Với “Người cân linh hồn”, tác giả Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. Tác phẩm Người cân linh hồn (nguyên tác tiếng Pháp Le peseur d’âmes) của nhà văn Pháp André Maurois, vừa được tái bản tại Việt Nam qua bản chuyển ngữ của dịch giả Đăng Thư vào tháng 12/2018. Người cân linh hồn là một câu chuyện giả tưởng, bắt nguồn từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết của bác sĩ James tại bệnh viện Saint Barnaby. Những thí nghiệm về người chết của ông được tiến hành bí mật cùng với sự theo dõi của người kể chuyện. “Sự bất tử của linh hồn” là nỗi băn khoăn của con người qua nhiều thời đại. Các ngành khoa học tâm linh đều luôn nỗ lực hết mình để tìm kiếm và lý giải những bí ẩn. Tuy vậy, linh hồn của con người thực sự tồn tại hay không, chưa ai có thể trả lời. Hình dạng của linh hồn ra sao, không ai nhìn thấy được. Theo các nhà khoa học đã nghiên cứu trước đó, “có tồn tại linh hồn, và linh hồn cân nặng 0,17 miligram”, và James cũng đã bắt đầu tiến hành cân tử thi sau khi cái chết xảy ra. Khi tiến hành cân tử thi, anh đã nhận thấy trọng lượng sụt giảm trong khoảng từ 0,75 tới 0,95 miligam. Dù tìm cách cân linh hồn, James rõ ràng không hề muốn biến linh hồn thành một thứ vật chất, “vì linh hồn kết nối với cơ thể để diễn đạt những ý nghĩa của nó, cho nên cũng có khả năng là sau khi từ bỏ cơ thể, linh hồn sẽ kết nối với nguồn năng lượng bí ẩn mà chúng ta đã nhận thấy qua hiện tượng lìa khỏi thân xác”. Sau những thí nghiệm kỳ lạ ấy, James đã thành công khi kết nối được linh hồn của hai người anh em để họ có thể ở bên cạnh nhau lâu hơn nữa sau khi chết. Chiếc lọ thủy tinh chứa đựng thứ ánh sáng lấp lánh phát ra từ việc hai linh hồn hòa quyện với nhau. Tại sao James lại khao khát muốn làm những thứ nghiệm để chứng minh sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết đến vậy? Những lớp lang ngữ nghĩa được gợi lên có thể khiến độc giả gật gù nhận ra Andre Maurois đây rồi. Dù được “hóa trang” bằng lớp vỏ giả tưởng, nhưng câu chuyện của Andre Maurois chỉ có mục đích đi sâu vào tâm tư của con người, cho con người cơ hội bộ bạch những bí ẩn của mình. James hiện ra không còn là một bác sĩ tài năng, say mê khoa học, ông còn là kẻ mị tình. James mang trong mình tình yêu si mê, tôn thờ với Hilda, cô gái Đan Mạch tuyệt đẹp. Nhưng rồi, cô ấy không còn sống trên đời bởi một tai nạn bi đát. James chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi đau đớn ấy. Anh khao khát điều gì, giá anh có thể cứu sống linh hồn của người yêu, giá anh có thể giữ mãi linh hồn của người yêu ở bên cạnh mình. Nhưng vào giây phút ấy, anh chưa tìm được cách. James khi đã là người đàn ông lớn tuổi, đã gặp gỡ Philipps xanh xao và thơ ngây. Nàng có khuôn mặt giống với Hilda, nàng là diễn viên sân khấu tài năng, nhưng ở nàng toát lên vẻ ngắn ngủi tàn lụi. Là bác sĩ, James nhận rõ đoạn đời quá ngắn của nàng, và anh đã chọn ở bên cạnh nàng cả đời. Đám cưới và hạnh phúc quá ngắn ngủi. Giữa những đoạn ấy, James đã từ bỏ nghiên cứu, dành toàn thời gian cho người vợ yếu ớt của mình. Rồi bí ẩn lại tiếp tục được hé mở khi Philipps chết, và James đã uống thuốc độc để có thể chết cùng với nàng. Tại sao? Bí ẩn đến tận giây phút cuối cùng, mới được soi tỏ. Người kể chuyện đồng thời là người bạn tri kỷ, người đã chứng kiến những thí nghiệm kỳ quái của James đã được trao lại một tâm nguyện quan trọng. Andre Maurois đã thể hiện khả năng miêu tả nội tâm sâu thẳm của con người vô cùng xuất sắc bằng ngôn ngữ thấm đẫm chất thơ mộng u sầu. Đọc Người cân linh hồn, độc giả sẽ vừa ngạc nhiên bởi cốt truyện kỳ lạ, vừa say đắm bởi những ý tứ tinh tế và đẹp đẽ được gợi lên của tâm hồn. Với Người cân linh hồn, Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. *** Tôi đã do dự rất lâu trước khi đặt bút viết lại câu chuyện này. Tôi biết chuyện sẽ khiến những ai từng thân thiết với tôi sẽ kinh ngạc, và sẽ khiến không chỉ một người khó chịu mà thôi... Một số sẽ hoài nghi thiện ý của tôi, số khác sẽ ngờ vực lương tri người viết. Chính tôi đây cũng sẽ có ý nghĩ như vậy nếu như tôi đã không ngẫu nhiên thành nhân chứng tình cờ và phản kháng những gì mà tôi sắp thuật lại. Tôi ý thức rõ sự phi lý rành rành của chúng tới mức tôi không hề kể lại chuyện đó cho những người thân thiết nhất của mình. Và nếu bây giờ tôi quyết tâm phá bỏ sự im lặng này thì lý do là tôi thấy mình không có quyền phó mặc cho vật duy nhất còn lại làm bằng chứng cho giấc mộng kỳ lạ ấy bị hủy hoại sau khi chính tôi lìa đời. Trước khi độc giả bác bỏ những lý thuyết của bác sĩ James như là điều hoàn toàn bất khả, tôi xin quý vị đừng quên một điều là tôi vốn tin mình có tâm tính cực kỳ cẩn thận. Như mọi người tôi cũng có nhiều điểm say mê và yếu kém; tôi vẫn luôn cố bảo toàn óc suy xét của mình. Trong khoa học, trong siêu hình học, trong chính trị, và ngay cả trong đời sống tình cảm, tôi luôn coi trọng việc đừng bao giờ nhầm lẫn mong muốn riêng tư với chứng cứ. Không phải lúc nào tôi cũng làm được điều đó, nhưng có lẽ tính thận trọng thường trực ấy sẽ giúp ích cho tôi bất cứ lúc nào tôi cần đến lòng tin của mọi người. Còn một lý lẽ nữa cũng ủng hộ tôi: những sự việc tôi phải thuật lại đúng là bất ngờ, nhưng bản chất của chúng thì không phải là không thể kiểm chứng. Một vài cuộc thí nghiệm đơn giản mà bất kỳ nhà vật lý, nhà sinh vật hay bác sĩ nào cũng có thể dễ dàng làm lại, sẽ cho thấy rằng các lý thuyết của James - dẫu bị coi là phi lý - cũng đều căn cứ vào quan sát thực tế. Tại sao tôi không tự mình làm tiếp những thí nghiệm này? Tại sao phải đợi khi mình đã chết rồi mới công bố chúng? Với tôi điều này không dễ giải thích. Yếu tố chính là thói nhút nhát, tôi nghĩ thế, cùng với bản tính ghét vướng bận với những chuyện rắc rối nào đó. Hoàn cảnh đã khiến tôi thành nhà văn, chứ không phải nhà khoa học. Tôi không có điều kiện tiến hành công việc ấy trong một bệnh viện hay phòng thí nghiệm. Tôi ngại tiếp xúc những người mà với họ tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, với hy vọng có thể khiến họ quan tâm đến một hiện tượng, như tôi biết, sẽ mâu thuẫn với các quan niệm của họ. Tôi ân hận vì mình đã nhu nhược, và tôi sẽ vui mừng nếu như việc công bố hồi ký này lại khơi gợi cho những trí tuệ táo bạo một khao khát tiếp bước người bạn bất hạnh của tôi trong việc thăm dò một thế giới mới, vốn hiểu biết thu thập được từ đó biết đâu lại dẫn đến nhiều kết quả có tầm quan trọng lớn lao. დღდ Tôi quen bác sĩ James trong thời chiến. Chúng tôi lần đầu gặp nhau trên một cánh đồng bùn sình xứ Flanders, và giữa một nhóm người Anh vui vẻ, mạnh khoẻ, hai gò má cao hốc hác cùng vẻ mặt đau khổ của anh lập tức tạo ấn tượng với tôi. Anh được biệt phái theo đơn vị quân y của sư đoàn mà tôi đang làm sĩ quan liên lạc cho quân Pháp. Chúng tôi lập tức thân nhau ngay, và bất kể nỗi kinh hoàng của thời gian và khung cảnh ấy, những tháng tôi sống ở Ypres Salient làm bạn cùng anh đã để lại trong tôi những kỷ niệm hầu như có thể nói là vui thú. Giữa hai chiếc giường cá nhân của chúng tôi là một thùng bánh quy dùng làm bàn và tủ sách. Buổi tối, khi tiếng đạn pháo rú trên cao bắn về hướng Poperinghe và tiếng vải lều bạt ướt đẫm quật phành phạch trong gió đã cướp mất giấc ngủ, chúng tôi lại thì thầm trò chuyện về những kẻ điên khùng và những nhà thơ. Tôi thích người bạn ấy. Dưới cái vẻ ngoài hoài nghi đó, tôi đã có lúc thoáng nhìn ra cái tâm hồn can trường và đa cảm bên trong. Anh kín đáo tới mức tôi cùng sống bên anh hàng ngày suốt nhiều tháng liền mà không hề biết anh đã có vợ con gì chưa. Chiến tranh kết thúc đã chia lìa tình bạn này, cũng như nhiều mối thân quen khác. Suốt một năm chúng tôi thư từ qua lại, và nhờ đó tôi biết James đang làm việc cho một bệnh viện ở London. Sau đó một trong hai chúng tôi (người nào thì bây giờ tôi không nhớ) đã không trả lời thư của người kia. James trở thành một hình ảnh vẫn giăng mắc trong ký ức tôi như một ảo ảnh, như một nhân vật trong tiểu thuyết. Và cuối cùng tôi thôi nghĩ đến anh, ngay cả trong mơ, cho đến mùa xuân năm 1925. Trong năm ấy tôi có dịp đi London một thời gian dài vì mấy công việc nghiên cứu ở Viện bảo tàng Anh. Tôi ở đó một mình, khá mệt mỏi và ức chế vì công việc liên miên quá nhiều. Một sáng nọ trời nắng rực rỡ tới mức tôi không có can đảm giam mình trong phòng đọc. Suốt một hai phút gì đó tôi đứng ngắm đàn bồ câu dưới hàng cột kiểu La Mã của viện bảo tàng, trông vừa thân thuộc vừa xa cách như hàng cột của Vương cung thánh đường Saint Mark. Tôi cứ đứng trầm ngâm. Thực tế đã buộc tôi phải hiểu ra là sự cô đơn này - dù khá lành mạnh trong một thời gian ngắn - giờ càng lúc càng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng tôi đâu có thiếu bạn bè người Anh - tại sao tôi không thử tìm họ đi? Những buổi tối mà gặp gỡ một anh chàng thông minh như bác sĩ James chẳng phải không thú vị sao? Tôi đã quên mất địa chỉ anh ấy, nhưng dò tìm một bác sĩ thì chẳng khó chi; và khi quay lại phòng đọc, tôi tìm ra trong cuốn danh bạ y tế có tên một ông Tiến sĩ H. B. James, là bác sĩ nội trú ở bệnh viện Saint Barnaby. Tôi quyết định gác lại công việc của sáng hôm đó, và đi tìm bạn. Bệnh viện Saint Barnaby nằm ở phía nam sông Thames, trong một khu đông dân cư chạy dài đến bên kia cầu Blackfriars. Việc băng qua con sông gần đó luôn là điều khiến tôi thấy lạ lùng và hấp dẫn. Sông Thames ở đoạn này là biên cương của hai thế giới. Ta rời khỏi London kiến trúc thời Phục hưng và Gô-tích, London của những ô vuông bàn cờ, của những bờ đê có hàng cây dưới những đại khách sạn, của dòng xe buýt màu đỏ lũ lượt, để tới một thành phố của nhà máy và kho hàng, những bức tường trần trụi, và những cột ống khói thô lỗ. Và sự tương phản sáng hôm đó càng áp đảo mạnh mẽ hơn khi tôi đang băng qua cầu thì một đám mây lớn bỗng dưng che khuất mặt trời. Mời các bạn đón đọc Người Cân Linh Hồn của tác giả André Maurois.