Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tìm Em Nơi Anh

Đây là cuốn tiếp theo sau "Gọi em bằng tên anh" (Call me by your name). Những nhân vật gặp lại, và câu chuyện nhiều năm sau, khi họ đều đã lớn tuổi hơn và có những ngã rẽ riêng trong cuộc đời mình. Tác giả chia sẻ thêm về quyết định viết tiếp câu chuyện: "Tôi vẫn luôn đau đáu về câu chuyện dang dở trong Gọi em bằng tên anh. Dù là người tạo nên các nhân vật và cuộc đời họ, tôi không thể ngờ rằng chính các nhân vật lại khiến tôi trăn trở về những xao động của tình yêu - điều mà tôi không hay biết cho đến khi hoàn thiện cuốn sách. Bộ phim điện ảnh chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết đã giúp tôi nhận ra rằng mình muốn được trở lại với Elio và Oliver và tiếp tục đồng hành với 2 con người ấy". Find Me được chia làm bốn phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo, như một bản nhạc lôi cuốn có nhịp điệu và hơi thở riêng, cùng những đoạn phóng túng ngẫu hứng nói lên tiếng lòng người chơi. Tempo Phần đầu tiên được thuật lại bởi lời của Samuel "Sami" Perlman, cha của Elio Perlman. Mười năm sau các sự kiện của Call Me By Your Name, Sami Perlman gặp một người phụ nữ trẻ tuổi tên là Miranda khi đi tàu đến Rome. Hai người nhanh chóng trở nên thân thiết và bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Trong khi ở Rome, cặp đôi đến thăm người cha ốm yếu của Miranda, tham dự một buổi thuyết trình công khai do Sami tổ chức và gặp được Elio. Cadenza Phần thứ hai được thuật lại bởi lời của Elio. Năm năm sau, Elio làm giáo viên dạy piano ở Paris. Tại một buổi hòa nhạc, anh gặp một người đàn ông lớn tuổi tên là Michel, và họ bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn. Họ đến thăm ngôi nhà thời thơ ấu của Michel ở vùng nông thôn nước Pháp, và kết thúc mối quan hệ vài tuần sau đó bởi cuối cùng, người cũ trong trái tim anh không thể thay thế. Capriccio Phần thứ ba được thuật lại bởi lời của Oliver. Vài năm sau, Oliver làm giáo sư tại một trường cao đẳng ở New Hampshire. Anh ấy đã lập gia đình và có con, nhưng trong thâm tâm lại nuôi dưỡng nỗi nhớ về khoảng thời gian anh ấy ở bên Elio khi còn là sinh viên đại học. Anh ấy đoàn tụ với Elio ở Ý, và họ kết nối lại một cách lãng mạn. Mặc dù cha của Elio đã chết, ông vẫn có một đứa con với Miranda, đặt tên theo Oliver - Ollie Nhỏ. Da Capo Phần cuối cùng được thuật lại bởi lời của Elio. Elio và Oliver lại ở cùng nhau, cùng nuôi dưỡng Ollie Nhỏ, em trai cùng cha khác mẹ của Elio. Phần kết này diễn ra không lâu sau các sự kiện trong Capriccio. *** Sau thành công của "Gọi em bằng tên anh'', André Aciman viết tiếp câu chuyện của Elio và Oliver với những ngã rẽ riêng trong đời. Nếu Gọi em bằng tên anh (tên gốc: Call Me By Your Name) để lại nhiều nuối tiếc cho mối tình giữa cậu trai 17 tuổi Elio và học giả người Mỹ Oliver thì Tìm em nơi anh (tên gốc: Find Me) như một giấc mơ với cái kết trọn vẹn mà André Aciman dành cho hai người. Cuộc đào bới hạnh phúc Có những thứ ở hiện tại chúng ta không biết sẽ trở thành kỷ niệm đến khi ta đánh mất. Kỷ niệm là thứ nuôi nấng ta khi ngày nào đó ta dạt vào một bến bờ sâu thẳm của miền ký ức. Dịu ngọt, đắng cay, dữ dội, bồng bột, cuồn cuộn hòa vào dòng chảy hiện thực nhiều đau đớn. 10 năm trước, cuộc dạo chơi cùng thần ái tình mang cả ''cậu bé đào'' Elio cùng bạch mã hoàng tử Oliver đi ngược xuôi trên dòng thời gian. Họ kiếm tìm nhau bất chấp sự nối dài phi lý về mặt thời gian để gặp nhau sau 10 năm trong Tìm em nơi anh. Hay lùi về tận 20 năm nơi quảng trường nhỏ đối diện tượng đài Piave để kể cho nhau nghe về hai thanh niên hạnh phúc biết bao trong vài tuần ngắn ngủi trong Gọi em bằng tên anh. Tìm em nơi anh được xem là phần hậu truyện, tiếp nối câu chuyện nổi tiếng trước đó và được chia làm 4 phần: Tempo, Cadenza, Capriccio và Da Capo. Mốc thời gian giữa các phần không đi theo thứ tự và cũng không tuân theo những gì đã diễn ra ở cuốn sách trước. Mỗi phần cũng được kể lại bằng lời của nhiều nhân vật. "Nhạc trưởng" André Aciman dẫn dắt độc giả vào giai điệu hạnh phúc của một giao hưởng đầy ngẫu hứng. Những cuộc đời được tái sinh từ những cuộc đời khác, hạt giống tình yêu lại một lần nữa nảy mầm sau nhiều năm ngủ đông cô độc. Đó là Samuel "Sami" Perlman - cha của Elio - đưa người đọc đến mối tình say đắm của ông. Đó là Elio 10 năm sau cuộc chia ly với Oliver nhưng vẫn không thể ngừng thương nhớ người cũ. Đó còn là Oliver dù đã kết hôn nhưng trong thâm tâm vẫn nuôi dưỡng nỗi nhớ đong đầy về quá khứ. Và cuối cùng khi họ ở cùng nhau, họ tìm thấy tâm hồn mình quay trở về tháng ngày mùa hè cuồng nhiệt ở Italy. Cuốn sách là hành trình đi tìm chất xúc tác để xảy ra phản ứng hóa học cho một Elio trưởng thành sau 10 năm và sự tỉnh thức của Oliver sau giấc ngủ vùi dưới bức bình phong mang tên gia đình. Dường như ''một nửa mùa hè, vẫn còn những dở dang'' nới rộng bằng cách xóa đi dấu chấm hết trong Gọi em bằng tên anh, tiếp tục cuộc đào bới hạnh phúc và trao đi cái kết trọn vẹn cho độc giả sau hàng năm mong đợi. Bước ra ánh sáng để tìm lại hạnh phúc Trong tiểu thuyết Đừng tự dối mình của Philippe Besson có một nhân vật từng nói về người yêu đồng giới của mình: ''Đến cuối cùng, anh ấy cũng sẽ che giấu con người mình suốt cả đời. Cho dù anh đã bỏ đi thật xa, cho dù đã có tham vọng sống một kiếp tồn tại mới, anh vẫn lại đối diện với những bản tính của anh, nỗi hổ thẹn của anh, không có khả năng yêu lâu dài. Tôi nghĩ đến những người mình đã thấy trong những dịp gặp gỡ ở hiệu sách, những người đàn ông từng thừa nhận đã tự dối mình, đã sống dối gian từ rất nhiều, rất nhiều năm qua, trước khi chấp nhận sống vui vẻ, trước khi rời bỏ tất cả để bắt đầu lại từ đầu (những người đàn ông ấy sẽ tự nhận ra khi đọc những dòng này). Họ đã không có dũng khí''. Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở tiểu thuyết Gọi em bằng tên anh thì tác giả André Aciman và Philippe Besson giao nhau ở cùng một điểm khi xây dựng nên một nhân vật đồng tính. Oliver của André Aciman chính là đại diện cho rất nhiều người đồng tính ngoài xã hội, ẩn mình và giấu đi giới tính thật của mình khi họ lấy việc lập gia đình, sinh con đẻ cái là tấm khiên che chắn sự kỳ thị của xã hội. Tìm em nơi anh chính là liều thuốc xoa dịu khi tác giả viết tiếp một đoạn kết hạnh phúc cho một dấu chấm hết đầy phũ phàng của những mối tình đồng tính. Là sự an ủi cho cậu bé Elio năm nào dám sống thật với giới tính của mình và cũng chính là sự cứu chuộc sau những lần đớn hèn trong quá khứ, không dám đối mặt và nắm bắt hạnh phúc của Oliver. Độc giả có thể tiếp cận tiểu thuyết Tìm em nơi anh bằng một hướng mới khi xem phần hậu truyện này hoàn toàn độc lập với câu chuyện trước đó. Bắt đầu bằng câu chuyện của ông Samuel Perman khi phải lòng một cô gái trẻ, như một dấu gạch nối để tiếp tục với chuyện tình của chàng nhạc công Elio cùng người đàn ông lớn tuổi và kết bằng việc quay về mối tình đầu của Elio và Oliver. Dù tiếp cận bằng cách nào đi nữa, câu chuyện của André Aciman luôn tập trung vào thấu hiểu và cảm thông. Bước ra ánh sáng để đi tìm hạnh phúc của người đồng tính chưa bao giờ dễ dàng dù ở thời đại nào. André Aciman đã viết phần hậu truyện không chỉ làm hài lòng độc giả với một cái kết đẹp cho cuộc tình của Elio và Oliver mà ông còn mang lại một khoảng lặng, một thập kỷ của đời người để nhận ra hạnh phúc đích thực từ những sai lầm tuổi trẻ. *** André Aciman   Sinh ngày 2 tháng 1 năm 1951) là một nhà văn người Mỹ. Sinh ra và lớn lên ở Alexandria, Ai Cập, ông hiện là giáo sư nổi tiếng tại Đại học Trung tâm Đại học Thành phố New York, nơi ông dạy lịch sử của các lý thuyết văn học và các tác phẩm của Marcel Proust.Aciman trước đây đã từng dạy viết văn bản sáng tạo tại Đại học New York và văn học Pháp tại Princeton và Bard College. Năm 2009, ông là nhà văn đặc biệt tại Đại học Wesley. Ông là tác giả của một số tiểu thuyết, bao gồm cả Call Me by Your Name (chiến thắng trong hạng mục Gay Fiction tại Lambda Literary Award 2007) và một hồi ký năm 1995, Out of Egypt, đoạt giải Whiting Award. Mặc dù ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Call Me by Your Name, nhưng Aciman đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019, cuốn sách hay nhất của ông là cuốn tiểu thuyết Eight White Nights. *** Sao cau có vậy? Tôi nhìn em lên tàu ở ga Florence. Em mở cửa và, khi đã vào trong khoang tàu, nhìn quanh một vòng, ném chiếc ba lô vào chỗ ngồi còn trống cạnh tôi. Em cởi chiếc áo khoác da, đặt xuống quyển sách bìa mềm đang đọc dở, cất một chiếc hộp vuông màu trắng lên học hành lý rồi ngồi phịch xuống chỗ ngồi chéo với tôi, vẻ bồn chồn cáu kỉnh. Dáng vẻ ấy như thể em vừa mới cãi nhau nảy lửa vài phút trước khi rời đi và vẫn giận dỗi bởi những lời lẽ đắng cay mà chính em hoặc người kia thốt ra trước khi cúp máy. Chú cún của em, bị kẹp giữa hai mắt cá chân cùng một sợi dây buộc đỏ quấn quanh tay chủ, dường như cũng bồn chồn chẳng kém. “Buona, ngoan nào bé,” cuối cùng em lên tiếng, mong làm nó bình tĩnh, “buona, ngoan,” nó vẫn ngọ nguậy cố chui ra khỏi vòng kìm kẹp. Sự hiện diện của nó khiến tôi thấy phiền, và bất giác tôi khước từ chuyện bỏ chân xuống hoặc nhích ra để nhường chỗ cho nó. Nhưng em có vẻ chẳng bận tâm tới tôi hay cử chỉ từ chối ấy. Thay vì vậy, em lục tìm trong ba lô ra một chiếc túi nhựa mỏng, lấy ra hai cái bánh nhỏ xíu hình xương cho chú cún, đặt lên lòng bàn tay và xem nó liếm hết. “Brava, giỏi lắm.” Con chó dịu xuống trong chốc lát, em hơi nhổm người lên để chỉnh áo, sửa thế ngồi một hai lần, rồi rơi vào một kiểu ngẩn ngơ buồn bã, nhìn chằm chằm ra khung cảnh Florence khi tàu bắt đầu rời khỏi ga Santa Maria Novella. Em vẫn giận, và có lẽ trong vô thức, em lắc đầu, một lần, hai lần, rõ ràng đang rủa cái người khiến em bực tức trước khi đi. Trong thoáng chốc em mang vẻ tuyệt vọng đến cùng cực đến nỗi dù đang chú mục vào quyển sách trước mặt, tôi bắt gặp bản thân mình đang cố nghĩ ra điều gì đó để gợi chuyện, để giá có thể giúp dịu lại cơn bão đang chực chờ dâng trào trong cái góc nhỏ bé tít gần cuối toa này. Rồi tôi lại đổi ý. Nên để người ta yên và quay lại việc đọc của mình thì hơn. Nhưng khi tôi bắt gặp em cũng đang nhìn mình, chẳng ngừng được, tôi buột hỏi: “Sao cau có vậy?” Chỉ đến khi nói ra rồi tôi mới nhận ra câu hỏi ấy hoàn toàn không phù hợp để hỏi người lạ trên tàu, nhất là một người có vẻ sẵn sàng bốc hỏa trước sự trêu ngươi nhỏ nhất. Em nhìn tôi với vẻ lúng túng và hằn học hiện lên trong mắt, báo hiệu trang ngôn từ sắp xổ ra nhắc tôi nhớ lấy vị trí của mình. Lo thân mình đi lão già. Hoặc: Liên quan tới ông sao? Hoặc bĩu môi: Đồ khốn! “Không, không cau có, chỉ nghĩ ngợi thôi,” em bảo. Tôi giật mình bởi sự nhẹ nhàng, gần như hối tiếc trong giọng điệu em nói, nếu em bảo tôi cút xéo đi thì tôi còn thấy ít bất ngờ hơn. “Chắc là nghĩ ngợi khiến tôi trông thế.” “Kể cả khi cô nghĩ điều vui à?” “Không, khi vui thì khác,” em trả lời. Tôi mỉm cười nhưng không nói gì thêm, cảm thấy hối hận với câu đùa nông cạn và hợm hĩnh vừa rồi. “Nhưng chắc dù sao cũng vẫn hay cau có,” em nói thêm, chấp nhận với một điệu cười đầu hàng. Tôi tỏ lời xin lỗi vì nói năng khiếm nhã. “Không sao,” em bảo, nhìn ngắm phong cảnh miền quê bắt đầu trải ra bên ngoài cửa sổ. Vậy cô là người Mỹ đúng chứ, tôi hỏi. Đúng là thế. “Tôi cũng vậy,” tôi nói. “Nghe giọng ông là tôi nhận ra ngay,” em mỉm cười. Tôi giải thích rằng mình đã sống ở Italy gần ba mươi năm rồi, nhưng chắc có cả đời cũng chẳng thể mất đi giọng bản xứ. Rồi tôi hỏi, em bảo đã chuyển tới đây cùng cha mẹ từ khi mười hai. Chúng tôi đều đang đi Rome. “Công việc à?” tôi hỏi. “Không, không phải công việc. Thăm cha tôi. Ông không khỏe.” Rồi, ngước mắt lên nhìn tôi: “Nên mới cau có, chắc vậy.” “Nghiêm trọng không?” “Tôi nghĩ là có.” “Tôi rất tiếc,” tôi bảo. Em chỉ nhún vai. “Đời mà!” Và rồi, đổi tông giọng: “Thế còn ông? Công việc là hay đi thăm thú?” Tôi cười bởi câu hỏi nhại và nói tôi được mời đến để làm buổi đọc sách cho sinh viên đại học. Nhưng tôi cũng ghé thăm con trai mình, nó sống ở Rome và lát sẽ đón tôi ở ga. “Hẳn là một cậu bé ngoan.” Mời các bạn đón đọc Tìm Em của tác giả André Aciman.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Ly Háo Sắc
Giới thiệu: – Sách xuất bản: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết. Lệnh cho Nhị Công chúa Tô quốc đến Nam triều địch quốc giết Thái tử Tần Liễm.” “Giết Thái tử, giết thế nào???” Tô Hi mờ mịt hỏi. “Nhị Công chúa người dáng dấp không tệ, cầm kỳ thi họa cũng thông, có thể lợi dụng mỹ mạo…” Tô Hi thuận lợi gả cho Thái tử Nam triều Tần Liễm, vốn tưởng rằng có thể giả heo ăn thịt hổ, ai ngờ Tần Liễm phúc hắc như một con hồ ly xảo quyệt, áp chế và phản kháng, đùa bỡn và bị đùa bỡn… Tại đông cung sắc xuân dạt dào, mỗi ngày đều diễn ra tiết mục heo bị hồ ly ăn, Tô Hi à Tô Hi, lần này hoàn toàn trốn không thoát, chỉ đành chờ hoa lê thấm hạt mưa cầu xin tha thứ thôi! Nhưng quân cờ tóm lại vẫn là quân cờ, sẽ có ngày bị vứt bỏ. “Tần Liễm, nếu có một ngày ta rời xa chàng, chàng sẽ làm sao?” Tần Liễm bình tĩnh nói: “Thiên hạ đều là của ta, nàng có thể đi đâu? Đi rồi bắt trở lại, càng bắt nạt thậm tệ hơn.” – Tấn Giang: Ta vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng, ta sẽ thích Tần Liễm. Nhưng mà, đến lúc ta thích hắn, lại cũng là lúc ta phải rời khỏi hắn. Tỷ tỷ Tô Tư từng nói, nếu muội không muốn khổ sở vì một người, biện pháp đầu tiên là quên, biện pháp thứ hai là chết trước hắn. Nói tóm lại, đây là một câu chuyện mỹ nhân giả heo ăn thịt hổ. GHI CHÚ: Tác giả bảo HE, còn lại tuỳ vào cách nhìn độc giả  *** Thật ra REVIEW đã viết đc hơn phân nửa, nhưng cuối cùng lại ko đăng vì hình như nó… spoil gần hết truyện.Vì truyện ko phải giật gân kịch tính gì nên thôi, cũng ko nhất thiết phải nói nhiều, vì 2 cái văn án trên đã nói rõ hết rồi. Tính ra thì mình rất kén truyện viết ngôi 1, vì thường những truyện này mình rất khó nắm bắt diễn biến tâm lý nam chính. Hơn nữa mình ít khi edit truyện hài, vì mình rất sợ… hài nhảm. Rất nhiều bộ ngôn tình tràn lan bây giờ đều hài theo kiểu vớ vẩn, chỉ nghe tên là mình đã muốn drop chứ đừng nói là đọc. Nhưng sau khi vòng vèo mấy hồi thì mình cũng quyết định edit bộ này, vì nhiều lý do sau đây. - Nam chính – Tần Liễm là 1 con đại hồ ly, vô cùng phúc hắc, nữ chính ko có cơ hội phản kháng. Nữ chính – Tô Hi tuyệt đối ko phải tiểu bạch, nhưng lớn lên trong 1 hoàn cảnh ko đc sáng sủa mấy thì bản tình bị chèn ép cũng đc tạo nên. Vì sao ko đc sáng sủa, là vì bên cạnh cô nàng trước khi gặp nam chính còn có 1 con đại hồ ly khác. Cuộc đời nữ chính có thể tóm gọn như sau: Con mồi ko tự sinh ra cũng ko tự mất đi, nó chỉ chuyền từ tay con hồ ly này sang con hồ ly khác. - Thường khi đọc truyện, có 1 loại nam phụ mà nam chính luôn phải dè chừng, cái loại nam phụ này thường ko xơ múi đc gì, nhưng lại có sức đe dọa ko hề nhỏ với nam chính, là ai? Anh trai nữ chính – Tô Khải, con hồ ly còn lại. Thật ra trong bộ này, ng` đc lòng dân tình nhất ko phải nam chính, mà chính là Tô Khải. Bao nhiêu năm sống dưới sự chèn ép của ông anh này, tiền đồ nữ chính có thể nói là hoàn toàn ko còn hy vọng Mình dạo thử 1 vòng trên Tấn Giang, rất nhiều độc giả đã kêu gào tác giả vì sao ko viết… huynh muội luyến?  Hoặc là viết hẳn 1 bộ cho anh chàng này. Nói chung là #team_Tô_Khải hơi đông & hùng hậu. Chàng ta đáng yêu thế nào ư? Xin mời theo dõi truyện để biết thêm chi tiết lxhtouxiao_thumb Đặc biệt đừng bỏ lỡ những màn đấu khẩu “mạt cưa mướp đắng” của anh vợ – Tô Khải & em rể – Tần Liễm. - Về nội dung thì từ văn án có thể hình dung đc rồi Tuy rằng đây là truyện hài, nhưng vẫn có những đoạn u ám nặng nề do gánh nặng giang sơn. Với Tần Liễm và Tô Hi, ai trong 2 người họ yêu đối phương trước thì sẽ thua cuộc. Đứng trước chữ tình và chữ quốc, cả 2 đều chọn lối đi khác nhau cho mình. Có người đáng trách, có người đáng thương, nhưng số phận bọn họ sinh ra đã thế. Cả 2 đều là người lớn lên trong gia đình bậc đế vương, trước sau đều ko thể vẹn toàn. Như tác giả bảo HE, thì các bạn cứ có niềm tin là HE. Trọn vẹn hay ko sẽ tùy vào cách nhìn của độc giả. Nhưng nếu bạn là độc giả thân quen với những bộ edit trước của mình thì có thể lờ mờ suy đoán đc phong cách kết thúc mình khoái (vì khoái nên mới edit, nhể? ) Có 1 câu trong văn án thế này: “Tỷ tỷ Tô Tư từng nói, nếu muội không muốn khổ sở vì một người, biện pháp đầu tiên là quên, biện pháp thứ hai là chết trước hắn.” Nói để cho các bạn độc giả chuẩn bị tinh thần trước. Đây chính là hướng đi của truyện, đi hướng nào, truyện sẽ từ từ giải đáp. gza_thumb - Cá nhân mình đánh giá cao truyện này vì cách tác giả xây dựng mối quan hệ huyết thống trong tuyện. Trong truyện này, thật ra chẳng có nhân vật phụ nào đáng ghét cả. Dù cả 2 bên chiến tuyến đều là những người sinh ra trong gia đình đế vương, đều có những quyết định thân bất do kỷ nhưng nam chính có dàn anh trai rất dễ thương. Và nữ chính thì có 1 ông anh trai & 1 bà chị biến thái chả kém (2 người này có cách thương em gái út rất… dị, làm anh nam chính trầy trật lên xuống mấy bận heia_thumb, đặc biệt là ông anh, trấn lột đàn áp em gái thế chứ có thằng khác nhảy vào cuỗm đi là xù lông ngay. - 1 vài vấn đề ngoài lề: Bộ này có 1 mẩu truyện ngắn nhỏ đã đc đăng trên DĐLQĐ, có thể tóm gọn sự lưu manh vô sỉ của bạn Tần Liễm. Và còn chuyện anh ấy sạch hay ko, e hèm, nói thật là bình thường mình chả quan tâm vấn đề này, vì truyện mình edit chưa anh nào sạch cả & bạn Tần Liễm này là ngoại lệ đầu tiên. Mình chỉ đang cứu vớt hình tượng của anh ấy thôi, vì dự báo #Team_Tô_Khải sẽ rất hùng hậu. P/S: Vì truyện viết theo giọng hài, cho nên những đoạn tưởng chừng như bi kịch lại ko hề thấy buồn, mà có 1 chút cảm giác thanh thản Vì đc viết đan xen quá khứ & hiện tại nên nhiều đoạn hơi khó nắm bắt, nhưng nhìn chung mạch truyện thế với mình là ổn. Tác giả sáng tác bộ này từ 2011, đăng dần trên mạng đến tận 2014 (xuất bản vào tháng 5.2014), bìa truyện khá dễ thương nên cũng ko nặng nề quá đâu. Mời các bạn đón đọc Hồ Ly Háo Sắc của tác giả Chiết Hỏa Nhất Hạ.
Người Trong Đêm Hè
Người Trong Đêm Hè là cuốn tiểu thuyết đã góp phần đưa giải Nobel Văn học năm 1939 về cho Frans Emil Sillanpää và về cho đất nước Phần Lan. Chính Sillanpää đã gọi "đứa con tinh thần" này là "chuỗi thơ mang tính tự sự" bởi sự đan kết tự nhiên giữa bốn mươi tám văn khúc tả cảnh, đối thoại, độc thoại, có lúc đầy kịch tính, khi lại man mác, nên thơ. Tuy là một tác phẩm ngắn trong địa hạt tiểu thuyết, Người trong đêm hè vẫn dựng được tuyến nhân vật phong phú và sinh động. Trước hết, Sillanpää dành nhiều trang viết cho những phụ nữ ở miền quê: cô thiếu nữ Helka đang trải qua quãng đời thanh xuân yên bình; còn hai người vợ - Hilja và Santra - mỗi người đối diện với một hoàn cảnh, đeo nặng một tâm tư. Song hành cùng các nhân vật nữ, dĩ nhiên, là bóng hình những người đàn ông: chàng sinh viên Arvid hào hoa (bạn trai Helka); anh nông dân Jalmari ngu ngơ, vụng về (chồng Hilja); Jukka - người chồng thờ ơ của Santra. Họ cùng xuất hiện trên nền bối cảnh điền trang, một không gian tưởng chừng đơn sơ, yên ả song lại làm nảy lên bức tranh nội tâm sâu kín, đa chiều. *** Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo Hämeenkyrö. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học Tampere, 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào Đại học Helsinki, ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời), in năm 1916. Năm 1919, tiểu thuyết Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao) đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà văn danh tiếng, khiến một nhà xuất bản nổi tiếng đề nghị ông viết sách cho họ và sẵn sàng ứng tiền để ông chuyên tâm vào công việc; từ năm 1920 ông được chính phủ Phần Lan trao một khoản trợ cấp trọn đời. Tiểu thuyết đỉnh cao giúp ông đoạt giải Nobel năm 1939 là Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ), kể về số phận bi thảm của những gia đình nông dân Phần Lan bị những mối quan hệ tư bản thâm nhập vào nông thôn tàn phá. Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật. Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được Đại học Helsinki trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi ký gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956. Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân Phần Lan yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở Helsinki năm 66 tuổi. Tác phẩm: Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời, 1916), tiểu thuyết Ihmislapsia elämän saatossa (Những con người trong đường đời,1917), tập truyện Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao, 1919), tiểu thuyết Rakas isänmaani (Tổ quốc yêu dấu, 1919), tiểu thuyết Hiltu ja Ragnar (Hiltu và Ragnar, 1923), tiểu thuyết Enkelten suojatit (Sự bảo trợ của các thiên thần, 1923), tiểu thuyết Omistani ja omilleni (Về chính tôi và cho chính tôi, 1924), tiểu thuyết Maan tasalta (Từ độ cao của Trái Đất, 1924), tiểu thuyết Töllinmäki (Ngọn đồi ổ chuột, 1925), tiểu thuyết Rippi (Xưng tội, 1928), tiểu thuyết Kiitos hetkistä, Herra... (Cảm ơn Chúa đến đúng lúc..., 1930), tiểu thuyết Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ, 1931), tiểu thuyết Miehen tie (Con đường của người đàn ông, 1932), tiểu thuyết Virran pohjalta (Dưới đáy sông, 1933), tiểu thuyết Ihmiset suviyössä (Người trong đêm hè, 1934), tiểu thuyết Viidestoista (Thứ mười lăm, 1936), tiểu thuyết Elokuu (Tháng Tám, 1944), tiểu thuyết Ihmiselon ihanuus ja kurjuus (Hạnh phúc và đau khổ của đời người, 1945), tiểu thuyết Poika eli elämäänsä (Cậu bé đã sống cuộc đời mình, 1953), hồi ký Kerron ja kuvailen (Tôi kể chuyện và tôi mô tả, 1954), hồi kí Päiva korkeimmillaan (Ngày cực điểm, 1956), hồi kí *** Review SP: Tác phẩm văn học “Người trong đêm hè” – bản giao hưởng cho mùa hạ trắng Phương Bắc.Tiểu thuyết cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng. “Mùa Hè phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng Hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violon xen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó” trích Tiểu thuyết, tác phẩm văn học, “Người trong đêm Hè” của Frans Emil Sillanpää, (người dịch: Tiến sĩ Bùi Việt Hoa) Tiểu thuyết hay còn được gọi là “chuỗi thơ mang tính tự sự” với 48 bài văn dài ngắn khác nhau của nhà văn Frans Emil Sillanpää (1888 – 1964) cùng với những sáng tác trước đó đã đem giải Nobel văn học đầu tiên vào năm 1939 và cho đến giờ vẫn là giải Nobel duy nhất của Phần Lan. Mùa Hè, tháng Bảy ở Phần Lan, đất nước Cực Bắc của châu Âu, gần như không có đêm nên thường được gọi là mùa hạ trắng với những đêm trắng khi mặt trời gần như không ngủ và thiên nhiên được miêu tả đẹp như tranh vẽ. Tại vùng nông thôn, thiên nhiên êm đềm, không gian tĩnh lặng, trong lành, cũng có nhiều người không ngủ với nhiều lí do khác nhau. Có những lí do rất đẹp và lãng mạn như khi đôi lứa yêu nhau, cô gái mải suy tư mà không dỗ được giấc ngủ, có người mải chèo thuyền trên hồ và đi ngắm nghía đất đai, người đi dự tiệc đính hôn, người trò chuyện, khiêu vũ, người trở dạ sinh con, và có cả những thương đau như đứa trẻ không được chào đời hay người đàn ông mắc tội giết người, người chồng đi không trở về … Người kể chuyện, kể về các cảnh khác nhau với những giọng điệu khác nhau từ trẻ tới già, từ giàu tới nghèo, từ người không có học đến người học thức, có cả mặt tốt và mặt xấu. Ngôn ngữ của tác giả rất chân thật, biểu cảm và giàu chất thơ ngay từ những đoạn văn khởi đầu của cuốn tiểu thuyết mini đã tạo nên một tấm gương phản chiếu đời sống nông thôn điển hình của Phần Lan những năm 30’ nơi thiên nhiên và con người gần như hòa làm một, nơi mọi hoạt động đều chứa đựng nhiều xúc cảm, nơi trong sinh, yêu và tử có đan xen trong niềm vui, nỗi đau, sự trăn trở, tiếc nuối, những khát khao giới tính kỳ lạ… ”Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong Người trong đêm Hè thiên nhiên mới là nhân vật trung tâm xuyên suốt tiểu thuyết. Ánh sáng và âm thanh, mặt trời và đêm trắng, cánh đồng lúa, rừng cây, mặt hồ nước, trang viên… một vùng quê với đủ mọi thăng trầm và cuộc sống của những người dân đủ mọi tầng lớp trong ánh sáng mờ ảo của đêm Hè hiện lên thật hoàn hảo dưới ngòi bút của Sillanpää. Đây là tác phẩm văn xuôi mang tính trữ tình đậm đặc nhất, nhiều tính nhạc nhất của nhà văn”. Dịch giả Bùi Việt Hoa, người đã có nhiều năm sống và làm việc ở Phần Lan, nghiên cứu văn hóa và văn học Phần Lan, cho biết. Tác phẩm văn học không chỉ đem đến những áng văn tả cảnh tuyệt đẹp, những câu chuyện đời sinh động, chân thực mà còn nêu ra những triết lý vô cùng đơn sơ mà sâu sắc: “Trên thế gian này ai cũng có lúc nghĩ họ đau khổ nhất trần gian – khi không nghĩ đến người khác, mà chỉ chăm chăm nghĩ về mình”. Chỉ một năm sau khi ra đời, tác phẩm văn học Người trong đêm Hè đã được dịch và xuất bản ở Thụy Điển năm 1935 và hai năm tiếp theo được dịch và xuất bản ở Estonia (1936), Đan Mạch (1937), Na Uy (1937) và Latvia (1937), Anh (1966). Cho đến nay, tiểu thuyết này đã được dịch ra 17 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1948 và nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng.   Mời các bạn đón đọc Người Trong Đêm Hè của tác giả Frans Emil Sillanpää.
Trốn Thoát Khỏi Thực Tại
Review Doan Truc: Những bà nội trợ kiểu Nhật, những cô nàng thất nghiệp Nhàn rỗi một cách quá đáng, những người đàn bà rớt lại và bị bỏ quên giữa xứ Phù Tang đương đại. Họ đi vào trang viết của Fumio Yamamoto với một khuôn dáng cô đơn, nhiều tự sự. Tôi luôn có một cảm giác bị mắc lại ở một nơi nào đó trong thế giới văn chương của Fumio Yamamoto. Từ Bến bờ thơm mùi dứa, Trúng độc yêu, Xanh màu lá,… cho tới tập truyện ngắn mới nhất Trốn thoát khỏi thực tại. Thứ cảm xúc vừa rõ ràng vừa mơ hồ này đôi khi đầy lên thành một ám ảnh không hồi kết. Fumio Yamamoto đã lưu trữ mình một cách không rõ ràng như thế. Và có lẽ, vì không thể nói ra hết được tư cảm đang đầy lên này nên bà dồn hết vào chữ nghĩa. “Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”, đó gần như là một diễn đạt khác về văn chương của người đàn bà ở xứ mặt trời mọc. Văn Fumio Yamamoto không phải là thứ văn mỹ miều của những đường chữ đẹp, thơ mộng. Bà cũng không phải thuộc típ nhà văn nữ quyền để thỉnh thoảng gây hấn hoặc gây sốc. Văn mạch của bà điềm nhiên, có chỗ tỉnh queo, lúc lại sắc lạnh, thậm chí hơi gắt với nhiều câu trần thuật mộc mạc, ngắn gọn. Trong đó, có cảm giác, tác giả vừa muốn đi đến cùng để cắt nghĩa vùng u ám đó, lại như mặc kệ để nó diễn ra theo quy luật của “phi tiểu thuyết” hay những “tiểu tự sự” nhỏ vụn. Để rồi tất cả trống huơ hoắc trong một thế giới cô đơn, ít thấu hiểu và rời rạc. Để rồi, ở đó, những tự sự chồng lên nhau, lặp đi lặp lại một cách tầm thường, mòn vẹt và chán nản. Hakura, cô gái mắc bệnh ung thư vú, tự xem mình có dáng dấp của đồ cặn bã, lười nhác, sống tầm gửi, tâm lý bất định, đầy nhạy cảm, chán nản và nếu có kiếp sau, cô muốn làm một con giun dẹp bởi “giun dẹp sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu, có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết”. Izumi, người phụ nữ ngấp nhé tuổi 35, trải qua một đời chồng, đang sống trong một chung cư cũ kỹ và rơi vào khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, hay sầu muộn vô cớ, nhàn rỗi đến lạc lõng, không còn khái niệm thời gian rõ ràng, có thể làm tình và thỏa mãn ham muốn nhục dục với một cậu đồng nghiệp cũ kém cả tuổi mình. Catherine, một bà nội trợ đúng nghĩa, có người chồng vừa bị mất việc nên ngoài công việc nhà ban ngày, cô làm nhân viên bán hàng cho một tiệm tạp hóa buổi tối để kiếm thêm tiền. Cuộc sống của cô cứ như một mớ bòng bong, quanh đi quẩn lại vì chồng, con cái, bố mẹ; lắm lúc mỏi mệt, khủng hoảng, cô đơn và trơ trọi ngay trong mái ấm gia đình mình. Mido, cô gái trẻ 25 tuổi rơi vào “thế lưỡng nan của tù nhân”, đã có người yêu hơn 7 năm nhưng vẫn ngủ với những người đàn ông khác. Ngày ngày trôi trong nhịp sống tùy tiện, không buồn không vui, nhiều hồ nghi và vô nghĩa của mình. …Cứ thế, mỗi nhân vật của Fumio Yamamoto là một phần nứt toác của vỏ đương đại có vẻ bằng phẳng, đẹp đẽ đó. Họ là những con người đáng thương bị rớt lại trong đời sống nhộn nhạo, trôi tuột này. Những con người ấy từng xót thương cho người khác nhưng rồi chính họ, cũng không biết từ bao giờ, lại bước vào hoàn cảnh tương tự. Và bao nhiễu nhương, tù đọng và cô đơn vây bủa đó làm họ thỏa hiệp, thây kệ rồi trở nên nhàm chán, chết dần chết mòn. Và lửng lơ, và ám ảnh… Qua những mẩu chuyện nhỏ của những con người không liên quan đến nhau ấy, Fumio Yamamoto đã vẽ nốt những vệt màu còn khiếm khuyết trong bức tranh Nhật Bản hiện đại bằng ngôn ngữ. Một vệt màu trầm cảm triền miên. Một “sự tự sát” từ những vô định không có lời đáp. Bà đưa những người phụ nữ nhỏ bé, những người sống bên rìa xã hội vào vị trí trung tâm và để họ kể những câu chuyện của riêng mình. Kế thừa đặc điểm truyền thống của văn học Nhật nên không quá ngạc nhiên khi văn của Fumio Yamamoto mang đậm tính nữ. Bà đi vào ngóc ngách tâm lý li ti của phụ nữ bằng trải nghiệm và sự đồng cảm của một trái tim nhiều thổn thức. Bà để nhân vật nói những tiếng nói tự do nhất mà trong đời sống đôi lúc họ không có quyền lên tiếng hoặc chán phải lên tiếng. Bà tham dự vào những câu chuyện đó như một người có mặt và vắng mặt. Để rồi, mảng hiện thực của đời sống vừa quen vừa lạ ấy khoét vào ta những vết thương tỉnh thức, về một băn khoăn, bối rối đương đại. Cho đến khi gấp cuốn sách lại, tôi vẫn còn nguyên đó một lưỡng lự. Sự dở dang khó hiểu này rốt cuộc là gì? Vẫn còn một điều mơ hồ nào đó, tôi chưa hiểu lắm. Có khi nào, đó là những điều Fumio Yamamoto không muốn người khác chạm vào chăng? Hay thực ra, nó cũng trống rỗng hết thảy – như những nhân vật của bà cất tiếng. Nó khiến tôi bỗng dưng nhớ đến Woman in the Dunes (tạm dịch: Người đàn bà trong cồn cát) của đạo diễn Nhật sinh năm 1964 – Hiroshi Teshigahara – viên ngọc quý của lịch sử điện ảnh thế giới, sinh muộn hơn bà hai năm. Yamamoto ẩn mình trong “cồn cát” ngôn ngữ để nói về thế giới nội tâm sâu thẳm của người Nhật Bản hôm nay nói riêng và những người phụ nữ đâu đó trên khắp thế giới này. “Vì không nói ra được nên đã mang một nỗi buồn ảm đạm. Tôi ảm đạm vì không thể nói cười”. Năm 1999, Yamamoto đã vinh dự nhận được giải thưởng văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc và hiện là một trong những nhà văn đương đại có tác phẩm được đón chờ không chỉ trong phạm vi nước Nhật. *** Fumio Yamamoto sinh năm 1962 ở Kanagawa, là tiểu thuyết gia đương đại nổi tiếng của Nhật Bản. Với giọng văn mộc mạc, sâu lắng và cũng đầy trải nghiệm, các tác phẩm của bà nhanh chóng nhận được sự yêu thích của độc giả trong và ngoài nước, có thể kể đến như "Bến bờ thơm mùi dứa", "Anh chắc chắn sẽ khóc", "Trúng độc yêu", "Không phải nơi khác mà ở ngay đây"… Năm 1999 bà đã vinh dự nhận được giải tương văn học Yoshikawa Eiji lần thứ 20 dành cho các tác phẩm mới xuất sắc. ”…Một mình lái xe trên đường quốc lộ giữa đêm khuya, tuy biết là uổng công vô ích, nhưng tôi vẫn hướng lên những vì sao và cầu nguyện: “Kiếp sau, xin hãy để tôi được làm giun dẹp.”   Tác phẩm: Xanh Một Màu Xanh Khác Trốn Thoát Khỏi Thực Tại 31 Tuổi Thì Đã Làm Sao? Trúng Độc Yêu .... *** Kiếp sau mình phải làm giun dẹp! Tôi buột miệng khi đang tán gẫu bên bàn rượu. Mọi người cũng tò mò nhìn sang. Ngồi cùng mâm rượu là ba người bạn: hai gái một trai quen từ hồi làm thêm, tuổi đều nhỏ hơn tôi, ngoài ra còn bạn trai tôi ngồi bên cạnh. “Giun dẹp là cái giống gì vậy?” “À, tớ biết rồi. Nó dạt theo những dòng chảy dưới núi băng, đáng yêu như một thiên thần nhỏ, đúng không?” “Đích thị là thiên thần biển khơi rồi.” Mọi người thi nhau nói. Tôi lắc nhẹ ly rượu whisky Four Roses của mình, chậm rãi ngắt lời bọn họ. “Không, không đúng. Giun dẹp cũng có kích thước tương đương nhưng nó không sống dưới biển, mà sống trong khe suối trong vắt nơi rừng sâu.” “Hả?” Cả ba người bạn đồng thanh kêu lên. Những câu chuyện đại loại như vậy bạn trai tôi đã nghe quen, nên chỉ ngồi lặng thinh nhấm nháp chút đồ nhắm còn sót lại. “Trước đây tớ đã thấy ở trên tivi. Nó bám vào những tảng đá dưới khe suối, hoặc những mương nước trên cánh đồng không bị phun thuốc trừ sâu, dài khoảng một phân, màu nâu, nhìn rất giống con đỉa. Đầu của nó có hình tam giác, nếu quan sát kỹ sẽ thấy, có chút dáng dấp của đồ cặn bã.” Sao lại giống đồ cặn bã cơ chứ? Mọi người vừa cười vừa hỏi. Tôi uống cạn ly của mình và gọi thêm ly nữa. Sau gần ba tiếng đồng hồ, hai cô gái và bạn trai tôi không uống được nữa, mà chuyển sang gọi trà ô long. “Sao cậu lại muốn biến thành thứ đó hả Hakura?” Cậu bạn nồng nặc mùi rượu lên tiếng. Tôi chuẩn bị trả lời, thì một cô gái trong nhóm nhanh nhảu đáp: “Hình như tớ biết đấy. Loài sinh vật này chỉ cần được bơi lội tung tăng dưới làn nước trong xanh mà chẳng cần bận tâm bất cứ điều gì.” “Gì chứ? Tớ ghét mấy thứ kiểu như đỉa hoặc bao quy đầu, kiếp sau được đầu thai làm siêu mẫu thì tốt biết mấy.” “Toàn là gái nhà lành với nhau, đừng bao giờ nhắc tới mấy-thứ-ấy chứ!” Câu chuyện bắt đầu lan man, tôi cụt hứng và cố tình hắng giọng: “Giun dẹp dù có bị băm thành trăm mảnh cũng sẽ không chết.” Mọi người nhìn tôi đầy kinh ngạc. “Nghe nói, nếu chặt thành ba khúc, tự khắc nó sẽ tái sinh thành ba con, mà đừng nói ba con, dù chặt thành mười khúc, nó cũng sẽ giống đuôi thằn lằn tiếp tục sinh sôi, biến thành mười con.” Cách giải thích ngang ngược và ấu trĩ của tôi khiến mọi người đứng hình trong giây lát. Đúng lúc đó, đồ ăn vừa gọi khi nãy được đem ra. “Ăn chút đồ tráng miệng nhé!” Hai cô gái mở thực đơn ra và bắt đầu bàn bạc. “Những điều cậu vừa nói là thật hả?” Mời các bạn đón đọc Trốn Thoát Khỏi Thực Tại của tác giả Fumio Yamamoto.