Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng

Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lắng Nghe Yêu Thương - Susanna Tamaro
LẮNG NGHE YÊU THƯƠNG là những suy tư trong hành trình đi tìm lại cội rễ của chính mình của một cô gái trẻ người Ý gốc Do Thái, vốn chỉ biết mình ‘sinh ra lúc 4 tuổi' khi được chuyển đến sống với một người bà yêu mình hơn cả mẹ. Yêu cháu và muốn bảo bọc cháu yêu khỏi những tổn thương từ những cá tính quá góc cạnh lẫn cực đoan của cha mẹ, người bà đã dựng nên những câu chuyện đẹp để cho cháu yên lòng về xuất xứ của mình. Nhưng truyện cổ tích chỉ có tác dụng lúc cô cháu yêu còn nhỏ, và khi đã lớn hơn, đã hiểu ra phần nào sự thật mà người bà đã - vì yêu thương mà - che giấu, mọi yêu thương trong cô cháu gái đã chuyển sang thái cực tình cảm khác hẳn - lòng căm ghét. Mọi thứ lên tới đỉnh điểm khi người bà qua đời. Và hành trình đi tìm lại cội rễ của cô gái cũng là hành trình chuyển hóa nhận thức và tình cảm của cô đối với những con người đã ban cho mình cuộc sống. *** CÓ LẼ MỌI SỰ KHỞI NGUỒN từ khi bà cho chặt bỏ cái cây đó đi. Bà không hề nói gì với cháu cả - những chuyện thế này có liên quan gì đến trẻ con đâu - vậy nên buổi sáng mùa đông nọ, lúc cháu đang ngồi trong lớp ngán ngẩm nghe thầy giảng về tính chất của bội số chung nhỏ nhất, thì lưỡi cưa đã nghiến vào lớp vỏ cây màu trắng bạc; còn khi cháu đang lết chân trên hành lang vào giờ ra chơi, thì những mảnh sống của cái cây đã rớt như mưa xuống bầy kiến nhỏ. Khung cảnh tàn diệt đổ ập lên cháu lúc từ trường trở về. Trong sân, nơi cây óc chó từng đứng xõa bóng, giờ chỉ còn là hố đất đen ngòm; những cành cây bị chặt vứt bỏ ngổn ngang, còn thân cây bị cưa thành ba đoạn nằm vô hồn dưới đất; và một người đàn ông mặt mũi đỏ tía phủ kín muội khói dầu diesel đang điều khiển chiếc máy xúc, với những bộ hàm khổng lồ giật tung cái gốc cây. Cỗ máy xúc gầm rú, khụt khịt, lùi lại, chồm lên, hối hả trước những tiếng chửi thề của người điều khiển. Phần rễ cứng cỏi không muốn nơi lỏng những cánh tay bám chặt vào lòng đất. Chúng bướng bỉnh và đâm sâu hơn tưởng tượng. Năm nối năm, mùa tiếp mùa, những chiếc rễ đã âm thầm lan tỏa, lấn sâu vào lòng đất từng chút một, bện lẫn với rễ cây sồi, cây tuyết tùng và cây táo, thậm chí còn cùng nhau quấn chặt lấy đường ống dẫn nước và khí ga. Đó chính là lý do khiến người ta chặt bỏ cây cối: chúng luồn lách trong thẳm sâu, làm khó con người, và con người buộc phải dùng tới máy móc để đối phó với những kẻ cứng đầu như thế. Thình lình, dưới ánh nắng mùa đông lạnh lẽo, vồng rễ oai vệ của cây óc chó, với những chùm đất nhỏ vẫn còn dính chặt lấy rễ cây, bị nhấc bổng lên trước mắt cháu - như phần mái bị bốc ra khỏi ngôi nhà - thả lại đoạn rễ cái vẫn còn chôn sâu trong lòng đất. Khi đó - và chỉ khi đó - người điều khiển máy xúc mới hả hê giơ cao nắm tay ra dấu chiến thắng, và bà đã mặc sẵn tạp dề, vỗ tay hưởng ứng. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Yêu Thương của tác giả Susanna Tamaro.
Giữa Cơn Lốc - Đào Hiếu
S au hơn hai mươi năm, khoảng rẫy trên sườn đồi phía trước vẫn giữ nguyên hình thể. Hình một con mèo cụt đuôi đứng ở lưng chừng núi. Hình ảnh ấy làm người lính già xúc động. Có lẽ đó là vật duy nhất còn giữ nguyên hình dạng, màu sắc trong suốt những năm dài. Và dường như những đám mây sau bao nhiêu lần hợp tan vẫn trở về giăng trên đỉnh núi thấp? Trọng cúi xuống. Nấm mồ của mẹ và của Nghi nằm cạnh nhau. Hai tấm bia xây bằng xi-măng in những dòng chữ đỏ đã phai màu. Duy loay hoay đốt bó nhang thơm trong khi Hữu ra sức chặt những bụi gai mọc lan ra chỗ mộ phần. Trọng đến bên Duy và ngồi xuống. Nén hương cháy đã quá nửa. Đôi mắt Duy vẫn nhìn đăm đăm vào vùng khói tản mạn, dáng ngồi của anh vụng về, xô lệch và những ngón tay đen sạm bò ra như mấy cái rễ cây. Trọng rút bao thuốc Thăng Long ra mời Duy một điếu. Hữu đã dọn sạch gai góc chung quanh và trở lại chỗ hai người anh mình. Ba anh em đốt chung một que diêm. Họ ngồi yên lặng nhả khói. Phía trước, bên những bụi chim chim, bông trang, nho dại… Tú mặc chiếc áo lụa màu mỡ gà rộng thùng thình ngồi chơi với đứa con trên bãi cỏ xanh. Cang cũng ở cạnh đó, mặc chiếc áo thun màu vàng sậm cao cổ. Chiếc áo dài tay có công dụng che bớt những phần thân thể khẳng khiu của nó bỗng nhiên đem lại cái vẻ hiền lành không ngờ. Cang ngồi như quỳ, nhoài người về phía trước chăm chú theo dõi đứa cháu và cặp dế đá. Chiếc quần jeans bạc-thếch-hai-đầu-gối của nó bỗng làm sáng lên cả một vùng cỏ xanh. Trong dáng ngồi đó, nó như dài thêm ra… Cái nước da tái xanh ấy vừa gây cảm giác bạc nhược, ốm yếu vừa toát ra cái vẻ gì khinh bạc, giang hồ. Cang bứt một sợi tóc, xe giữa hai ngón tay, nhử trên hai cái râu dế. Con vật hăng máu chớp cánh “gáy” rúc rích, xoay trở liên hồi. Đứa bé giương đôi mắt xanh ra nhìn không chớp. Cang cũng nhập cuộc say sưa, mắt nó cũng mở lớn, long lanh. Tiếng cười trẻ thơ xóa sạch vết tích của quá khứ, như ngọn gió thổi qua hồn người mẹ trẻ, xua đi hết những mặc cảm. Tiếng cười hồn nhiên giản đơn như nắng, như mây, như lá cỏ. Tú đón nhận một hạnh phúc khép nép, nhẹ bước vào đời nàng bằng tiếng cười của đứa con trai. Mời các bạn đón đọc Giữa Cơn Lốc của tác giả Đào Hiếu.
Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks
Mùa xuân năm 1984, ở tuổi học sinh trung học, Amanda và Dawson chìm đắm trong một tình yêu cuồng nhiệt. Họ đến từ hai thế giới khác nhau, và mối tình cháy bỏng đầu đời của họ dường như trái ngược với hiện thực cuộc sống bình yên nơi thị trấn nhỏ miền Bắc California. Khi mùa hè năm cuối cấp đến gần, nhiều sự kiện bất ngờ xảy ra, họ đã bước tiếp theo những con đường hoàn toàn khác biệt. 25 năm sau, Amanda và Dawson tình cờ tái ngộ, đều không có được cuộc sống lý tưởng mà họ từng mong ước, và đều không thể quên mối tình đầu tha thiết từng làm thay đổi đời mình. Những tín điều về bản thân, những giấc mơ mình từng trân trọng đều không như vẻ bề ngoài, đồng thời họ phát hiện sự thật tàn nhẫn về những lựa chọn đã từng đưa ra... Thời gian lấy đi cả hai con người đó nhiều thứ, nhưng có khi nào trả lại cho họ hạnh phúc? *** Amanda đặt hai khay lasagna vào tủ lạnh, đoạn ngó vào lò nướng để kiểm tra chiếc bánh. Mặc dù vài tháng nữa Jared mới tròn hai mốt tuổi, cô đã coi ngày hai mươi ba tháng Sáu như ngày sinh nhật thứ hai của cậu. Vào ngày này cách đây hai năm, Jared đã nhận được một trái tim mới; vào ngày hôm đó cậu đã được trao cơ hội sống lần thứ hai. Nếu điều đó không đáng để ăn mừng, thì cô không chắc còn có điều gì đáng làm thế nữa. Cô ở nhà có một mình. Frank đi làm, Annette đi dự tiệc ở nhà bạn chưa về, còn Lynn dù đang làm thêm nhân dịp nghỉ hè tại cửa hàng Gap. Trong khi đó, Jared lên kế hoạch tận hưởng một trong những ngày tự do cuối cùng trước khi kỳ thực tập của cậu tại một công ty quản lý vốn bắt đầu, bằng việc chơi bóng mềm với một nhóm bạn. Amanda đã cảnh báo Jared rằng ngoài đó trời sẽ rất nóng, và bắt cậu hứa sẽ uống thật nhiều nước. “Con sẽ cẩn thận,” cậu trấn an cô trước khi đi đến sân bóng mềm. Những ngày này, Jared - có thể bơi vì cậu đang trưởng thành, hoặc có thể vì tất cả những gì đã xảy ra với cậu - dường như hiểu được rằng sự lo lắng luôn đi liền với tình mẫu tử. Không phải lúc nào Jared cũng ngoan như vậy. Do hậu quả của vụ tai nạn, tất cả mọi thứ dường như đều làm cậu khó chịu. Nếu cô nhìn Jared với vẻ quan tâm, thì cậu tuyên bố cô đang làm cậu nghẹt thở; nếu cô cố gợi chuyện, thì cậu cáu kỉnh với cô. Cô hiểu những lý do đằng sau tính tình khó chịu của cậu, quá trình phục hồi của Jared rất đau đớn, và các loại thuốc cậu phải uống thường khiến cậu buồn nôn. Những cơ bắp từng mạnh mẽ bắt đầu teo lại dù đã tập vật lý trị liệu, điều đó càng làm cậu cảm thấy bất lực hơn. Quá trình phục hồi về mặt cảm xúc của Jared càng phức tạp vì không giống nhiều bệnh nhân ghép tạng khác, những người phải chờ đợi và hy vọng có cơ hội được kéo dài sự sống của họ, Jared không ngăn được cái cảm giác rằng nhiều năm trong cuộc đời của mình đã bị lấy đi. Đôi khi cậu còn nổi giận với những người bạn đến thăm mình, và Melody, cô gái mà đến kỳ nghỉ cuối tuần định mệnh đó cậu vẫn đang thích, đã thông báo sau vài tuần cậu bị tai nạn rằng cô đang hẹn hò với một người khác. Vô cùng chán nản, Jared quyết định bảo lưu việc học ở trường một năm. ... Mời các bạn đón đọc Dành Hết Cho Em của tác giả Nicholas Sparks.
Thắng Bại - Nguyễn Văn Hồng
Thắng Bại là bức tranh hoành tráng và chân thực về một thời cách mạng sôi động và oanh liệt của bà con lao động sống nơi cửa ô và nhân dân Hà Nội, cùng nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng vùng lên làm Cách mạng tháng Tám và trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp tới ngày giải phóng Thủ đô. Bạn đọc như được sống lại cùng với các nhân vật trọng bầu không khí sôi sục cách mạng, cũng như hiểu rõ cảnh cơ cực bần hàn của người dân mất nước, để càng thêm quý, thêm yêu quá khứ hào hùng và vẻ vang của dân tộc, càng thấy rõ cái giá mà dân tộc ta đã phải trả để giành giữ độc lập và tự do. Cửa ô bất ngờ bùng cháy ngọn lửa cách mạng. Cùng với đồng bào Thủ đô, bà con nơi đây tập hợp thành đội ngũ tiến vào Hà Nội cướp chính quyền từ trong tay Nhật Pháp, giành lại độc lập tự do. Rồi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Rồi cả nước trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào sống nơi cửa ô vẫn bền bỉ sát cánh cùng nhân dân Hà Nội tiếp tục chiến đấu trong lòng địch cho tới ngày giải phóng Thủ đô... Mặc dù giặc Pháp đã cố tình bưng bít, tin thất thủ Điện Biên Phủ vẫn cứ lọt vào từng căn phòng kín của mỗi gia đình Hà nội. Để rồi ai nấy dường như lúc nào cũng dỏng tai lên đón đợi những tin tức từ hội nghị Giơ-ne-vơ vọng về... Không khí Hà Nội dồn nén hết mức. Người công khai, kẻ âm thầm chuẩn bị cho tương lai, phòng khi... nước đến chân... Cuối cùng thì, không còn là những lời thầm lén, vụng trộm mà là loa phát, báo đăng Trên bàn đàm phán tại hội nghị Giơ-ne-vơ, hiệp định đình chiến giữa hai chính phủ Việt Pháp đã được ký kết!. *** Trời sắp sáng. Từ trong lòng nội thành, mọi thứ tiếng nổ vọng ra tới cửa ô, lúc này đã thưa hơn. Và, cả những quầng lửa đỏ rực trên bầu trời Hà Nội, lúc này cũng đã nhạt dần… Suốt đêm, khúc đường nơi cửa ô này ồn ào, náo động bởi số đồng bào trong nội thành vì nhiều lí do khác nhau, cố nấn ná nuôi hi vọng vào lời sấm truyền: “Thăng Long phi chiến địa” do cổ nhân để lại. Song, lời sấm không ứng nghiệm. Thế là cuộc chiến tranh vệ quốc đã nổ ra, ngay tại giữa kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến! Và, cho mãi tới tận khi tiếng súng đã thực sự rền vang, cùng với khói lửa chiến tranh ngùn ngụt bốc lên, thì số đồng bào này mới đành lòng dứt bỏ mái ấm thiêng liêng của gia đình mình, hối hả gồng gánh, dắt díu nhau lên đường… chạy tản cư. Khi đã vượt qua được cái ụ chiến đấu vừa rộng vừa cao[1] sừng sững đứng chắn ngang mặt đường Nam Bộ[2] thì ai nấy bỗng đều dừng lại, ngoái đầu nhìn về nơi súng nổ rền vang và lửa đang rừng rực bốc cao, nơi mà họ vừa từ đấy bước ra… Minh và Tấc từ trong Ngõ Bò đi ra, vừa tới cửa ô gặp ngay cảnh tượng ồn ào, hỗn độn của đám đông đồng bào, mà chỉ thấy có hai ba đồng chí tự vệ làm công tác giữ trật tự, tình hình cứ rối lên. Minh bèn bảo Tấc cùng mình xông vào can thiệp: đun nước mời đãi mọi người, can các đám cãi nhau… Một bà – nom cách ăn mặc ra dáng người giàu có – sau một hồi nghỉ ngơi, đến lúc con cháu giục mời đứng dậy đi tiếp thì bỗng nhiên đổi ý. Bà khăng khăng đòi quay trở lại ngôi nhà do chính bàn tay tần tảo của mình chắt chiu “từng đồng từng chữ” để tạo dựng nên. Nay dù thế nào bà cũng quyết đòi được chết tại chính cái ngôi nhà ấy. Người con trai Âu phục chỉnh tề, người con dâu áo “lơ muya” quần lĩnh trắng, khăn san, giày cườm (dường như chiến tranh là một sự quá đỗi bất ngờ, nên không kịp lo liệu cho mình…); và đàn cháu bốn năm đứa “có nếp có tẻ”, tíu tít bâu quanh! Ai nấy tha thiết khẩn nài, van xin… nhưng bà vẫn rền rĩ khóc than, chẳng chịu xiêu lòng! ... Mời các bạn đón đọc Thắng Bại của tác giả Nguyễn Văn Hồng.