Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Cách Để Của Cho Con
MỘT CÁCH ĐỂ CỦA CHO CON Muốn cho con cái sau có quyền cao chức trọng, nhà ngói cây mít, ao cả ruộng liền là lẽ thường tình của mọi người. Vị lòng ước ao ấy mà lắm người chắt bóp từng đồng, dè sẻn từng li, ăn nhịn để dành, mong gây dựng cho con cái mai sau. Tuy phải khó nhọc, hoặc dầm nắng dãi mưa, hoặc chân bùn tay lấm, hoặc chèo non vượt biển, mà miễn kiếm được dư dật ít nhiều dành dịn nay tí mai tí, lâu dần thành tiền đống để lại cho con làm vốn liếng là cũng không há răng hở môi phàn nàn chi cả. Có khi thương con quá, đến nỗi không nỡ trái ý, muốn sao cho vậy, không dám bắt học hành, sợ con phải nhọc mà thường nghĩ thầm rằng : ngày nay là buổi kim tiền thiết huyết, nay ta dành dịn có tiền thì nhờ oai đồng bạc dẫu đổi trắng thay đen còn được, huống chưng là lo danh phận cho con, tưởng dễ như dở bàn tay có khó gì. Vả chăng đến khi con ta nhớn khôn lên, sẵn đã có vốn liếng nó làm ruộng đi buôn, làm gì chả đủ được sung-sướng, tội gì bắt nó vùi đầu vào quyển sách suốt ngày cho mệt thân nó. Mà lại lắm người văn hay chữ tốt nhưng vẫn cũng xác như vờ, sơ như rộng thì tội gì ta bắt con ta mỏi óc nhọc xác làm chi. Ôi ! Thương con đến thế thật không thương phải đường ! Cái lý tưởng để của chìm của nổi cho con còn hơn là cho con ăn học thật là sai lầm lắm lắm. Ta đã thấy bao nhiêu nhà trọc-phú chỉ lắm của nhiều tiền mà óc rỗng tếch, ngu si, dại dột, tròng vào chữ như xem vào tường, hay phải lừa đảo, người bảo phải chả theo, chỉ nghe kẻ nói dối, nên chẳng bao lâu phải mình trần chôn-chã, chơ thân cụ còn hai bàn tay trắng. Đến bấy giờ tiền hết gạo không lấy gì làm cách sinh nhai, tất phải xoay ra cách lường thầy phản bạn, dối-da gian-tham, nhân cách con người sao cho giữ được, còn nói chi đến sự chia bùi sẻ ngọt, báo đáp sinh thành. Nước đã đến chân, nhẩy sao cho kịp, vì cha mẹ lo không phải đường, tính chẳng ra lối mà dí đại họa cho con. Trông người phải ngắm đến ta, ta há chả nên lợi dụng cái nhầm của người mà định liệu cách để của cho con ta sau này thế nào cho phải đường ư. Ta nên nhận biết rằng, thế-kỷ ngày nay là thế-kỷ lý luật, khôn được dại thua, hớ hênh thiệt của, vô ý mất tiền, vì lắm kẻ hiểm thâm vô lại, dùng thiên phương bách kế, phép quỉ chước ma để bóc tước anh khờ, anh dốt, chẳng thương chi người dại, không xót gì kẻ ngu. Ngày xưa, người dốt nát đần độn nhưng chịu cằm cụi chũi đụt làm ăn thì còn giữ được của, nhưng ngày nay người dốt nát, kẻ ngu si khó giữ được của mà ăn ; cho nên ta phải lo trước nghĩ sau thế nào cho con ta sau này có thể cạnh tranh với người đời quỷ quyệt. Đi qua rừng rậm lắm loài ác thú, tất phải có khí giới mấy bảo toàn được tính mệnh ; ở đời quỷ quyệt, tất phải khôn giỏi mới có thể bảo hiểm được thân mình. Đành rằng cái khôn giỏi là những khí giới mạnh để hộ vệ cho người, nhưng tìm đâu thấy, lấy đâu được ? Xin đáp rằng : sự khôn giỏi hay ẩn núp trong những quyển sách tốt. Thực vậy, những sách tốt là những tiếng của bạn hiền khuyên nhủ êm đềm ta làm những điều hay, dạy dỗ ta ngọt ngào những nhẽ phải, miễn là ta biết kiên tâm bền chí mà học tập, vui lòng mà tuân theo là được. Thủa xưa, ông Drouot nhà nghèo cảnh khổ, chỉ nhờ có học mà nên khanh tướng, vẻ vang mày mặt rõ ràng mẹ cha ; bà Mạnh-mẫu, mẹ góa con côi, chỉ biết chăm cho con học hành mà được hiển vinh sung sướng, tiếng thơm để lại nghìn thu. Muôn nghìn người khác nhờ có học mà được vinh thân phì gia kể sao cho hết. Thế mới biết cổ-nhân nói : « Để nghìn vàng cho con không bằng dạy con một quyển sách », thật là có lý lắm. Vậy, bất cứ ta muốn sau này cho con làm nghề gì, trước hết ta nên cho học đến nơi đến chốn đã, mà nếu có thể cho học được thì những cách lối tắt đường ngang mong cho chóng được cái danh giá hão huyền, ta chớ nên dùng đến, vì nghề nào cũng vậy, làm ruộng, đi buôn, làm thợ, nếu có học rộng biết nhiều tất có cơ mở mang to tát được. Xem như những nhà nông công thương các nước văn-minh lập nên nghiệp nhớn, có danh tiếng lừng lẫy hoàn cầu, hầu hết là những tay cự phách trong làng nho, xuất thân ra đường thực-nghiệp, chứ những người vô học thức đương sao nổi những việc nhớn được. Nói tóm lại là hễ cho con học được đến nơi đến chốn, tức là để cho con cái của rất chắc chắn vậy. D.Q.H. *** 1) GƯƠNG-PHONG-TỤC Thiên-hạ mỗi nước có một phong-tục, mà trong nước cũng mỗi nơi có mỗi phong-tục. Những nhời ca-dao này tức là cái tinh thần hồn phách của thói tục trong nước hiện ra. Hễ thói tục hay thời có câu ca-dao hay, thói tục dở thì có câu ca-dao dở. Điều hơn nhẽ thiệt, kẻ dại người khôn, không sự gì là không đủ. Cũng là một cái gương cho người trong nước ta soi chung. Không cứ nhớn nhỏ giai gái, ai cũng nên đem cái gương này mà soi vào mình, điều hay thì nghĩ xem mình có được như thế không, điều dở thì xét xem mình có phải như thế không. Hay khen hèn chê, nào ai có búng miệng thiên-hạ. Tốt phô xấu đậy, chửa dễ mà che mắt thế-gian. Nhời ông bà cổ sơ nói, chẳng điều bỏ đi ; thực là một sự khuyên răn rứt thiết cho người ta, không phải là để nghêu ngao cho đỡ buồn mà thôi. Xưa kia ta chỉ học sách quốc-phong nước Tầu, thì chưa ai chép đến sách này. Từ khi có lối học mới thì ta mới biết cái thói tục của mình là sự cần hơn. Nên cũng đã một vài người có chí, chép nhặt lấy mấy nhời qua ở các miền quê, mà ghi làm quốc-phong của nước mình. Những sách ấy chép có ba lối : một là chép theo lối quốc-phong nước Tầu mà chia ra từng phủ từng huyện ; hai là theo lời ca mà chia loài mục, như là mục cây cỏ, mục núi sông ; ba là dịch nghĩa nhời ca làm câu thơ chữ nho, mỗi câu bốn năm chữ, như lối thơ quốc-phong nước Tầu. Mỗi sách mỗi lối cũng là có một ý kiến cả. Đến như sách này, là góp nhặt mọi nhời ca mà suy xét tình ý, xem câu nào ý gì sẽ lựa theo mà chia mục, cả thảy mười mục là ba mươi tám tiết, trước hết lấy sự luân-lý làm đầu, rồi đến các bực người, các giọng nói, nhân tình thế sự, khí đất tiết giời, gần từ trong nhà, xa đến ngoài nước, loài nào mục ấy, làm cho người xem mở sách thấy nghĩa ngay, còn những nhời chưa rõ là tình ý gì, mà nhời nhẽ hay, thì cũng chép phụ xuống cuối sách, gọi là ghi nhớ lấy nhời cổ tích mà thôi. Sách này là biên chép, không phải là đặt ra, nói hay nói dở là tự nhời người xưa, mà biết dở biết hay, thì ở lòng người xem sách, duy những nhời chua bàn, là người chép sách có phụ thêm ý mình, làm cho rõ nghĩa, song cũng phần nhiều là dẫn nhời phương-ngôn tục-ngữ là điển-tích cho rõ, là nói có sách mách có chứng, không dám tự ý riêng mà nói phải lấy một mình. Song nhời ca-dao trong một nước có nhẽ còn nhiều, sách này tuy rằng góp nhặt đã kỹ, nhưng mà tai mắt một người đã lấy đâu làm đủ được, vả lại các bài ấy phần nhiều là sao ở miệng người, không phải là có bản sẵn, nên dẫu so xét cũng chưa chắc đã khỏi sự sai nhầm, nếu sau này các ông biết rộng, có ý giúp vào, góp gió làm bão, như gấm thêm hoa, cho cái gương soi chung trong nước một ngày một tỏ, mà tai mắt chúng ta càng trông xa nghe rộng mãi ra, ấy là phần trông mong về những người thông thái. ĐOÀN-DUY-BÌNH Mời các bạn đón đọc Một Cách Để Của Cho Con của tác giả D.Q.H.
Nghệ Thuật Tư Duy Rành Mạch - Rolf Dobelli
Mọi người đều mắc sai lầm. Những sai lầm trong việc ra quyết định đều bắt nguồn từ các lỗi tư duy tưởng như đơn giản, nhưng dần dà chúng tích tụ thành những thành kiến khó bỏ. Vậy mà hiếm khi chúng ta nhận ra điều đó, nên sai lầm cứ nối tiếp sai lầm, dẫn đến bao hối tiếc vì những quyết định không đúng cho cuộc đời mình: Cứ mãi đeo bám một công việc dù biết trước chẳng thu được lợi lộc gì; cho rằng một dự án thành công suôn sẻ là do tài năng và trí lực, còn thất bại do ngoại cảnh khách quan; bán cổ phiếu lúc đã quá trễ, hoặc bán quá sớm… Và đó chỉ là một vài trong số hàng loạt các sai lầm “cơ bản” được Dobelli mổ xẻ phân tích qua 99 chương sách ngắn gọn, súc tích với những ví dụ minh họa thiết thực giúp ta có thể nhận diện và né tránh chúng. Đơn giản, rõ ràng và toàn diện một cách đáng  ngạc nhiên, cuốn cẩm nang nhất định phải có này có thể thay đổi mãi mãi cách ta suy nghĩ, giúp ta quyết định sáng suốt hơn mỗi ngày ở bất cứ đâu,  trong bất cứ tình huống nào. *** Mùa thu năm 2004, một ông trùm truyền thông ở châu Âu mời tôi đến Munich tham dự sự kiện được miêu tả là một “cuộc trao đổi thân mật của giới trí thức”. Tôi thì chưa bao giờ tự coi bản thân là “trí thức” - tôi từng theo học kinh doanh, chuyên ngành này thực ra còn khiến tôi trái ngược với một trí thức - thế nhưng tôi cũng đã viết được hai cuốn tiểu thuyết, và tôi đoán rằng điều đó khiến mình được xem như đủ tư cách khách mời. Nassim Nicholas Taleb cũng có mặt ở đó. Thời điểm ấy, ông là một thương gia Phố Wall chưa có tiếng tăm, một người đam mê triết học. Người ta giới thiệu tôi là một chuyên gia về thời kỳ Khai sáng của Scotland và Anh quốc, đặc biệt chuyên sâu về triết lý của David Hume. Hẳn nhiên, tôi đã bị nhớ nhầm với ai đó. Dù rất đỗi ngạc nhiên, tôi vẫn nở nụ cười gượng gạo với quan khách trong phòng, và cứ thế đáp lễ họ bằng sự im lặng như minh chứng cho sự tinh thông triết học của mình. Ngay lập tức, Taleb kéo một chiếc ghế trống và vỗ tay vào đó. Tôi liền ngồi xuống. Sau vài trao đổi qua loa về Hume, may mà cuộc trò chuyện chuyển sang đề tài Phố Wall. Cả hai đều kinh ngạc trước những sai lầm có hệ thống trong quá trình ra quyết định của các CEO và lãnh đạo doanh nghiệp -không ngoại trừ cả hai chúng tôi. Chúng tôi tán gẫu về thực tế rằng, ngẫm lại những sự việc không ngờ tới hóa ra lại có khả năng xảy ra cao hơn nhiều những sự việc được định sẵn, rồi cùng cười trước những lý do khiến các nhà đầu tư không chịu từ bỏ cổ phiếu của họ khi chúng mất giá đến mức thấp hơn cả giá mua. Sau sự kiện ấy, Taleb gửi cho tôi vài trang bản thảo quý báu của ông, những trang mà tôi đã nhận xét và góp vài lời phê bình. Những trang sách đó sau này đã trở thành một phần của tác phẩm bán chạy khắp toàn cầu của ông, Thiên nga đen. Cuốn sách đã đưa Taleb gia nhập hàng ngũ các trí thức tinh hoa. Cũng trong khoảng thời gian này, đam mê viết lách trong tôi lớn dần lên, tôi bắt đầu đọc ngấu nghiến những cuốn sách và bài viết của các nhà khoa học xã hội và khoa học nhận thức về các đề tài như “suy nghiệm và thành kiến”, rồi tôi còn tăng cường trao đổi email với rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như đến thăm phòng thí nghiệm của họ. Tới năm 2009, tôi nhận ra rằng, ngoài công việc của một tiểu thuyết gia, tôi còn trở thành một nhà nghiên cứu tâm lý học nhận thức và xã hội học. Việc không thể suy nghĩ thấu suốt, hay điều mà các chuyên gia gọi là một “lỗi nhận thức”, là sự đi chệch có hệ thống khỏi logic - chệch khỏi cách cư xử và tư duy tối ưu hợp tình hợp lý. Khi dùng từ “có hệ thống”, tôi muốn nói đó không chỉ là những sai lầm thi thoảng mắc phải trong xét đoán, mà là những sai lầm đều đặn, những rào cản đối với logic mà chúng ta vấp phải hết lần này đến lần khác, những kiểu tư duy lặp đi lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và kéo dài nhiều thế kỷ. Chẳng hạn như, chúng ta thường đánh giá quá cao sự hiểu biết của chính mình chứ chẳng mấy khi đánh giá thấp nó. Tương tự, nguy cơ đánh mất một thứ gì đó khiến chúng ta bị kích động hơn nhiều so với khả năng kiếm được thứ tương tự. Khi ở bên cạnh những người khác, chúng ta thường có xu hướng điều chỉnh cách cư xử của mình cho phù hợp với cách cư xử của họ, chứ không phải ngược lại. Những câu chuyện ngắn khiến chúng ta bỏ qua phân bố thống kê (tỷ lệ cơ bản) ẩn phía sau, chứ không phải ngược lại. Sai lầm chúng ta mắc phải vì cứ mải miết đeo đuổi cùng một kiểu tư duy cũ cứ chất chồng lên nhau ở một góc riêng dễ đoán giống như quần áo bẩn vậy, trong khi góc bên kia thì vẫn được giữ khá sạch sẽ (nghĩa là chúng chất đống trong “góc tự tin thái quá”, chứ không phải “góc thiếu tự tin”). Để tránh ném khối tài sản tôi đã tích lũy được trong suốt sự nghiệp cầm bút vào những canh bạc vô bổ, tôi bắt đầu lập ra một danh sách các lỗi nhận thức mang tính hệ thống ấy, bổ sung các ghi chú và những câu chuyện cá nhân làm minh họa - mà không hề có ý định sẽ xuất bản chúng. Ban đầu tôi chỉ định lập ra danh sách này cho riêng mình. Trong đó, một số lỗi tư duy đã được biết đến hàng thế kỷ nay, còn số khác chỉ được phát hiện trong vài năm qua. Một số lỗi được đặt cho hẳn hai đến ba cái tên, và tôi lựa chọn những cái tên được sử dụng rộng rãi nhất. Chẳng bao lâu tôi nhận ra công việc biên soạn những cái bẫy tư duy đó không chỉ hữu ích cho việc đưa ra quyết định đầu tư, mà còn cho việc kinh doanh cũng như xử lý các vấn đề cá nhân. Từ khi soạn ra danh sách này tôi đã cảm thấy bình tĩnh và điềm đạm hơn. Tôi bắt đầu nhận ra những sai lầm của bản thân sớm hơn và có thể né tránh chúng trước khi xảy ra tổn thất khó cứu vãn. Thế là, lần đầu tiên trong đời, tôi có khả năng nhận biết khi nào thì những người khác có thể bị chi phối bởi chính những sai lầm mang tính hệ thống kia. Với một danh sách như thế, giờ đây tôi đã có thể cưỡng lại sức hút của chúng - và thậm chí còn giành lợi thế trong các cuộc giao dịch. Tôi đã có các thư mục, các thuật ngữ và những cách lý giải để xua đi bóng ma của sự phi lý. Từ thời Benjamin Franklin làm thí nghiệm thả diều, sấm chớp không hề xuất hiện với tần suất ít đi, hay giảm cường độ hoặc bớt ồn ào hơn - nhưng chúng đã trở nên bớt đáng lo ngại. Đây chính xác là điều giờ đây tôi cảm nhận về sự phi lý trí của chính mình. Không bao lâu sau thì bạn bè biết đến bản danh sách của tôi và tỏ ra quan tâm. Kết quả là một chuyên mục trên các tuần báo ở Đức, Hà Lan và Thụy Sĩ ra đời, cùng với đó là vô số những buổi thuyết trình (chủ yếu là trước các bác sĩ, giới đầu tư, thành viên ban quản trị, các CEO và quan chức nhà nước), rồi cuối cùng là cuốn sách này. Xin hãy nhớ cho ba điều khi bạn đọc những trang sách sắp tới: thứ nhất, bản danh sách các lỗi ngụy biện trong cuốn sách này chưa phải là hoàn thiện. Chắc chắn người ta sẽ còn phát hiện ra những lỗi khác nữa. Thứ hai, phần lớn các lỗi này có liên quan đến nhau. Điều này vốn dĩ không có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng thì mọi phân khu của bộ não đều được liên kết với nhau. Những phóng chiếu thần kinh dịch chuyển từ phân khu này sang phân khu khác của bộ não; không có khu vực nào hoạt động độc lập cả. Thứ ba, nghề nghiệp chính của tôi là tiểu thuyết gia và doanh nhân, chứ không phải là một nhà khoa học xã hội; tôi không có phòng thí nghiệm riêng để thử nghiệm các lỗi nhận thức, và tôi cũng không có một nhóm nghiên cứu để cử đi tìm kiếm các lỗi hành vi. Trong lúc viết cuốn sách này, tôi giống như một dịch giả có nhiệm vụ chuyển ngữ và tổng hợp những gì mình đã đọc và học được - để diễn giải chúng thành những từ ngữ mà người khác có thể hiểu. Tôi vô cùng kính phục các nhà nghiên cứu trong những thập niên gần đây đã phát hiện ra những lỗi nhận thức và lỗi hành vi ấy. Thành công của cuốn sách này về cơ bản là một sự tri ân đối với công tác nghiên cứu của họ. Tôi hàm ơn họ rất nhiều. Đây không phải là một cuốn sách kim chỉ nam. Bạn sẽ không tìm thấy “bảy bước để đạt được cuộc sống không sai lầm” ở đây. Những lỗi nhận thức in sâu trong tiềm thức chúng ta đến mức không thể nào rũ bỏ chúng hoàn toàn. Chỉ có ý chí siêu nhiên mới có thể triệt tiêu chúng, nhưng đó thậm chí không phải là một mục tiêu đáng hướng tới. Bởi không phải tất cả những lỗi nhận thức đều nguy hại, và một số trong đó thậm chí còn cần thiết để giúp ta sống tốt. Mặc dù cuốn sách này không cung cấp chìa khóa mang đến hạnh phúc, nhưng chí ít nó cũng đảm bảo cho bạn có thể đương đầu với quá nhiều bất hạnh bạn vẫn tự gây ra cho mình. Nguyện vọng của tôi vốn dĩ khá giản dị: nếu chúng ta có thể học được cách nhận ra và tránh khỏi những sai lầm lớn nhất trong tư duy - trong đời sống riêng, trong công việc, hay trong quản lý nhà nước - chúng ta có thể tận hưởng sự thịnh vượng vượt bậc. Chúng ta sẽ không cần thêm những mưu ma chước quỷ, những ý tưởng mới, những công cụ không cần thiết, hay sự nỗ lực đến quên mình - tất cả những gì chúng ta cần chỉ là bớt phi lý trí đi mà thôi. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Tư Duy Rành Mạch của tác giả Rolf Dobelli.
Săn Học Bổng
Cuốn sách này chia sẻ với bạn mọi thứ, từ việc chuẩn bị, lên kế hoạch cho đến sử dụng sách vở và tài liệu cho các kỳ thi tiếng Anh. Tác giả Vương Quyên cũng chia sẻ tất cả phương pháp và đường hướng học tiếng Anh cũng như những thất bại và thành công trong việc nỗ lực  để nâng cao năng lực tiếng Anh của cô - từ lúc còn là một cô bé không biết gì về tiếng Anh đến lúc gặt hái được những thành quả đáng kể. Và hơn thế, Vương Quyên cũng chia sẻ cảm nhận của cô về cuộc đời những lúc cô xuống dốc, băn khoăn, đơn độc hay dao động; chia sẻ quan niệm, suy nghĩ của cá nhân cô liên quan đến sự kiên trì, phấn đấu, ước mơ và cả những gì cô gái trẻ học được, chiêm nghiệm được trên đường đời của mình. Về phương diện học tiếng Anh, trong cuốn sách này không có những câu giáo điều, càng không có những câu ra yêu cầu bạn “phải” thế này hay bạn “phải” thế kia, chỉ có những chia sẻ gần gũi, giản đơn. Phương pháp học tập cũng giống như quan điểm nhìn nhận sự vật, mỗi người đều có một cách nhìn riêng về một sự vật nào đó. Nếu bạn cảm thấy phương pháp học tập này phù hợp với bạn, cuốn sách chắc hẳn sẽ rất có ích cho bạn; còn nếu bạn có thể "gạn đục khơi trong", chọn lọc ra phương pháp học tập phù hợp với bạn từ những điều trong sách, như vậy cuốn sách cũng đã thật sự đạt được tác dụng “thả con săn sắt, bắt con cá rô”, đồng thời thể hiện được giá trị của nó. Đây là cuốn sách về phương pháp học tiếng Anh bán chạy nhất Trung Quốc cho đến nay. *** Vương Quyên tên thân mật là Koala Xiaowu. Đã tốt nghiệp thạc sĩ trường Đại học Washington. Hiện đang sinh sống ở thành phố Saint Louis, tiểu bang Missouri, nước Mỹ. Lời bìa phụ trước: Một cuốn sách giản dị và sáng trong nhưng chứa đựng những điều mà bất cứ bạn trẻ nào cũng tìm kiếm. Cuốn sách chia sẻ cho bạn những kinh nghiệm học tiếng Anh và “săn học bổng”, nhưng trên tất cả, nó kể cho bạn nghe về ƯỚC MƠ. Lời bìa phụ sau: “Bạn muốn biết mùi vị của quả lê như thế nào? Vậy bạn hãy tự mình nếm thử.” Tìm mục tiêu cũng vậy. Khi bạn không biết mình thích điều gì thì hãy can đảm thử nghiệm. Tuổi trẻ không sợ thất bại, ngã rồi lại phủi bụi đứng lên. Kì thực, thất bại không đáng sợ, vấp ngã không đáng sợ, nhụt chí không đáng sợ, hèn nhát không đáng sợ, lười biếng không đáng sợ, lạc đường không đáng sợ! Điều đáng sợ nhất là bạn đánh mất trái tim dám theo đuổi ước mơ. *** Cuốn sách là tự truyện của tác giả kể về quá trình trưởng thành trong học tập cũng như cách nhìn nhận về thế giới xung quanh, về cuộc đời của chính bản thân mình trong suốt mười mấy năm trời dài đằng đẳng. Có lẽ đối với nhiều người người thì thể loại này có thể không còn mới mẻ nữa. Tuy nhiên, sẽ không có con đường nào giống con đường nào, sẽ không có áp lực nào giống áp nào và nếu có giống thì bạn có dám chắc chắn rằng nó cũng diễn ra trong cùng một thời điểm như nhau?  “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông.” (Heraclitus – nhà triết học duy vật và được coi là ông tổ của phép biện chứng). Và tác phẩm này cũng không ngoại lệ, nó mang những nét đặc trưng riêng biệt như những thước phim trải dài qua từng giai đoạn từ lúc tác giả còn là một cô bé đến khi nhận thức được bản thân mình phải cố gắng “tôi luôn cảm thấy không cam lòng, luôn cảm thấy cuộc sống không nên dừng lại ở đây, luôn cảm thấy mình chỉ có một lần được sống, không nên đi theo dấu chân người khác, cảm thấy mình nên để lại những dấu ấn riêng trong cuộc đời của mình, để lại những dấu ấn ngoạn mục, đáng nhớ, đáng thán phục, để đến khi chuẩn bị rời xa thế giới này, ít ra trong lòng tôi cũng không có gì để hối tiếc.” Một câu chuyện về sự ham chơi và cái giá phải trả thì không hề nhỏ: “Bạn có thể ham chơi, nhưng nên nhớ, bạn sẽ phải trả giá cho việc ham chơi ấy. Bạn muốn có được thứ này thì phải mất thứ kia. Ông trời công bằng không cho ai tất cả. Cái gọi là chèo thuyền ngược dòng, không tiến ắt lùi, chính là nói bạn ham chơi trong lúc người khác đều đang phấn đấu, thì sẽ bị thụt lùi phía sau.” Một câu chuyện về những ước mơ qua từng giai đoạn của cuộc đời, về sự bình đẳng ước mơ giữa mỗi con người: “Cho dù bạn từ đâu tới, cho dù bạn bình thường như thế nào đi nữa, thì với ước mơ, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Cho dù bạn cảm thấy bản thân mình nhỏ bé nhường nào, bạn vẫn có quyền theo đuổi ước mơ cao quý. Chỉ khi dám ước mơ, bạn mới có cơ hội thực hiện được điều mình mơ ước bằng chính sự nỗ lực của bạn. Nếu như ngay cả ước mơ bạn cũng chẳng dám nghĩ tới, vậy thì chẳng phải là bạn không có mảy may xác xuất thành công nào ư?” Một câu chuyện về bài học nỗ lực không ngừng nghỉ trong mọi hoàn cảnh, mọi thử thách: “Đời người cần phải phấn đấu, gặp hoàn cảnh thuận lợi cũng phải phấn đấu, gặp hoàn cảnh đối nghịch cần phải phấn đấu nhiều hơn.” “Tôi cần phải kiên cường, vượt qua thất bại, một lần không được thì thử lần thứ hai, hai lần không được thì thử lần thứ ba, chỉ cần tiếp tục kiên trì tôi sẽ từ từ tiến bộ qua thời gian tích luỹ.” Và còn rất nhiều những kinh nghiệm quí báu, những cuộc hành trình đầy gian khó vượt qua chính bản thân mình,… đặc biệt nổi bật lên xuyên suốt quyển sách là những lời khuyên hữu ích, cách thức và phương pháp hiệu quả trong việc học Tiếng Anh được đúc kết từ chính bản thân tác giả. Tất cả đã được cô đọng lại và chất chứa tinh tế trong từng câu, từng chữ, từng trang giấy của quyển sách “SĂN HỌC BỔNG – Đích đến của tôi PHẢI là nước Mỹ” của một tác giả trẻ tuổi người Trung Quốc nhưng hầu như không còn xa lạ đối với các độc giả Việt Nam – Vương Quyên. Học Tiếng Anh để rửa mối hận "bác cả năm" Quyển sách ở những trang đầu tiên hiện lên là một cô bé tên Diễm Diễm được bố mẹ gửi gắm cả một tương lai tươi sáng và đẹp đẽ. Nhưng mọi việc lại đi theo chiều ngược lại với cái tên xinh đẹp ấy cả về ngoại hình lẫn tính cách “lông mày ngang, tóc ngắn, người gầy nhom như con khỉ”, “chưa từng mặc váy”, “hoạt động trong phòng, trên cây, cánh cửa sắt ngoài cổng nhà” và ước mơ của cô gái nhỏ là trở thành“nữ trinh sát, phi hành gia, nữ hiệp khách”. Điều đặc biệt là chưa bao giờ cô nghĩ đến việc mình sẽ trở thành một bậc thầy ngôn ngữ Tiếng Anh. Tất cả mọi chuyện cứ tưởng như êm đềm trôi qua như thế trong cuộc sống của Diễm Diễm. Thế nhưng, có một sự việc đã thay đổi những ngày tháng tuổi thơ bình yên ấy đó là vào năm lớp ba có một môn học bắt đầu thường xuyên xuất hiện trên lịch học của cô - Tiếng Anh. Với ý nghĩ non nớt của một đứa trẻ là bản thân không đến nước Anh, cũng không nói chuyện với người Anh thì tại sao lại phải học Tiếng Anh đã đưa đẩy cô gái nhỏ đến với những lơ đễnh, những phân tâm cũng như là những rắc rối, những pha hài hước trong các bài kiểm tra ở trường. Không cần suy nghĩ nhiều cũng đủ biết, bởi vì không có động lực học tập cho nên thành tích của cô bé rất tệ và thế là một lời thề ngầm được đặt ra “Từ nay về sau không bao giờ thèm động vào Tiếng Anh nữa.” Với thành tích học tập ngày một xuống dốc mẹ Diễm Diễm đã đăng kí cho cô đi học thêm. Cô bé đi học trong một thái độ vô cùng miễn cưỡng nhưng chính nơi đó, chính cô giáo ở lớp dạy thêm đó, chính phương pháp giảng dạy đó đã đưa Tiếng Anh lại gần với Diễm Diễm hơn, giúp cô có một số thành tích khá nổi bật ở lớp và đây cũng đánh dấu bước ngoặc đầu tiên trên con đường học vấn của cô. Cái giá phải trả Bước sang những ngày tháng ở trường cấp II, được học dưới sự dẫn dắt của cô giáo chủ nhiệm là giáo viên Tiếng Anh đã đưa ra phương pháp học từ vựng đặc biệt mà tác giả đã đề cập đến là Fifty times.Điều này giúp cô rèn luyện được tính nhẫn nại và không còn mắc lỗi viết sai từ vựng nữa. Trong những năm học ở đây, tác giả cũng tìm ra cho mình phương pháp học Tiếng Anh hiệu quả khác “Tôi có thể cải thiện kỹ năng phát âm Tiếng Anh của mình bằng cách bắt chước phát âm của người khác.” Và theo nhận xét về chính bản thân mình thì “tôi là người có được chút thành tựu thì không còn biết trời cao đất dày là gì, học được một chút chữ nghĩa đã cho rằng mình nắm vững tất cả.” Chính tâm tưởng đó đã đưa Diễm Diễm trượt dài trong nước mắt ở kì thi chuyển trường đầu tiên vì chỉ mãi quan tâm đến mỗi Tiếng Anh nhưng thành tích chẳng có gì xuất sắc vì “hàm lượng vàng không cao” còn các môn học khác thì cô cũng đã bỏ mặc. Giây phút này, tôi đã hiểu ra May mắn thay bố mẹ cô cũng tìm được cho cô một ngôi trường cấp III mới dưới hình thức nội trú và những năm tháng tiếp theo của tác giả bắt đầu với lời hứa vô cùng chắc nịch “Con nhất định sẽ học giỏi hơn mỗi ngày, con nhất định sẽ không thua kém bạn bè.” Lời hứa đó đã không được thực hiện bởi sau ngày khai giảng khoảng một tháng Diễm Diễm đã trở về với trạng thái chán chường, mất đi năng lượng như trước đây không tập trung vào học tập mà “chỉ buôn chuyện, chơi bài với bạn bè, chơi game online, xem phim Hàn Quốc,…” Lo lắng cho đứa con gái nhỏ bé của mình, bố mẹ Diễm Diễm đã chuyển trường cho cô với hi vọng cô có thể học hành tốt hơn. Nhưng vì không thích ứng được với áp lực học tập quá cao độ ở ngôi trường mới chuyển đến nên cách duy nhất mà cô có thể đối mặt là chạy trốn nó cùng với người bạn thân Tiểu Di Tử. Và rồi lịch sử của ba năm trước lại tái diễn khi hầu như tất cả bạn bè cùng lớp của cô thậm chí là ngay cả cô bạn thân cũng đi đến những đại học ở các thành phố hoa lệ như Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, Đại học Phúc Đán,… để chắp thêm kiến thức bay cao ước mơ của bản thân thì cô ở lại thành phố phía Bắc, tiếp tục cuộc sống vô vị, tẻ nhạt do không có mục tiêu và sức sống. Đây là bước ngoặc thứ hai và có thể nói là bước ngoặc quan trọng chủ chốt đưa cuộc đời tác giả sang một giai đoạn mới - “tỉnh ngộ và vùng dậy mạnh mẽ” Sự phấn đấu của tôi Con đường nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao độ của tác giả được thể hiện rõ nét nhất ở những năm học đại học ở thành phố phương Bắc cũng chính nơi đây đã tiếp thêm động lực cho tác giả mà sau này khi nghĩ tới cô vẫn còn thấy cảm kích là “Gặp được thầy tốt và bạn hiền.” để rồi từ đó tạo thành một bước đệm đưa tác giả đi cao và đi xa hơn vượt lên chính bản thân mình. Người thầy của Diễm Diễm đã truyền vô số động lực học tập mà một trong số đó là “Dù hoàn cảnh của các bạn như thế nào, thì các bạn cũng cần có dũng khí kiên trì đi tới ước mơ của mình, vì chỉ cần kiên trì chịu khổ, dũng cảm kiên trì, mỗi người đều có khả năng thành công.” Hay câu trả lời cho câu hỏi “Làm thế nào để học giỏi Tiếng Anh?” là “Làm việc cần làm và kiên trì đến cùng.” Tác giả tự nhận mình may mắn khi tìm được cô bạn có cái tên gọi khá dễ thương và ngộ nghĩnhCá Béo Ướp Muối - người có thể nói là cùng cô “đồng cam cộng khổ” trong các giờ tự học, trong các bài tập khó nhằn nhất và cả hai cùng nhau tìm ra những phương pháp học từ vựng, luyện viết, nói Tiếng Anh hiệu quả của bản thân rồi chia sẻ cho đối phương để cả hai cùng tiến bộ. Đặc biệt là bí quyết nắm được một trăm từ vựng mỗi ngày cho đến khi chỉ cần ba giờ để nhớ hết được chúng. Tiếp theo đó là cách mà tác giả cùng cô bạn thân áp dụng các từ vựng vào bài nói của mình từ lời tiếp sức của cô giáo Trịnh “Không có đường tắt giúp nâng cao kỹ năng nói, các bạn chỉ còn cách mở miệng nói thôi.” Cũng chính những năm đầu đại học này, con ếch đã được đổi từ một cái giếng nhỏ sang một cái giếng to hơn khi quyết định đăng kí học luyện nói tại Tập đoàn Công nghệ và Giáo dục phương Đông ở Bắc Kinh để rồi nhận ra ở đây không phải chỉ dân chuyên ngành về Tiếng Anh mới có thể nói tốt Tiếng Anh mà còn nói tốt hơn rất nhiều lần. Trong thời gian học tại đây tác giả đã rút ra một bài học nữa cho bản thân mình không nên so sánh bản thân với người khác vì khởi đầu của mỗi người là khác nhau. Ở năm đại học thứ hai tác giả đã phát triển thêm rất nhiều về kĩ năng nghe nói của mình nhưng đây cũng là năm mà cô phải đấu tranh tâm lý khá mãnh liệt về cuộc thi GRE (kì thi đầu vào cao học của các trường đại học ở khu vực Bắc Mỹ) cũng như phải tiếp tục bước một mình trên con đường đã chọn khi mà cô bạn thân Cá Béo Ướp Muối rẽ sang một hướng khác về chí hướng sau khi tốt nghiệp đại học. Tuy không còn gắng bó với nhau như trước nhưng cả hai vẫn dành cho nhau những lời khuyên, những lời động viên chân thành nhất và cả hai đều được trở thành sinh viên trao đổi đến học tại đại học Bắc Kinh vào năm thứ ba. Ở đây ngoài việc tiến bộ trong học tập ra còn có những việc khiến Diễm Diễm có thể chẳng bao giờ quên được khi cô gặp được các nhân vật thành công trong một số lĩnh vực nhất định và được họ truyền cho nguồn động lực, nguồn cảm hứng mãnh liệt như Thành Long, Lý Liên Kiệt, Mã Vân, Lý Ngạn Hoằng,… Và cuối cùng cô đã hiểu ra “…những hối hận và thất bại trong quá khứ không thể thay thế được cho tương lai, cũng không thể quyết định tương lai. Phấn đấu không bao giờ là muộn.”, “…ước mơ của mình thuộc về mình, chỉ có mình mới có quyền nói “Có” hay “Không” với nó.” Ngôi trường đại học Bắc Kinh này đã giúp cô khẳng định thêm ước mơ của mình và kiên định mục tiêu đã đặt ra cũng như đã tỏ rõ cho cô nhiều điều mà từ trước đến nay cô chưa hiểu. Thời gian thắm thoát thoi đưa cuối cùng cũng đã đến năm cuối cùng của đại học, áp lực về thời gian, về việc học như khiến tác giả “điên loạn” nhưng người thân và bạn bè đã ở bên cạnh giúp cô vượt qua khoảng thời gian khó khăn đấy. Trong năm này, tác giả đã gặt hái nhiều thành công lớn như trúng tuyển kì thi tuyển sinh cao học của Học viện Bắc Kinh, gia nhập vào tổ phụ đề dịch phim,… Bốn năm đại học là khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng không quá ngắn. Tuy nhiên nó đủ để làm thay đổi hoàn toàn cả một người “Lần đầu tiên tôi hiểu được ý nghĩa của việc học, ý nghĩa của phấn đấu; hiểu được làm thế nào mình mới có thể làm cho cuộc đời trở nên vui vẻ, hưng phấn, hiểu được làm thế nào mình mới có thể không oán trách không hối hận…” Nhật kí vượt trùng dương của tôi Chương tiếp theo thuật lại cuộc sống cao học khi tác giả còn ở trong nước. Ở chương này, vô số kinh nghiệm về cuộc thi GRE và TOEFL đã được cô mô tả tỉ mỉ qua từng ngày cũng như là cách viết bài luận, nghệ thuật chọn trường du học, trình tự, qui trình làm hồ sơ nhập học. Đạt được kết quả gần như tuyệt đối trong các cuộc thi lớn như GRE, TOEFL hay xa hơn nữa là được nhận vào học tại một trường đại học danh tiếng hàng đầu của nước Mỹ - Đại học Washington. Đó là niềm mơ ước của biết bao nhiêu người và đây cũng chính là kết quả xứng đáng cho sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cô, như chính đạo lý mà cô đã hiểu ra được “Chỉ cần có nội tâm đủ mạnh mẽ, quyết tâm đủ kiên định, hành động đủ quyết đoán, kiên trì đủ lâu bền, và nắm chắc cơ hội đến với mình, thì ai cũng đều có cơ hội trở thành kẻ mạnh, trở thành người thành công.” Sống trên đất Mỹ Mấy năm qua cứ ngỡ như cái chớp mắt của thời gian, tác giả không ngừng phấn đấu, không ngừng hoàn thiện bản thân cho đến cuối cùng cũng đặt chân lên được mảnh đất thoả niềm khát khao cháy bỏng của mình. Ở đây cô trải qua nhiều cuộc thi khác nhau và gặp nhiều rắc rồi trong vấn đề hoà nhập với cộng đồng ngôn ngữ nhưng cô vẫn cứ vui vẻ mà đón nhận và tiếp tục trau dồi con đường học vấn của mình… Kết Đích đến của Vương Quyên là nước Mỹ - xứ sở cờ hoa xinh đẹp muôn đời và đích đến của tôi là được hoà mình dưới ánh nắng của bầu trời Châu Âu hoa lệ. Thế còn bạn thì sao? Những bãi biển đầy nắng gió của vùng ven biển Sydney, những cánh rừng bạt ngàn nối đuôi nhau không ngừng nghỉ cạnh dòng sông Amazon hùng vĩ hay cái nắng gió khô hanh và với vô số các loài sinh vật hoang dã ở Nam Phi,… những nơi đó đang chờ bạn. Tôi xin lập lại một lần nữa lời của tác giả “Cho dù bạn từ đâu tới, cho dù bạn bình thường như thế nào đi nữa, thì với ước mơ, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Cho dù bạn cảm thấy bản thân mình nhỏ bé nhường nào, bạn vẫn có quyền theo đuổi ước mơ cao quý.” Cuốn sách đáng đọc dành cho những ai có ý định du học hoặc không nhưng là người có ước mơ còn dang dỡ chưa thực hiện được, những người đang thiếu quyết tâm và ý chí, luôn nghĩ bản thân kém cỏi hoặc quá đỗi bình thường. Tôi không chắc là cuốn sách sẽ thay đổi hoàn toàn được bạn nhưng tôi chắc chắn rằng nó sẽ để lại cho bạn một cách nhìn khác so với bạn trước đây. Cuốn sách không hẳn là thay đổi được cuộc đời nhiều người nhưng ít nhất nó đã làm thay đổi được một người - đó là tôi. Hãy đọc đi, cảm nhận và suy nghĩ - những ước mơ dỡ dang còn đang chờ bạn viết tiếp. “Tuổi trẻ không sợ thất bại, ngã rồi lại phủi bụi đứng lên. Kì thực, thất bại không đáng sợ, vấp ngã không đáng sợ, nhụt chí không đáng sợ, hèn nhát không đáng sợ, lười biếng không đáng sợ, lạc đường không đáng sợ! Điều đáng sợ nhất là bạn đánh mất trái tim theo đuổi ước mơ…”   Tác giả: Bảo Trâm - Bookademy Mời các bạn đón đọc Săn Học Bổng của tác giả Vương Quyên.
27 Bài Học Về Tinh Thần Lạc Quan
Dành tặng những bạn nhỏ muốn trở thành thiên tài Ở trường, cho dù là trong lúc nghe giảng, thi cử, làm bài tập hay quan hệ với bạn bè… lúc nào bạn cũng có thể gặp những chuyện không vui. Nhưng bạn đừng buồn, bởi vì ai cũng có thể gặp phải vấn đề tương tự như thế! Hãy "đương đầu" với khó khăn bằng tâm trạng lạc quan, vui vẻ, đừng vì buồn bã mà không muốn đi học nữa, bạn nhé! Dành tặng những bậc phụ huynh muốn con mình trở thành thiên tài Những cô bé, cậu bé đang trong độ tuổi đến trường thường gặp rất nhiều chuyện không vui khiến chúng cảm thấy buồn bã, chán nản, thậm chí còn ghét phải đi học. Bố mẹ nên chủ động quan tâm đến con cái, để chúng luôn giữ được tâm trạng vui vẻ, hướng dẫn chúng đối diện vấn đề với thái độ lạc quan, tích cực. Cuốn sách này cung cấp rất nhiều trò chơi tương tác liên quan tới “lạc quan”, giúp trẻ cảm nhận được niềm vui trong học tập cũng như trong cuộc sống, đồng thời cũng nắm bắt được nhiều cơ hội thành công. *** Để trưởng thành không còn phiền não “Tại sao các bạn lại không chơi với mình?”, “Mình có phải là đứa trẻ rất tệ không?”, “Mình thực sự, thực sự rất ghét cậu ấy!”… Trời ơi! Bao nhiêu là vấn đề! Làm trẻ con thật là khổ! Mình chỉ mong lớn nhanh thôi! Đừng lo lắng! Trốn tránh vấn đề không phải là biện pháp giải quyết tốt nhất. Trên con đường trưởng thành chúng ta chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, sẽ có lúc cảm thấy bực dọc, buồn bã, lo lắng… Khi giở cuốn sách này, chúng ta sẽ phát hiện thấy đôi khi mình rất giống với sự nghịch ngợm của Đức Long, có lúc lại nhỏ nhen như Hà Huy Tùng, rồi lại là một cô bé hay làm nũng mẹ ở nhà như Thanh Giang… Nhưng chúng ta đừng thỏa hiệp, bởi chúng ta hoàn toàn không cô đơn, những bạn cùng độ tuổi với chúng ta cũng gặp phải những vấn đề khó khăn tương tự. Thế nên đừng buồn nhé! Chúng ta không phải những đứa trẻ hư, tất cả những điều chúng ta tưởng chừng là tồi tệ đều không có gì to tát cả, chúng ta sẽ học được rất nhiều kinh nghiệm và bài học từ trong mỗi câu chuyện, điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho sự trưởng thành sau này. Vậy, hãy cùng thưởng thức những câu chuyện thú vị trong cuốn sách này nhé! Sự trải nghiệm cùng nhân vật chính có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn những khó khăn trong cuộc sống, từ đó giúp chúng ta rèn luyện và trưởng thành lành mạnh! Mời các bạn đón đọc 27 Bài Học Về Tinh Thần Lạc Quan của tác giả Kiếm Lăng.