Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đánh Cắp Khát Khao Em

Gabrielle Brooks biết rằng tìm được một người chồng hoàn hảo là việc không dễ dàng. Thậm chí với sự thật rằng cha nàng đã nhờ tới sự giúp đỡ của người đàn ông đầy ảnh hưởng - James Malory, người mà - cùng với vợ mình Georgina, sẽ bảo trợ cho nàng trong lần đầu ra mắt, vào lúc mùa vũ hội đã trôi qua được nửa đường rồi, nhưng hầu như những người đàn ông thích hợp đã bị “săn bắt” bởi những quý cô có ý định kết hôn khác. Và nếu mọi người biết rằng Gabrielle là con gái của một tên cướp biển, nàng có thể sẽ phải ngay lập tức đóng gói đồ đạc và trở về nhà mà vẫn là một bà cô không chồng. Mặc kệ những trở ngại đó, Gabrielle đã tìm được một người đàn ông có tiềm năng: thuyền trưởng người Mỹ Drew Anderson. Nhưng Drew lại không có quan điểm rõ ràng việc kết hôn và cả những tên cướp biển. Khi Gabrielle bất ngờ phải quay lại Caribbean, nàng quyết định chứng minh chính xác mình có bao nhiêu phần cướp biển bằng cách ăn trộm thuyền của Drew và bắt giữ anh. Lindsey đã thêm một ít những pha hành động kịch tính và phiêu lưu vào cuộc bắt cóc mới nhất này, cùng với sự hài hước dí dỏm nhưng cũng thật quyến rũ gợi cảm – đặc trưng của Malory series… *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Nàng đã được dặn là phải trốn, và trốn kỹ như thế. Đó cũng là suy nghĩ đầu tiên của Gabrielle Brooks ngay sau khi tiếng ồn đã kéo nàng lên boong tàu. Dù vậy, không phải thuyền trưởng là người đã đưa ra lệnh đó với nàng. Anh ta không có gì ngoại trừ sự ngạo mạn cái mà làm anh có thể mất đang trong chuyến hành trình thuận buồm xuôi gió. Anh thậm chí còn cười vào việc đó và dứ dứ nắm đấm vào cờ Jolly Roger bay trên cột buồm chính của con tàu đang tấn công (Jolly Roger – là thuật ngữ hay tên dành cho cờ của cướp biển), điều mà có thể trông thấy rõ ràng bây giờ bằng mắt thường. Sự nồng nhiệt của anh ta – mà nàng dám nói là sự vui sướng chăng? – chắc chắn giúp cho tâm trí nàng dịu bớt. Cho đến khi vị thuyền phó boong kéo nàng sang một bên và bảo nàng trốn đi. Không giống như thuyền trưởng, Avery Dobs dường như không háo hức cho lắm với cuộc chạm trán sắp tới. Da anh trắng bệch như những cánh buồm phụ đang được cuốn lên nhanh chóng bởi toàn bộ thủy thủ trên tàu, anh cũng chẳng nhẹ nhàng khi xô nàng về phía những bậc thang.  “Sử dụng những chiếc thùng rỗng đựng thức ăn trong khoang. Có rất nhiều ở đó. Với bất kỳ may mắn nào, bọn cướp biển sẽ không mở nhiều hơn một hay hai, và thấy chúng trống không, chúng sẽ rời đi nhanh chóng. Tôi đã báo cho người hầu của cô trốn đi ngay rồi. Bây giờ đi đi! Và dù cô nghe thấy bất cứ điều gì thì cũng không được rời khỏi khoang tàu cho đến khi người nào cô quen giọng đến chỗ cô”. Anh không nói gì cho đến khi anh đến chỗ nàng. Sự hoảng sợ của anh đang lan dần nhưng sự thô lỗ của anh mới đáng ngạc nhiên. Cánh tay nàng hầu như chắc chắn bị thâm nơi mà anh đã nắm chặt. Đó quả thật là sự thay đổi từ cách đối xử lịch sự của anh với nàng kể từ khi cuộc hành trình bắt đầu. Anh gần như đã tán tỉnh nàng, hay trông có vẻ như thế, dù cho nó không phải vậy. Anh mới đầu 30 tuổi, còn nàng thì mới rời trường học. Đó chỉ là cách cư xử tôn trọng, giọng nói lịch sự của anh, và sự chú ý quá mức mà anh dành cho nàng trong suốt 3 tuần kể từ khi họ rời London, điều đó đã gây ấn tượng vời nàng rằng anh thích nàng nhiều hơn những gì anh nên. Anh đã truyền sự sợ hãi của mình tới nàng, mặc dù, nàng vẫn chạy hướng về phía lòng thuyền. Thật dễ dàng tìm được những chiếc thùng đựng thức ăn mà Avery đã bảo, gần như tất cả đã rỗng, khi giờ đây, họ đã gần đến điểm dừng chân ở Caribbean. Thêm vài ngày nữa, và họ sẽ đến cảng của St. George ởGrenada, chỗ ở cuối cùng của cha nàng mà người ta biết, và nàng có thể bắt đầu tìm kiếm ông. Nathan Brooks không phải là người đàn ông mà nàng biết rõ, mặc dù tất cả những ký ức của nàng về ông quá đỗi đẹp đẽ, nhưng giờ đây ông là tất cả những gì mà nàng có kể từ khi mẹ nàng mất. Trong khi nàng chưa từng một lần nghi ngờ rằng ông yêu bà, ông không bao giờ ở lại gia đình với nàng trong thời gian dài. Một tháng, có thể là vài tháng, và, một năm, ông đã ở lại toàn bộ mùa hè, nhưng sau đó vài năm trôi qua mà ông không trở về thăm. Nathan là thuyền trưởng của chiếc tàu buôn của chính ông với nhiều lợi nhuận buôn bán trên các tuyến đường vùng Tây Ấn. Ông gửi tiền cùng những món quà xa xỉ về nhưng lại hiếm khi tự mình về nhà.  Ông đã cố gắng dời gia đình đến gần nơi ông làm việc, nhưng Carla, mẹ của Gabrielle, thậm chí không thèm cân nhắc đến nó. Nước Anh đã trở thành quê hương của bà trong suốt cuộc đời. Gia đình bà không ở đó, nhưng tất cả những người bạn của bà cũng như những thứ mà bà quý trọng thì có, và bà cũng sẽ không bao giờ tán thành những chuyến đi biển của Nathan với bất cứ giá nào. Buôn bán. Bà luôn nói từ đó với vẻ ghê tởm. Bà đã có đủ dòng máu quý tộc từ tổ tiên mình, thậm chí khi bà buồn chán vì bản thân bà không mang tước hiệu gì, thì bà vẫn coi thường bất kỳ thương nhân nào, thậm chí cả chồng mình. Thật đáng kinh ngạc khi họ đã kết hôn. Họ hoàn toàn trông chẳng thích gì người kia khi họ ở gần nhau. Và Gabrielle sẽ không đời nào đề cập đến chuyện vắng mặt lâu dài của ông đã làm cho Carla… Thôi được, nàng thậm chí không thể để bản thân mình nghĩ đến từ đó chứ đừng nói tới chuyện thốt ra nó. Nàng quá xấu hổ bởi kết luận của mình. Nhưng Albert Swift đã từng là một vị khách thường xuyên ở căn nhà riêng hai tầng vùng ngoại ô của họ ở Brighton trong vài năm trước, và Carla đã cư xử như một cô nữ sinh trẻ tuổi bất cứ khi nào ông ta ở trong thị trấn. Khi ông ta không còn đến nữa và họ nghe người ta đồn rằng ông ta đang ve vãn một nữ thừa kế ở London, mẹ của Gabrielle đã trải qua một sự thay đổi đáng kể. Chỉ qua một đêm, bà biến thành một người đàn bà đau khổ ghét cả thế giới và những thứ trong nó, và khóc vì một người đàn ông thậm chí chưa từng là của bà. Liệu ông ta đã khiến cho Carla hứa hẹn những gì, hay Carla có định li dị chồng hay không, không ai biết, nhưng trái tim bà như đã tan vỡ khi Albert chuyển sự quan tâm của mình sang một người đàn bà khác. Bà đã có đủ tất cả những biểu hiện của một người phụ nữ bị phản bội. Khi bà bị ốm vào đầu mùa xuân và tình trạng xấu hơn, bà chẳng nỗ lực chút nào để vượt qua nó, lờ đi lời khuyên của bác sỹ và chẳng ăn uống gì mấy. Bản thân Gabrielle rất đau lòng. khi nàng phải nhìn thấy sự suy sụp của mẹ. Nàng có thể không tán thành sự ám ảnh của mẹ với Albert, hay là sự miễn cưỡng trong việc cố gắng duy trì cuộc hôn nhân của bà, nhưng nàng vẫn yêu quý mẹ mình sâu sắc và làm tất cả mọi thứ mà nàng nghĩ ra để vực tinh thần bà dậy. Nàng lấp đầy căn phòng của mẹ với những bông hoa mà nàng đã sục tìm trong khu xóm, đọc cho mẹ nàng nghe, thậm chí khăng khăng bắt người quản gia của họ, Margery, dành ra một lượng thời gian đáng kể trong ngày của bà để thăm mẹ cùng nàng, vì bà là người phụ nữ thích tán gẫu và thường xuyên khá hóm hỉnh trong những lời bình luận của mình. Margery đã ở với họ vài năm vào thời điểm đó. Bà khoảng trung niên với mái tóc màu đỏ sáng, cặp mắt xanh đầy sức sống, có đầy tàn nhang, bà ta cứng đầu, thẳng thắn và trên tất cả là bà không bị dọa nạt bởi bất kỳ người quý tộc nào. Nhưng bà cũng là một người phụ nữ biết quan tâm săn sóc, và coi gia đình Brooks như thể họ là gia đình của bà. Gabrielle nghĩ rằng nàng đã dồn hết mọi nỗ lực của mình vào làm những việc giúp ý chí sống của mẹ nàng quay lại. Mẹ nàng đã ăn trở lại và ngừng việc đề cập đến Albert. Vì vậy Gabrielle đã bị suy sụp khi mẹ nàng ra đi vào lúc nửa đêm. “Chết vì buồn bã” là kết luận cá nhân của nàng, bởi vì mẹ nàng đang phục hồi lại sức khỏe sau trận ốm, nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ đề cập điều đó với cha. Nhưng cái chết của mẹ đã làm cho Gabrielle cảm thấy hoàn toàn cô đơn. Mặc dù nàng được để lại khá nhiều tiền, vì Carla sống khá sung túc nhờ vào khoản thừa kế của gia đình, Gabrielle lại chẳng được động vào số tiền đó cho đến khi nàng trưởng thành lúc 21 tuổi, đó quả là một thời gian dài. Cha nàng vẫn gửi tiền đều đặn, và vẫn còn một khoản tiền tiết kiệm có thể trang trải trong một khoảng thời gian, nhưng nàng chỉ vừa mới 18 tuổi. Nàng cũng bị thay đổi người giám hộ tài sản. Cố vấn pháp luật của Carla, William Bates, đã đề cập đến điều đó lúc đọc chúc thư. Chìm trong đau khổ, nàng thậm chí chẳng để tâm đến, nhưng khi biết được cái tên đó, nàng đã bị khiếp sợ. Gã đó là một kẻ tán gái và ai cũng biết chuyện đó. Những tin đồn kể rằng hắn đã tán tỉnh tất cả những cô hầu gái dưới mái nhà hắn, và thậm chí hắn còn véo mông Gabrielle một lần tại một bữa tiệc vườn, khi nàng chỉ mới mười lăm tuổi! Người giám hộ tài sản, đặc biệt là hắn sẽ chẳng phải làm gì đặc biệt cả. Cha nàng vẫn còn sống. Nàng chỉ là cần phải tìm ra ông, vì vậy nàng lên đường để thực hiện điều đó. Nàng đã chế ngự được một chút sợ hãi ban đầu việc ngồi trên tàu đi nửa vòng trái đất bỏ lại đằng sau mọi thứ nàng đã từng thân thuộc. Nàng gần như đã đổi ý hai lần. Nhưng cuối cùng, nàng cảm thấy chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Và ít nhất thì Margery đã đồng ý đi cùng với nàng. Cuộc hành trình đã trôi qua rất suôn sẻ. Không ai thắc mắc gì về chuyến đi của nàng chỉ với người hầu. Nàng ở dưới sự bảo vệ của thuyền trưởng, sau tất cả, ít nhất là trong khoảng thời gian này, và ngụ ý nàng rằng cha nàng sẽ gặp nàng sau khi tàu cập bến chỉ là một lời nói dối nhỏ để né tránh bất kỳ sự quan tâm nào trong lúc này. Bây giờ, nghĩ về cha nàng và việc tìm kiếm ông giữ cho nàng bình tĩnh được một lúc. Chân tay nàng tê cóng, cuộn tròn trong chiếc thùng như bây giờ nàng đang làm. Nàng không gặp bất cứ rắc rối nào để đưa toàn bộ cơ thể mình vào trong chiếc thùng này. Nàng không phải người phụ nữ to lớn, cao khoảng năm foot 4 inches(1m62), và có một thân hình mảnh dẻ. Một mảng gỗ vụn đâm vào lưng nàng, mặc dù, khi nàng lục đục chui vào chiếc thùng chỉ trước khi đậy lại nắp lên trên nó, và chẳng có cách nào để với tới nó thậm chí cả khi nàng có đủ chỗ để thử.   Mời các bạn đón đọc Đánh Cắp Khát Khao Em của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hạnh Phúc Trong Năm Lời Nói Dối
“Cứ để thời gian ăn mòn những nỗi oán hận, thế thì dễ dàng hơn. Chính xác như những nụ hôn bị đánh cắp một cách ngớ ngẩn, hãy để chúng chìm vào lãng quên trong nhà kho của sự dối trá. Chủ nghĩa phủ nhận muôn năm. Rồi để xem. Ta chẳng bao giờ dám yên trí nữa. Và nếu như tấm gương phản chiếu lại hình ảnh hơi mờ ảo của người mà ta muốn trở thành. Sau tất cả, ai mà chẳng có khiếm khuyết?”. ------------------- Bạn đã bao giờ nói dối chưa? Với người xa lạ, bạn bè, người yêu, gia đình,…? Về những điều nhỏ nhặt như “Không, em không giận, em vẫn ổn” cho đến những chuyện to tát như “Tôi lỡ có thai và tôi không muốn giữ đứa bé”…? Những lời nói dối luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, thậm chí trở thành một phần không thể thiếu. Chúng ta nói dối khi sự lừa dối có lợi hơn sự thật. Nhưng liệu cuộc sống được xây dựng trên sự dối trá đó có khiến chúng ta thấy thoải mái và bình yên trong lòng? “Hạnh phúc trong năm lời nói dối” là câu chuyện xoay quanh Chloe Avanel - một cô gái bình thường, có những mối quan hệ bình thường và cần thiết như bao người khác, sống trong một gia đình với người mẹ đã mất và một vài trục trặc nho nhỏ. Mọi thứ được thông qua đôi mắt của cô, từ góc độ của cái tôi nhân vật nhìn ra ngoài cuộc sống và chứng kiến những lời nói dối. Nó khiến cô luôn tự hỏi liệu có thể nào dừng trò chơi lừa bịp này và sống không giả dối dù chỉ một lần không? Cuộc sống của Chloe, chuyện tình yêu của Chloe và Benjamin, mối quan hệ với người chị gái Joséphine và những mâu thuẫn trong gia đình Chloe, tất cả những lời nói dối dần được vô tình phát hiện hoặc hiển hiện và phơi bày rõ ràng. Đến cuối cùng, sau rất nhiều năm trôi qua, Chloe nhận ra rằng: đừng bao giờ tin vào vẻ bề ngoài; hãy tập trung vào thứ gì xứng đáng, tiến lên và nắm lấy nó. Bầu trời khi ấy dù đen tối đến đâu cũng sẽ trở nên bừng sáng một màu trong xanh. *** Không, tôi không muốn. Hoàn toàn không muốn về ra mắt bố mẹ Benjamin trong một hồi trống dồn dập theo kiểu “Tôi là Chloé, hôn thê của con trai cả nhà các vị”. Mặt khác, anh cũng có vẻ không vội để tôi xuất đầu lộ diện như một con thú trong hội chợ ở phòng khách kiểu cách của bố mẹ anh, những người hết sức đứng đắn. Với một nụ cười méo mó, trong cái váy xếp li và lời lẽ lúng túng. Thật quá sức chịu đựng. Tuy nhiên, cuối cùng thì, Benjamin, còn gọi là Benji, đã quen đến ăn tối ở nhà tôi, với những gì còn lại (ý tôi là gia đình, không phải những bữa tối nhé), vì tôi đang sống với chị Joséphine, Édouard - người yêu của chị và em trai tôi Gaspard. Mẹ tôi mất năm tôi mười lăm tuổi và đã năm năm nay bố tôi sống trên một hòn đảo hẻo lánh ngoài khơi Polynésie thế nên chị em tôi sống với nhau, vui vẻ trong tình thương ruột thịt. Một khay bò băm phủ khoai tây nghiền còn nghi ngút khói vừa được đặt lên bàn ngay khi Joséphine ngây ngô hỏi: - Thế bao giờ em ra mắt ông bà Largevent? Một tia hốt hoảng vụt qua mắt Benjamin mà tôi không muốn tố cáo nó. Anh có xấu hổ về tôi không? Lòng tự ái của tôi bị động chạm, nhưng thái độ của anh trấn an tôi. Tôi luôn nhớ kỷ niệm về lần duy nhất tôi thấy bố mẹ anh. Đó là khi họ đi du thuyền trong khi tôi là người chia bài ở sòng bạc trên tàu. Khi trở về, tôi chẳng liên lạc gì với họ. Cũng không cả trong cái lần đáng nhớ khi Benji làm mất chiếc ô tô của họ. Vậy là mọi chuyện đã rõ ràng, cần phải có một buổi ra mắt, tôi sẽ bắt buộc phải có mặt, nhưng nếu có cách nào để tránh nó thì tôi muốn vô cùng. Thật ra, tôi tự hỏi tại sao Benjamin không thấy xấu hổ về bố mẹ anh. Anh chưa bao giờ chỉ trích họ một cách công khai, nhưng kỳ thật tôi biết những mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái chẳng bao giờ dễ dàng cả. Chẳng hạn, anh phải báo trước nếu không ăn ở nhà ngày hôm sau. Đó là một dấu hiệu đấy, tôi nghĩ thế. Và cái giọng điệu mà anh dùng để nói chuyện với bố mẹ, nó y như cách anh đối thoại với khách hàng vậy. À đúng rồi, tôi quên kể rằng Benji là một công chứng viên. Nghe cũng không hay ho lắm, nhưng cái nghề này khiến anh hài lòng và giúp anh lấp đầy tài khoản ngân hàng. Chỉ có một điều gây bực bội: đồng nghiệp của anh là một cô nàng gốc Mỹ tên Jessica Dupont, một quả bom tóc vàng với bộ ngực 95C. Cô ta có bộ răng trắng bóc, đều tăm tắp (cảm ơn ngành nha khoa)1* và một giọng nói ngọt ngào có thể làm tan chảy bất cứ nhiễm sắc thể Y nào. Những tiếng giày cao gót lịch thiệp vang lên trên nền đá cẩm thạch, và mùi Chanel số 5 vấn vương mỗi khi cô ta đi qua. Tôi chẳng thù ghét gì cô nàng ngoài việc khiến Benjamin luôn phải liếc theo hình bóng ấy. *Nguyên văn chirurgie = phẫu thuật, hiểu là chirurgie dentaire.. Mặc cho những điều phiền lòng này, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy tuyệt tới vậy với một người khác giới. Ừm, kinh nghiệm của tôi cũng chỉ giới hạn với một người yêu cũ thôi, nhưng vậy cũng đủ để tôi thấy rằng Benji hội tụ rất nhiều ưu điểm. Đầu tiên là anh không hẹn hò ở quán cà phê, bị bám dính bởi lũ bạn bè bợm nhậu. Tiếp theo là anh không thao thao bất tuyệt về đám bạn gái cũ, mấy cô với những số đo như người mẫu, ngực bự và tóc bạch kim. Tóc tôi màu nâu, mũi tôi hơi dài và thân hình có chút mập mạp (dù chẳng nghi ngờ gì là tôi cũng rất thu hút). Một điều đáng quý nữa: Benjamin không quá kiệm lời trên điện thoại. Chỉ là hôm nay, tôi đã nhận được hai tin nhắn, đều rất nhẹ nhàng, dịu dàng và ân cần, vậy đó. Anh nói rằng anh yêu tôi. Điều đó làm tôi dễ chịu. Bởi vì PAF (tôi đang nói về người yêu đầu tiên, Pierre Antoine Fabrège, anh trai của Marjolaine bạn tôi) là một người hay quên. Có cả ngàn điều để làm trong một giây, tôi đã tự đặt tên cho mình là “Đồ vô dụng”2*. Điều này vô cùng ám ảnh tâm trí bạn. Tôi không biết bạn thế nào, chứ với tôi, tâm trạng tôi chỉ càng vững thêm theo số lượng tiếng bíp trên điện thoại. *Nguyên văn “bánh thứ năm của xe ngựa”, ý chỉ người vô dụng thừa thãi.. Và tôi không nói về lý do tại sao chúng tôi chia tay, đó là điều mà tôi muốn bọc trong một cái vỏ đủ dày, khóa lại trong một chiếc hộp thật kín, bỏ vào thùng các-tông dán chặt một cách tỉ mỉ, tất cả được đặt trên gác xép, dưới một lớp bụi. Tóm lại, đừng nhắc thêm về điều đó, tôi đã quên rồi. Hoặc giả là như thế. Chi tiết cuối cùng: tôi yêu cái cách Benji yêu những phẩm chất của tôi. Bởi vì việc anh xoay xở để tìm được những điều đó trong tôi cũng chẳng dễ dàng gì. Và cũng bởi vì anh giúp tôi nhận thức được chúng. Anh thích tính hài hước của tôi, anh thích nụ cười của tôi, anh thích tiếng cười, năng lượng nơi tôi, làn da của tôi (thích lắm đấy, anh nói với tôi thế), lọn tóc nổi loạn cố vượt ra khỏi mái đầu bất trị, và tôi đã bỏ qua chúng, với đầy hối tiếc. Tóm lại, chúng tôi yêu nhau. Chúng tôi thường ăn trưa với nhau, anh cũng ăn tối thường xuyên ở nhà tôi, và sau đó lại trở về nhà để không gây ra ồn ào gì. Bởi vì anh còn ở với bố mẹ và chưa có một buổi giới thiệu chính thức nào. Vậy đó. Điều khập khiễng duy nhất trong cuộc sống thú vị này, đó là: tôi chẳng làm gì khác cả. Không học hành, không nghề nghiệp, không thất nghiệp, chẳng gì cả. Người ta có thể tin rằng đó là một hoàn cảnh lý tưởng, nhưng không. Tôi mười chín tuổi và muốn thay đổi, không muốn loanh quanh trong phòng để huyễn hoặc bản thân rằng tôi rất tuyệt vời, trước tiên là để thuyết phục chính mình. Tôi cho rằng vấn đề sẽ được giải quyết ngay năm học tới, nhưng những ngày trôi qua như một miếng bọt biển: uể oải và vô ích. Nói một cách chính thức, tôi đang trong thời gian tìm kiếm. Nghĩa là: tôi nhìn mình mà chẳng nói năng gì và chỉ lặp đi lặp lại: “Mày muốn làm gì với cuộc đời mày hả Chloé thân mến?” - nhưng mọi chuyện cũng chẳng khá hơn. Cái vòng luẩn quẩn này cứ như thế kể từ khi tôi không còn làm tài hề nữa (cho những ai không biết, tài hề là người phụ trách các trò chơi trong sòng bạc). Chị em tôi thêm nặng gánh. Tôi biết cần phải tìm thấy lối đi cho riêng mình. Giờ đây, tôi có cảm giác trước mặt là một đường hầm dày đặc, vô định, đen tối và dính dấp. Những ngày tâm trạng tốt thì tôi rất có lòng tin, nhưng những ngày khác, tôi như chìm trong cảnh khốn cùng. Làm việc trong một chuỗi hàng ăn nhanh, như là cái cửa hàng với chữ M lớn khoanh tròn trên lưng3* ư? Ừ, có thể. Bắt đầu học lại theo hệ từ xa ư? Cái đó, thực sự, giờ không phải là thời điểm tốt. Tìm một công việc bất kỳ nào khác để cho phép mình dịu đi lũ sói đang gào thét trong lòng ư? Hừm. *Ý chỉ McDonald’s.. Vậy là, không, chẳng có một buổi ra mắt chính thức nào, đề tài này đã khép lại. Chọn một chủ đề khác để nói chuyện, làm ơn đi. - Em biết là em đang làm trái luật đấy, Benjamin nói khi chúng tôi đi lên phòng tôi, sau khi đã ních đầy bụng món bò băm phủ khoai tây nghiền. Em đang hưởng tiền bảo hiểm từ cái chết của mẹ em, khi mà thường thì vì em đã dừng việc học, đáng ra em không nhận được số tiền đó nữa. - Ôi, thôi nào! Em đã đăng ký vào tháng Chín năm ngoái, em đã trả tiền học, nên năm nay chả có gì mà lo cả. Giờ là cuối tháng Tư, tức là năm học cũng sắp hết rồi. Mùa thu tới, để xem. Em sẽ lại trở thành sinh viên thôi, nào. Một cái nhếch mép phiền lòng lướt qua khuôn mặt Benji. Với anh, đó không phải là một cái “nào” chấp nhận được. - Chỉ là… Anh biết những điều này và anh không muốn đảm bảo cho mấy cái việc làm trái với… - Em xin ngắt lời anh ngay lập tức nhé. Em biết anh là công chứng viên và đã tuyên thệ trung thực. Anh đã cảnh báo cho em rồi, và đừng lo, anh sẽ không bị gạch tên khỏi danh sách đâu. Với cả, năm học này, cũng không hẳn là gian lận tiền bảo hiểm, vì em đã đăng ký học tới tháng Sáu rồi. Tuy nhiên, Benjamin chẳng có vẻ gì là tự hào. Gương mặt anh xám xịt, vẻ cương trực như bị bóp méo. Không tự hào, cũng chẳng hạnh phúc. - Được rồi, sự chu đáo của anh được ghi nhận. Em đã ngán phải bắt anh giữ bí mật chuyện này rồi. Một cái nhún vai. Bởi vì anh không thích điều đó, thế thì chọn một chủ đề mới vậy (cái thứ ba). Ờm, nói về… - Anh có thấy lúc này có vẻ lạnh không? Benjamin phá ra cười và đáp: - À, thế thì anh có giải pháp ngay đây: nép vào anh, anh biết làm thế nào để sưởi ấm cho em… Anh bao lấy tôi trong vòng tay và xoa người tôi như thể chúng tôi đang ở dưới một cơn bão tuyết. Benji, tôi yêu tiếng cười và tính tình anh. Làn da màu cà phê sữa của anh và những cử chỉ nhẹ nhàng nữa. - Anh không muốn ở lại đây đêm nay, dù chỉ một lần à? - Không, tốt hơn là anh nên về... Còn em, hãy suy nghĩ về cách làm cho bản thân trở nên bận rộn hơn trong những ngày này đi nhé. Trở nên bận rộn hơn, trở nên bận rộn hơn… Như thể lý do chính là để không gian lận tiền bảo hiểm! Tôi lắc đầu, với một chút buồn phiền. Và Benjamin ra về sau một tiếng thở dài. Bí mật đầu tiên, lời nói dối đầu tiên. Chẳng hề vẻ vang gì, với bất kỳ ai. ♥♥♥ Trong đêm, cả đống suy nghĩ quay cuồng trong đầu tôi, giương ra những hình ảnh kỳ quái. Vấn đề đầu tiên của tôi, đó là tôi chẳng biết phải làm gì với bản thân, với một quả cầu thủy tinh trên tay, tôi tự ngắm mình thật lâu. Nhìn đi, ai là mày, Chloé, mày đang giấu diếm điều gì trong tâm trí? Tôi thấy mình là một cô gái trẻ hấp dẫn và đầy năng lượng - nhưng giờ đây trống rỗng vô nghĩa. Bíp bíp, cần được giúp đỡ để biết cô ấy đã đi đâu. Benjamin cuốn đi những nghĩ suy trong tôi và tập trung vào một chi tiết nhỏ bé nhất, rằng bất kể điều này có làm tôi vui hay không, anh vẫn muốn tôi trở lại làm sinh viên, muốn ngăn tôi tự biến mình thành kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Tôi có muốn hẹn hò với người luôn kiên quyết với loại tội lỗi nhỏ nhặt này, như thể chúng vốn rất cơ bản? Câu trả lời là có. Tôi thích một người quá đỗi trung thực hơn là một kẻ lừa đảo, cơ hội, khôn vặt. Ngay cả khi tính thẳng thắn đôi khi thật nhàm chán. Bất kể ra sao. Ta tin rằng bóng đêm của những người chẳng làm gì trong ngày sẽ yên lặng và thanh tĩnh lắm. Chẳng có gì cả. Kẻ ăn không ngồi rồi cứ lặp đi lặp lại, suy nghĩ một cách đau khổ về mục đích cuộc đời mình, đả kích, tự nhận ra đó là một thứ ngáng chân, một cái dằm nặng nề đối với mọi người xung quanh. Thay vì đi tàu điện, tôi đi bộ. Trên bến Garonne, tôi nhận ra những thay đổi nhỏ nhất, những người quen mặt đã gần như trở thành bạn bè. Có những bà mẹ đang đẩy xe em bé, những người chạy bộ giẫm lên mặt đường rải nhựa những bước vững chắc, những kẻ nhàn rỗi, như tôi. Và lũ trẻ, vào lúc tan trường. Nhưng họ không nhầm đâu: từng chút một, tôi trở thành một quả bóng trong trạng thái bị kích thích. Khi còn làm tài hề trên tàu, tôi thấy thật dễ ngủ, chắc là tôi cần nghỉ ngơi (và la hét với đám cùng phòng, tín đồ của tivi buổi đêm bằng tiếng Indonesia ở âm lượng ít nhất tám mươi đề-xi-ben). Khi đang lo lắng, tôi cứ lần chần tránh né và kiên trì giữ lấy những ý định vốn rất tốn thời gian. Những ý định của đêm nay thật là đa dạng: a) Benji, tôi đã có anh rồi, tôi sẽ giữ lấy anh. b) Tôi sẽ tìm một công việc trong lúc đợi năm học tới, và tại sao không trở lại du thuyền để đếm thẻ bài nhỉ? c) Từ nay, tôi sẽ dậy cùng lúc với những người khác, bởi vì nó chả có lý gì cả. Tôi là một người năng động, và tôi sẽ chứng tỏ điều đó. Có câu châm ngôn gì ấy nhỉ? “Hạnh phúc thuộc về kẻ dậy sớm”, hoặc cái gì đại loại thế. Thế nên, ngay sáng mai, báo thức sẽ kêu lúc bảy giờ. Trừ khi những nghĩ suy trằn trọc lúc nửa đêm này làm tôi kiệt sức. Và tôi hiểu, trong màn sương mờ mịt, rằng không phải hạnh phúc, mà là thế giới thuộc về những kẻ dậy sớm. Và thế gian này có thể đợi tới khi tôi có một tinh thần tươi sáng. Điều này giải thích cho việc tôi cáu kỉnh tắt báo thức. Và rồi ngủ lại ngon lành. Tiếng bíp từ tin nhắn điện thoại đánh thức tôi dậy một giờ sau đó. Là Benjamin. Anh phải đi công tác gấp ở tỉnh, sẽ vắng mặt tới ngày mai. Tốt thôi. Nếu chuyến đi này không phải với Jessica Dupont, quả bom của văn phòng công chứng, thì tôi có thể tiếp tục ngủ. Rốt cuộc tôi cũng thức dậy, ý thức được những trách nhiệm mới mà mình đã tự đặt ra đêm qua và rồi bị gặm nhấm bởi cảm giác tội lỗi. Đó là lý do mà tôi đang lướt Internet, tìm kiếm một công việc trong mơ. Những người chưa bao giờ thử thì không biết điều này, nhưng không phải dễ dàng để tìm thấy một công việc thú vị, trả lương khá và kích thích trí thông minh. Nói đúng hơn, đó là nhiệm vụ bất khả thi. Hoặc nếu thông báo nhấp nháy trên màn hình, với một đề nghị hấp dẫn kiểu “Kiếm thật nhiều tiền mà không cần di chuyển”, thì tức là nó đang che giấu một điều gì đó không rõ ràng, thì không, cảm ơn. Ngoài một công việc dạng như khiêu dâm qua điện thoại, chẳng có gì để xem cả. Đó sẽ là một phương án, và trong một khoảnh khắc, tôi thấy mình, khóa kín trong phòng, trả lời những gã đàn ông bệnh hoạn chỉ có một khao khát duy nhất: nghe những tiếng rên rỉ lừ đừ... Và tôi tưởng tượng ra hình ảnh của Benjamin khi tôi thông báo với anh, đầy hoan hỉ, rằng cuối cùng thì tôi cũng có được công việc trong mơ rồi... Không, dù thế nào thì, nó yêu cầu tài năng mà tôi không có. Lúc ấy, một lần nữa, tôi oải nhàn4* trong căn nhà. Cần có một sức mạnh chắc chắn nào đó, kiểu như để có thể vượt qua ngày dài không quá chán nản mà cũng không cảm thấy tội lỗi. Rõ ràng là tôi không có sức mạnh đó. Sự tội lỗi đã thắng thế, đến nỗi tôi phải giặt giũ quần áo không chút chậm trễ, lấp đầy tủ lạnh và thậm chí còn đi nấu ăn, khi mà thường thì đó là việc của Gaspard. Điều này nói lên là tôi đang cảm thấy tệ thế nào. *Oải nhàn: có một tư thế uể oải và nhàn rỗi (Chloé Avanel, Từ điển tiếng Pháp hay dùng, trang 354).. Điều tệ nhất là những người khác cảm thấy đấy là bình thường. Đã đến lúc tôi cần tìm ra một mối bận tâm thực sự. Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Trong Năm Lời Nói Dối của tác giả Pascale Perrier.
Con Nai Trong Rừng
Truyện Con Nai Trong Rừng, chuyện nói về một người còn gái rất ngây thơ, cho dù nguy hiểm ngay trước mặt thì cô cũng không biết và cũng không biết rằng mình sắp bị ăn thịt. Cô lớn lên bởi sự bao bọc của gia đình, được chiều chuộng và có một tuổi thơ rất đẹp. Nhưng chính vì sự bao bọc đó khiến cô không bao giờ trưởng thành và tự lập được. Cho đến một ngày cô được gia đình cho đi dã ngoại cùng với bạn bè và rồi cô đã gặp kẻ xấu. Nhưng lúc đó chính cô cũng không biết rằng mình đang gặp nguy hiểm, cũng may là có bạn bè cứu giúp không thì cô đã bị chúng ăn thịt. *** Các vị khách của Tử tước Đờ Terxio đang trên đường từ Biarit trở về, nơi họ vừa vui chơi lúc chiều. Đoàn xe ngựa của họ đang lăn bánh trên con đường đưa đến lâu đài Uxagio, đi giữa những cánh đồng cỏ mà cảnh chiều tà đẹp êm ả đang lan tỏa xuống. Trên những cánh rừng phân định ranh giới của lãnh địa, mặt trời vừa lặn để lại những tia hồng nhạt và ánh sáng đang tắt dần trải dài trên đồng quê lặng lẽ. Trên các xe, những câu truyện bắt đầu từ lúc khởi hành vẫn đang tiếp tục. Phần nhiều là những câu chuyện mảnh về xã hội phù hoa, nói với thiện ý hoặc không thiện ý. Hôm nay họ nói nhiều nhất về một vấn đề; Hoàng thân Đờ Vitengrat hình như đang để ý đến cô ả Myra Nađôpulô xinh đẹp. "Cô ả đỏm dáng đến điên rồ" như bà Đờ Terxiơ đã nhận xét, không phải không có đôi chút chanh chua.  Ông Đờ Ănglơmơ, nhà ngoại giao hưu trí ngồi trước mặt bà chủ lâu đài lưu ý mọi người - Cô ta có sức mê hoặc ghê gớm. Vả lại, cô ta đã thừa kế đúng người. Bà Bá tước Xêminkhốp đẹp đẽ, mẹ cô ấy vẫn là con người mơn trớn như tôi đã gặp ở Matxcơva mười hai, mười ba năm trước đay, lúc bà ta tái giá.  - Bà ta gốc Hy Lạp phải không?  - Hy Lạp, dân phương Đông, Do Thái? Làm sao mà biết được. Tôi cho rằng trong người bà ta có sự pha trộn các chủng tộc.  - Còn người chồng thứ nhất... Ông có biết người ấy không?  -Không. hình như là một thương gia Hy Lạp giàu có mà người đẹp kia làm cho khánh kiệt trong vài năm. Sau đó, bà ta đã quăng lưới bắt được một dại úy quý tộc Nga góa vợ. Ông này không nguôi nhớ thương người vợ diễm lệ thuộc dòng dõi quý tộc danh giá nhất ở Matxcơva. Đó là nữ bá tước Ximinkhốp trẻ trung, đã chết sau ba năm kết hôn, để lại cho chồng một đứa con gái nhỏ. Theo lời khuyên của bạn bè khi thấy ông sắp quỵ trong đau khổ cự độ, ông đã đi du ngoạn. Ở Cairô, ông gặp bà Ixmen Nađôpulô, bà này đã dốc lòng an ui ông - và đã thành công đến nỗi sáu tháng sau bà trở thành Bá tước Phu nhân Xêminkhốp.  Bà Đờ Tembray, người thiếu phụ có bộ tóc vàng hoe thốt ra một tiếng cười mỉa mai:  -Đau buồn của nam giới là như thế đấy! Nhưng ông Xêminkhốp tội nghiệp ấy hình như bị vợ làm đau khổ không ít?  - Đúng thế, nói riêng giữa chúng ta thôi nhé, tôi không tin là ông ấy sung sướng.  - Phải, mụ Ixmen đẹp đẽ này không phải là người vợ đoan trang, điềm đạm và dịu dàng có lẽ không phải là những đức tính quen thuộc của mụ. nhưng bé gái của bà vợ trước như thế nào?  - Đứa bé tội nghiệp đã gặp nạn. Nó chết đưối, cô gia sư người Pháp cũng chết trong vụ tai nạn, có lẽ vì muốn cứu nó.  - Cuộc hôn nhân thứ hai của họ không có con chung sao?  - Có chứ, một đứa con trai, một đứa trẻ tàn tật đáng thương àm mẹ nó không ưa. Mụ chỉ thấy mỗi mình trên đời này, mình trước hết rồi đền đứa con gái.  - Cái cô Myra này kỳ dị thật...! Một cô ả mất nết. Ông có cho là như thế không?  - Con hơn là mất nết ấy chứ. Thật thế. Con người ấy được giáo dục mới hay làm sao. Pie Đurin kể với tôi cô ta đã gây ra bao điều đáng dị nghị về minh ở Pêtécbua vào mùa đông năm ngoái vì thái độ phù phiếm và vẻ đỏm dáng khêu gợi. Ta đã thấy một kiểu mẫu như thế trong cách cư xử của ả đối với Hoàng thân Đờ Vitengrat.... nhưng lần này thì ả phải coi chừng để khỏi mắc lại vài mảnh tim của mình ở đây. Với người này, không ai yêu nửa chừng, nửa vời được đâu!  Bà Đờ Tembray bứt rứt hỏi:  - Nghe nói người ấy là hiện thân của sự không bền vững, đúng không?  - Đúng thế. Nhưng tôi thấy ả Myra xinh đẹp có vẻ rất khôn khéo, biết dâu ả lại thành công trong việc giữ cho tính hay thay đổi của hoàng thân quay vòng lâu hơn một chút.  Trong khi nói, ông Đờ Ăngblomo liếc nhìn người thiếu phụ một cách ranh mãnh, làn da tươi mát của bà ửng hồng vì xúc động mạnh - cả bà này nữa cũng đã vướng mắc rồi đây - ông thích thú nghĩ như vậy.  - Cô myra kia hoàn toàn không có một chút gì là sang trọng.... Đây là một kiểu người du cư hoặc một thứ gì cùng loại. Bà Đờ Terxio khinh khỉnh nói.  - Tôi nghi ngờ ả thực sự làm vừa lòng Hoàng thân, một người rất tinh tế và thông minh phi thường.  Người được nói đến đang ngồi lún sâu vào đệm xe nhìn ngày tàn dần trên khu rừng đang tối thẫm lại. Chàng đã ra lệnh cho người đánh xe ghìm bớt nước kiệu của hai con ngựa đang hăng để xe đi sau các xe khác. Ngồi bên cạnh chàng và tôn trọng sự im lặng của chàng là Ôbe Đờ Griơy, một sĩ quan trẻ đến từ Angiêri trở về, đang trong thời gian nghĩ dưỡng bệnh sau một trận ốm nặng về chơi ít lâu với gia đình người anh em họ Đờ Terxiơ.  Hoàng thân Đờ Vitengrat, người không dễ có thiện cảm với ai, có vẻ nhanh chóng ưu thích người thanh niên đẹp trai có thiên bẩm thông minh và lịch sự này, là con trai của một sĩ quan bị giết năm 1870 trong trận ở Xanh-Priva. Chàng đã coi người sĩ quan như là bạn thân nhất trong suốt thời gian ở lâu đài Heagiơ. Ân huệ ấy không phải là không khơi gợi những ghen tỵ ngấm ngầm, vì có đầy rẫy những kẻ xu nịnh đang vội vã tôn xùng người giữ cương vị rất cao ở Châu Âu do dòng dõi, sản nghiệp, chưa kể đến những thiên bẩm về trí tuệ và hình thức tạo nên.  Mời các bạn đón đọc Con Nai Trong Rừng của tác giả Delly.
Trong Chiến Hào Stalingrad
Vích-to Nê-cơ-ra-xốp sinh năm 1911 ở thành phố Ki-ép, trong một gia đình bác sĩ. Sau khi tốt nghiệp khoa kiến trúc của Học viện Kiến thiết và trường diễn viên sân khấu năm 1936 ở thành phố Ki-ép, Nê-cơ-ra-xốp đã làm diễn viên và họa sĩ ở nhiều thành phố trong nước. Từ năm 1941, nhà văn tương lai, trung đội trưởng trung đội công binh, đã chiến đấu trên mặt trận chống bọn phát-xít xâm lược, trong cuộc Chiến tranh Ái quốc vĩ đại và đã bị thương nặng. Nê-cơ-ra-xốp được tặng thưởng huân chương Sao Đỏ và nhiều huy chương. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Nê-cơ-ra-xốp đi vào con đường sáng tác văn nghệ. Cuốn Trong chiến hào Xta-lin-gơ-rát của ông, xuất bản năm 1946, được tặng Giải thưởng Quốc gia. Nhà văn - chiến sĩ Xê-vô-lốt Vít-snhép-xki, tác giả cuốn Bi kịch lạc quan đã viết: «Đến nay, tác phẩm đó có giá trị nhất và chính xác nhất viết về những sự kiện ở Xta-lin-gơ-rát». Những năm tiếp sau, Nê-cơ-ra-xốp đã viết nhiều truyện ngắn về đề tài chiến tranh, truyện vừa Trong thành phố quê hương, Kia-ra Ghê-oóc-ghi-ép-na, truyện phim và bút ký đi đường. Hầu hết các tác phẩm của V. Nê-cơ-ra-xốp đều đã được dịch ra tiếng các dân tộc ở Liên Xô và tiếng nước ngoài. *** Việc chiếm được thành phố Stalingrad có tầm quan trọng rất lớn đối với Hitler và cả Mussolini vì hai lý do chính. Thứ nhất, đây là một thành phố công nghiệp lớn nằm trên sông Volga - con đường giao thông vận tải mang tầm quan trọng chiến lược nối liền Biển Caspi và miền Bắc nước Nga. Vì vậy việc để mất Stalingrad vào tay phát xít Đức sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng vận chuyển hàng hóa đến phía Bắc của đất nước. Thứ hai, việc đánh chiếm Stalingrad sẽ củng cố sườn phía Đông của quân Đức vốn đang tiến nhanh về vựa dầu tại vùng Kavkaz với mục tiêu cắt đứt nguồn cung ứng dầu hỏa cho Hồng quân Xô Viết.[23] Thêm nữa, thành phố này mang tên của lãnh tụ I. V. Stalin, việc đánh chiếm thành phố này cũng sẽ là một thắng lợi quan trọng về mặt tinh thần và tư tưởng. Hồng quân Xô Viết nhận ra rằng họ đang chịu một sức ép nghiêm trọng về thời gian và nhân lực, vật lực, vì vậy tất cả những ai có thể cầm súng chiến đấu đều được điều về bảo vệ Stalingrad.[24] Vào thời kỳ này của chiến tranh, khả năng tác chiến cơ động cao của Hồng quân vẫn còn kém hơn so với phát xít Đức, tuy nhiên việc chiến đấu trong thành phố đã giúp giảm thiểu những thiệt thòi của Hồng quân vì nơi đây là địa bàn của việc giao tranh bằng vũ khí cầm tay của bộ binh chiếm ưu thế chứ không phải là nơi dành cho việc giao chiến giữa các lực lượng tăng thiết giáp. *** Lệnh rút lui đến rất đột ngột, Chỉ mới hôm qua thôi, từ sư đoàn bộ đã gửi đến một bản kế hoạch chi tiết về các công tác phòng ngự: lập tuyến thứ hai, chữa đường sá, làm cầu con. Các đồng chí bảo tôi cho ba công binh để bố trí câu lạc bộ sư đoàn. Buổi sáng sư đoàn bộ gọi điện bảo phải chuẩn bị đón đoàn văn công ca múa của mặt trận. Thật không còn gì bình tĩnh hơn nữa! Nhân dịp đó, thậm chí tôi và I-go đã cạo râu, cắt tóc và gội đầu, đồng thời giặt áo mai-ô, quần đùi nữa, Và trong lúc chờ áo quần khô, chúng tôi nằm dài trên bờ sông con đã cạn, nhìn xem các chiến sĩ công binh của tôi đang làm những chiếc bè con cho trinh sát viên. Chúng tôi nằm hút thuốc, đánh cho nhau những con ruồi trâu chậm chạp và béo quay bám trên lưng chúng tôi và nhìn xem anh trung đội phó của tôi đang lặn hụp trong nước, nhô cái mông trắng trẻo và những gót chân đen đủi để thử xem chiếc bè có chắc không, Ngay lúc đó, La-da-ren-cô, liên lạc viên của ban chỉ huy, đã hiện ra. Từ xa tôi đã nhận ra anh đang ba chân bốn cẳng phóng qua vườn rau, một tay giữ khẩu súng trường lúc la lúc lắc vỗ vào lưng, Cứ xem cách chạy đó, tôi hiểu ngay là bây giờ chẳng còn có hòa nhạc hòa nhiếc gì nữa rồi. Chắc là lại có phái viên kiểm tra nào đấy từ quân đoàn hay mặt trận đến... Lại phải đi đến tiền duyên, phải trình bày kế hoạch phòng ngự, phải nghe những lời phê bình nhận xét. Thế là mất một đêm. Và người kỹ sư công binh phải chịu trách nhiệm về tất cả. Nằm ở thế phòng ngự, thật chẳng có gì tệ hơn nữa. Đêm nào cũng có phái viên kiểm tra đến. Mà mỗi ông một tính. Cái đó thì nhất định là như thế rồi. Ông này thì bảo là chiến hào quá chật, khó khiêng thương binh, khó vác súng máy. Ông kia thì kêu là chiến hào quá rộng, mảnh bom sẽ rơi vào. Ông thứ ba thì nói là ụ đất phía ngoài công sự thấp: đáng lẽ phải bốn tấc thế mà các ụ của anh, có thấy không, chưa đến hai tấc. Ông thứ tư thì ra lệnh hoàn toàn san phẳng những ụ ấy đi, vì chúng chỉ làm hỏng ngụy trang. Thế thì làm thế nào để vừa lòng mọi người được. Còn kỹ sư công binh của sư đoàn thì chẳng chú ý gì đến cả. Hai tuần ông ta mới đến một lần, nhưng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa suốt tiền duyên mà thôi và chẳng nói được điều gì có ích cả. Còn tôi thì lần nào cũng phải bắt đầu làm lại và phải đứng nghiêm nghe những lời quở trách của trung đoàn trưởng: «Này, đồng chí kỹ sư kính mến ơi, đến bao giờ đồng chí mới học đào chiến hào cho ra hồn được, hở?...» La-da-ren-cô phóc qua hàng giậu. - Việc gì thế, hở cậu? Anh vừa lấy mũ ca-lô lau trán ướt đẫm mồ hôi, vừa há mồm răng trắng hếu đáp lại: - Tham mưu trưởng gọi. - Gọi ai? Gọi tôi à? - Gọi cả đồng chí lẫn trưởng ban hóa chất. Tham mưu trưởng bảo là sau năm phút phải có mặt. Không, thế nghĩa là không phải phái viên kiểm tra. - Thế cậu có biết gọi để làm gì không, hở. - Có trời mà biết được. - La-da-ren-cô nhún vai ướt đẫm mồ hôi đáp. - Làm sao mà hiểu được... Tất cả liên lạc đều phái đi hết. Đại úy vừa nằm xuống ngủ, thì ngay lúc đó sĩ quan thông tin đến. Thế là đành phải mặc quần đùi, áo mai ô còn ẩm và đi đến sở chỉ huy. Các trung đội trưởng đều cũng được gọi đến cả. Tham mưu trưởng Mác-xi-mốp không có ở đây. Anh ta đang ở chỗ trung đoàn trưởng. Ở nhà hầm sở chỉ huy có cán bộ chỉ huy các đơn vị đặc biệt và những nhân viên tham mưu. Trong số tiểu đoàn trưởng chỉ có Xéc-ghi-en-cô, chỉ huy tiểu đoàn ba. Chẳng ai hiểu rõ đầu đuôi gì cả. Trung sĩ Dơ-vê-rép, sĩ quan thông tin, cao lêu nghêu đang loay hoay với chiếc yên ngựa. Anh ta vừa thở ì ạch, vừa gắt gỏng, nhưng chẳng tài nào kéo nổi sợi dây chằng. - Sư đoàn bộ đang chuẩn bị rút. Chỉ có thế thôi... Ngoài ra, anh không còn biết gì thêm nữa. Xéc-ghi-en-cô nằm sấp, đang gọt mảnh gỗ gì đấy và lầu bầu như mọi khi: - Chỉ vừa mới thu xếp xong buồng khử trùng, thì đã phải rút. Mẹ kiếp, đời lính chó má thật! Các chiến sĩ thì quào đến bật máu đầu, mà chẳng làm thể nào giết sạch chấy được... Xa-mu-xép, chỉ huy tổ súng chống tăng, có mái tóc vàng và cặp mắt xanh, nhoẻn miệng cười khinh bỉ: - Hừ, buồng khử trùng của cậu thì quan trọng quái gì... Chỗ tớ một nửa quân số sau khi tiêm thuốc xong, lưng bị sưng lên như thế này. Người ta tiêm vào xuýt nữa thì đến một cốc thuốc quỷ quái gì đấy. Bây giờ thì mặc sức mà rên rỉ, kêu ca... Mời các bạn đón đọc Trong Chiến Hào Stalingrad của tác giả V. Nê-cơ-ra-xốp.
Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết
Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau: “André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm: trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt”. Toàn thể tác phẩm đó khoảng trăm cuốn, gồm gần đủ các loại: truyện dài, truyện ngắn, sử, tiểu sử, phê bình, khảo luận, tùy bú cuốn nào cũng hữu ích và năm sáu cuốn phải kể là lớn. Tiểu sử của ông mà tôi đã chép trong cuốn Các cuộc đời ngoại hạng đáng làm mẫu mực: cần cù, liêm khiết, chân chính. Sáu mươi năm cầm bút, có lúc dạy học, diễn thuyết; tám mươi tuổi vẫn đều đều mỗi ngày ngồi vào bàn viết cả buổi sáng; vừa viết xong tập Hồi kí, thì vào dưỡng đường trị bệnh ruột và nửa tháng sau tắt nghỉ. Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thể hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. Đầu năm 1968, chúng tôi đã giới thiệu với độc giả tập Thư ngỏ gởi tuổi đôi mưoi ông viết hồi tám chục tuổi; hôm nay xin giới thiệu thêm cuốn Thư gởi Người đàn bà không quen biết viết hồi bảy chục tuổi. “Người đàn bà không quen biết” mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng Ồng lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ: đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền. Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lí của ông, cũng như trong cuốn Thư ngỏ gởi tuổi đôi mưoi là một triết lí lạc quan, khoan hòa, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm, không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn. Nhưng muốn hưởng hết cái thú thì mỗi tối ta chỉ nên coi một bức thư thôi. Đọc chầm chậm, vừa suy nghĩ thì mất độ mười lăm phút, mưòi lăm phút đó đáng kể nhất trong mỗi ngày của ta vì ta được hiểu đời hơn, hiểu ta hơn và được đàm đạo vói một danh sĩ bậc nhất của Pháp. *** Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê LỜI ĐẦU André Maurois (1885 - 1967) là nhà văn lớn Pháp, tên thật là Emile Herzog. Viện sĩ trong Viện Hàn lâm Pháp. Ông xuất thân trong một gia đình công nghiệp ở Alsaca. Khi còn ở ghế nhà trường ông là một cao đệ của giáo sư kiêm triết gia Alaine (1868 - 1951), tốt nghiệp Đại học, ông làm giáo sư triết học. Một thời gian sau ông từ chức về quản lí nhà máy dệt của gia đình và bắt đầu viết từ đó. Trong thế chiến thứ nhất (1914 - 1918) , ông làm thông dịch viên trong quân đội Hoàng gia Anh, chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), ông sống ở Anh quốc và Hoa Kỳ. André Maurois chuyên về tiểu thuyết, luận văn, sử, phê bình, khảo luận, tùy bút... Với hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại mà có người cho "toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt" đã được các thế hệ trẻ ngưỡng mộ, tin cậy và xem ông như bậc thầy. Ông viết tập "Thư gởi người đàn bà không quen biết" (Lettres à l'Inconnue) này khi ông đã ngoài bảy mươi tuổi gởi lại cho lớp đến sau, giúp họ có một vốn sống nho nhỏ trong cuộc sống. Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau : "André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm : trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt". Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thế hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. "Người đàn bà không quen biết" mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng v.v... Ông lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ : đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền... Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lý của ông là một triết lý lạc quan, khoan hoà, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm ; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn.   Tựa (của tác giả) Có cô mà không có cô. Khi một ông bạn nhờ tôi viết mỗi tuần một bức thư cho cô thì tôi thích thú tưởng tượng ra cô. Tôi tạo ra cô : hoàn toàn về óc phán đoán cũng như về nét mặt. Tôi chắc chắn cô sẽ từ cõi mộng tưởng của tôi xuất hiện thành một người thực, rồi đọc thư tôi, đáp tôi, nói với tôi tất cả những lời mà một nhà văn muốn nghe. Ngay từ buổi đầu tôi đã cho cô một hình thể rõ rệt, hình thể một thiếu phụ rất đẹp mà tôi thấy trong một hí viện. Không phải trên sân khấu mà ở trong rạp. Các ông bạn ngồi cạnh tôi không biết thiếu phụ đó là ai. Từ lúc đó cô có một cặp mắt, một làn môi, một giọng nói, một thân thể, mà vẫn là Người đàn bà không quen biết, có thể mới phải phép. Với bức thư đáng ra và tôi nhận được của nó những hồi âm mà tôi đã mong đợi. Tiếng "cô" ở đây là tiếng tập hợp, chỉ số nhiều. Các cô là cả một đám phụ nữ không quen biết, cô này ngây thơ, cô kia hay gây gỗ, cô thứ ba kì cục va hay nhạo báng. Tôi đã muốn thư từ qua lại với các cô, nhưng rồi thôi. Muốn viết cho hết thảy thì không nên viết cho từng người một. Cô trách tôi thận trọng, giữ cái cương vị một luân lí gia tình cảm. Làm sao được ? Người đàn ông nào kiên nhẫn nhất thì cũng chỉ trung tín với một người đàn bà không quen biết khi người này cho thấy mặt. Mérimée sớm biết được người đàn bà không quen biết của ông ta tên là Jenny Dacquin và ông được ngay cô ta cho phép hôn chân, chân cô ta rất đẹp. Một thần tượng phải có chân và những bộ phận khác nữa. Nếu không thì người ta sẽ chán một nữ thần vô hình. Tôi đã hứa đóng cái trò này thật lâu, chán mới thôi. Sau sáu chục tuần lễ, tôi xin đổi đề tài và được chấp nhận. Tuyệt giao trong tưởng tượng thì không khó khăn gì cả và tôi giữ được của cô một kỉ niệm không vết. Vĩnh biệt. ANDRÉ MAUROIS   Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết của tác giả André Maurois.