Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thanh Đạm - Nguyễn Công Hoan (NXB Đời Mới 1942)

Mặt trời ngả về tây đã lâu. Ở sàn, bóng mái nhà đã ra tới bốn hàng gạch. Chiều nay, dân sự vào hầu thưa thớt. Mà quan phụ mẫu cũng mong như thế. Ngài đã dặn nha lại, có việc gì khó khăn hãy trình hỏi ý kiến ngài. Còn những việc không quan hệ, thì cử tùy tiện; bẩm qua loa rồi ngài cho chữ. Đã năm hôm nay, ngài dùng thì giờ xét lại các quyển văn mà ban khẳo duyệt đệ lên để ngài quyết định giải thưởng. Ngài cặm cụi cả ngày, đêm thường trong đèn đến nửa canh ba. Ngài ngồi trước án, trên bộ sập sơn quang dầu, tay cầm bút son để khuyên hoặc điểm. Gặp câu hay, ngài gật gù, rặt mồi thuốc vào điếu, se lại sợi ruột gà, châm lửa, hút một hơi dài, ngửa mặt lên, tuồn luồng khói đặc, rồi ngài rung đùi, ngâm vang.

Thanh Đạm

NXB Đời Mới 1942

Nguyễn Công Hoan

484 Trang

File PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Nam Kỳ Vĩ Nhơn Lục - Trương Hoàn Phát (NXB Nguyễn Văn Của 1927)
Giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp phục vụ cho nhà nước đại Pháp và sự hy sinh của các nhân vật đương thời: Đỗ Hữu Phương, Đỗ Hữu Vị. Một số bài văn điếu, thư từ viết về các ông Đỗ Hữu Phương và Đỗ Hữu Vị : Chính văn bằng tiếng Việt và một phần tiếng Pháp.Nam Kỳ Vĩ Nhơn LụcNXB Nguyễn Văn Của 1927Trương Hoàn Phát100 TrangFile PDF-SCAN
Một Kiếp Đọa Đầy - Trương Tửu (NXB Hà Thuyên 1941)
Đặt trong mặt bằng chung của nền văn xuôi và tiểu thuyết đương thời, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong công trình Nhà văn Việt Nam hiện đại (1942) đã thẳng thắn chỉ rõ những điểm hạn chế và khả thủ ở sáng tác Trương Tửu. Phân tích các tập truyện và tiểu thuyết Một chiến sĩ, Khi chiếc yếm rơi xuống, Khi người ta đói, Một kiếp đọa đầy, Vũ Ngọc Phan xác định: “Trương Tửu tỏ cho người ta thấy ông là một nhà tiểu thuyết xã hội. Ngay trong tập ái tình tiểu thuyết Trái tim nổi loạn, ông cũng có cái ý phân giai cấp mỗi khi nói đến sự giàu nghèo của Thúy và Thông. Còn ở hầu hết các tiểu thuyết khác của ông, ông bênh vực người nghèo rõ rệt… Về mặt phê bình, Trương Tửu là một nhà văn thiên vị, chỉ biết theo khuynh hướng chính trị của mình; còn về tiểu thuyết xã hội, ông là một nhà văn có những ý kiến chưa lấy gì làm chín chắn và sâu rộng”… Một Kiếp Đọa ĐầyNXB Hà Thuyên 1941Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa)168 TrangFile PDF-SCAN
Kinh Nhựt Tụng Tam Tông Miếu - Lê Minh Truyền (NXB Khổng Hữu Trim 1928)
Lược thuật về việc tiếp kinh. Bài giải sát. Các bài chú, các bài kinh Thái dương, Kinh Thái âm, kinh cứu khổ và các bài cầu, bài sám, bài thỉnh, bài dưng lục cúng, bài đưa thần.. Nghe 3 chữ "Tam Tông Miếu" mọi người (ở miền Nam) đều nghĩ ngay đến một loại lịch dùng để xem ngày tốt xấu. Một số ít người khác biết thêm rằng đây là tên một ngôi chùa ở đường Cao Thắng, Sài Gòn, nơi biên soạn và phát hành những bộ lịch này (trước 1975). Ấy, xin dừng lại một chút ở cái tên Chùa Tam Tông Miếu. Đã "chùa" sao lại còn "miếu"? Bạn có thấy kỳ không? Nói thiệt, cho tới gần đây, tui vẫn nghĩ Tam Tông Miếu là một ngôi chùa, tức là nơi thờ Phật. Nhưng đi tới nơi rồi, tìm hiểu thêm thì mới biết không phải. Tam Tông Miếu đâu phải là ngôi chùa Phật giáo! Vậy Tam Tông Miếu là gì? Kinh Nhựt Tụng Tam Tông MiếuNXB Khổng Hữu Trim 1928Lê Minh Truyền90 TrangFile PDF-SCAN
Kim Cang Kinh - Đoàn Trung Còn (NXB Sài Gòn 1943)
Đối với người tu học Thiền, Kinh Kim Cương đóng một vai trò khai ngộ đặc biệt, bởi vì chính nhờ câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong bài Kinh mà Lục tổ Huệ Năng và nhà vua Trần Thái Tông đều đạt được đại ngộ. Bài Kinh này thường được tụng niệm tại các chùa thuộc hệ Đại Thừa, nhưng ít khi được tìm hiểu và trình bầy một cách cặn kẽ, ngoài một vài câu nổi tiếng được dẫn chứng trong các bài thuyết pháp. Lý do có lẽ là Kinh nói chung khó hiểu, với một hình thức đặc biệt làm cho người đọc dễ bị lôi cuốn bởi các câu rườm rà, và lướt qua nhanh một số câu cô đọng chứa đựng tất cả cái cốt tủy tinh hoa. Hơn nữa, cũng như đối với đa số kinh điển Phật giáo, dùng trí thức thuần túy để mà phân tích, suy luận và diễn giải, không thể nào đầy đủ. Người ta còn phải hiểu bằng trí huệ Bát Nhã, bằng trực giác, bằng linh cảm, bằng tất cả cái tâm của mình. Trong Kinh, đức Phật há đã chẳng nói "Kinh này không thể nghĩ bàn, không thể đo lường được" (Hán văn: Thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, chương 15, 16) hay sao? Tuy nhiên, trong sự truyền thông, trao đổi giữa những con người với nhau, thì không thể nào không dùng đến khái niệm, ngôn từ để lý giải, đồng thời vẫn ý thức được sự hạn hẹp của lối tiếp cận này. Kim Cang KinhNXB Sài Gòn 1943Đoàn Trung Còn82 TrangFile PDF-SCAN