Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF CHINH PHỤ NGÂM KHÚC (nguyên Hán văn) - ĐẶNG TRẦN CÔN & ĐOÀN THỊ ĐIỂM (1950) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Nước ta dùng chữ Hán mà bồi bổ quốc văn, ngày xưa theo lẽ tự-nhiên, mà ngày nay lại cần phải học. Ở chương trình học khóa bộ Quốc gia giáo-dục cũng đã có dự trù đến. Trải xem những bản tản văn, vận văn chữ Hán đã diễn ra Quốc văn, không bản nào hay bằng “Chinh phụ ngâm” và “Tỳ bà hành”. Tỳ-bà hành theo lối phiên dịch dịch từng câu, Chinh phụ ngâm theo lối dịch thuật hoặc từng câu, hoặc thêm, bớt. Hai lối dịch ấy, lối dịch thuật có dễ hơn lối phiên dịch, nhưng cũng tất phải có khẩu tài và thiên phận cao mới làm nên, mà lối dịch thuật gồm có phiên dịch ở trong vậy.Bản “Chinh phụ ngâm khúc” này nguyên Hán-văn của Đặng Trần Côn tiên sinh soạn, bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm, đã được đem vào hạng sách Giáo-khoa thư. Nay đã đem sách ấy ra dạy học, ắt phải có sự giải và thích tất cả nghĩa lý và tinh thần Hán-Việt cho tường tận và phân minh; lại phải chỉ dẫn lối dụng tự, áp vận, và diễn ca cho rành, thì mới mong có ích cho học giả. Trái lại những bản “Chinh phụ ngâm”dạy ở các trường ngày nay đã không chú trọng đến các yếu tố kể trên, thành ra phần nghĩa lý chữ Hán đã mơ hồ mà phần ấy của chữ Việt cũng khiếm khuyết thì sao gọi bồi bổ quốc văn, giảng cầu Hán học. Bởi các lẽ trên đây mà tôi đã lưu tâm từ lâu, mới dẫn giải và chú thích tập “Chinh phụ ngâm” này, chuyên dùng để bổ khuyết cho những điều hiện khuyết; và mong những bậc quang minh quân tử trong làng văn vòn có góp thêm phần chỉ giáo.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Tuồng Cải Lương Cửu Nhĩ Mạo Châu Kỳ PDF (NXB Sài Gòn 1927) - Lê Văn Tiếng
Cửu Nhĩ Tân Vương (?–427, trị vì 420–427) là vị quốc vương thứ 19 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là con trai cả của Thiển Chi Vương và Bát Tu phu nhân. Thời gian trị vì của Cửu Nhĩ Tân Vương dựa theo Tam quốc sử ký (Samguk Sagi). Tuy nhiên, dựa trên các sử sách Trung Hoa đương thời, sử gia J. W. Best cho rằng mốc thời điểm 414–429 hay 430 là hợp lý hơn. Theo Bách Tế truyện trong Tống thư, năm 425 (Nguyên Gia thứ 2), Bách Tế không đến triều cống hàng năm cho Lưu Tống. Năm 430 (Nguyên Gia thứ 7), Lưu Tống phong Cửu Nhĩ Tân tước hiệu "sứ trì tiết, đô đốc, Bách Tế chư quân sự, Trấn Đông đại tướng quân, Bách Tế Vương".Cửu Nhĩ Mạo Châu Kỳ (Tuồng Cải Lương)NXB Sài Gòn 1927Lê Văn Tiếng50 TrangFile PDF-SCAN
Cười Gượng 2 Quyển PDF (NXB Đức Lưu Phương 1935) - Hồ Biểu Chánh
Năm 1928, là lúc bắt đầu thuật truyện nầy, thì thím giáo Điểu đã được 39 tuổi, còn đứa con gái lớn của thím, tên là Đặng Thị Hảo, được 18 tuổi, đứa con trai giữa, tên Hòa được 12 tuổi và đứa con trai út, tên Hiếu, được 7 tuổi. Đặng thị Hảo ở nhà một mình, cô buồn nên nằm trên võng đưa cọt-kẹt, mặt buồn hiu. Tuy cô là con nhà nghèo, thường ngày phải nấu cơm, xách nước, bửa củi, quét nhà, đến mùa làm ruộng lại còn phải phụ với mẹ mà cấy gặt, song cô đã sẵn có dung nhan tuấn tú, nước da trắng đỏ, cặp mắt sáng ngời, gò má như miếng bầu, chơn mày như bán nguyệt, bàn tay dịu nhĩu mà ngón lại thon như mũi viết, mái tóc đen thui mà hơi quăn như dợn sóng, tướng đi yểu điệu, tiếng nói trong ngần, bởi vậy dầu cô lam lũ mà sắc cô không phai, hết thảy đờn bà trong làng ai cũng trầm trồ khen cô là gái đẹp. Cô đã có sắc, mà lúc còn nhỏ nhờ có cha kềm dạy, nên cô lại biết chữ nho, biết làm thi nôm, sự học thức ấy làm cho cao phẩm giá của cô, bởi vậy những con nhà nghèo, hoặc con hương-chức nhỏ trong làng không có một mặt nào dám gắm ghé.Cười Gượng (2 Quyển)NXB Đức Lưu Phương 1935Hồ Biểu Chánh172 TrangFile PDF-SCAN
Mài Dao Giậy Vợ PDF (NXB Minh Tuân 1951) - Hải Lân
Đây là truyện cũ từ ngàn xưa lưu lại, người ta hằng thuật cho nhau nghe trong những khi nhàn rỗi. Truyện này cũng như nhiều câu truyện cổ khác của Việt Nam là truyện luân lý để răn đời. Vốn là truyện truyền khẩu nên người ta thuật lại thường khác nhau nhưng đầu đề và mục đích vẫn là một. Với cái đầu đề Mài Dao Giậy Vợ ta có hai truyện được lưu lại. Ở đây chúng tôi xin chép ra cả hai truyện ấy.Mài Dao Giậy VợNXB Minh Tuân 1951Hải Lân52 TrangFile PDF-SCAN
Một Linh Hồn Đàn Bà PDF (NXB Tân Dân 1940) - Lê Văn Trương
Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Cha ông gốc người Hà Đông, lên lập nghiệp ở Bắc Giang. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Văn Trương làm rất nhiều nghề: Công chức Sở Dây thép, khai khẩn đồn điền, thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu... ở nhiều nơi, có khi sang tận Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc. Song, về sau, ông cộng tác với nhiều báo như: Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, Việt Nam hồn… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến, làm Chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ, vào bộ đội, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III. Sau bị bệnh, ông xin phép về Hà Nội chữa bệnh. Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách cho đến cuối đời.Những Tác Phẩm HayMột Linh Hồn Đàn BàNXB Tân Dân 1940Lê Văn Trương195 TrangFile PDF-SCAN