Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gái Một Con

Gái Một Con - bộ truyện tâm lý xã hội đời thực hay của tác giả Nguyễn Nhật Thương.  Thùy là cô gái nhà quê thiếu hiểu biết, bị cưỡng hiếp trong một đêm mưa và từ đó mang thai không biết ai là cha đứa bé. Cuộc sống cơ cực khi cái thai ngày càng lớn dần, hàng xóm miệt thị cha mẹ ruồng bỏ, cô bỏ lên thành phố khi mang thai tháng thứ 8, chuỗi ngày đầy tủi nhục lại tiếp diễn.. *** - Kìa, con nhà bà Loan đấy, tí tuổi đầu mà bụng đã ỉnh lên rồi. - Con Thuỳ đấy hả, nghe nói nó chửa hoang mà, không biết bố đứa bé là ai luôn. - Ôi dào, bọn mới lớn bây giờ đàn đúm lắm, cứ tụ bạ với mấy thằng thanh niên làng bên rồi ỉnh ra, biết được của đứa nào. Những lời bàn tán, vài cái chỉ trỏ, ánh nhìn miệt thị đều chĩa thẳng vào tôi, một cô gái chỉ mới 17 tuổi nhưng đã chửa ở tháng thứ 8. Nghiệt ngã 1 chỗ tôi lại chẳng biết bố đứa trẻ là ai. Nhà tôi thuộc loại hộ nghèo của xã, bố mẹ tôi cũng đã có tuổi nhưng vẫn phải đi cày ruộng thuê cho người ta, ai có sai gì thì làm nấy. Dưới tôi còn 2 đứa em, 1 trai, 1 gái. Đứa em trai đã học lớp 8 hay gọi nó là Tèo, còn đứa em gái mới chỉ 5 tuổi, đứa con muộn của bố mẹ tôi nên tôi hay gọi nó là Út. Tôi lên lớp 10 đã nghỉ học để đi làm thêm, chứ nhà đã nghèo còn nuôi 5 miệng ăn thì mình bố mẹ tôi không đủ. Hoàn cảnh của nhà tôi thường xuyên phải chạy sang hàng xóm vay từng bò gạo, xin từng cọng rau. Nói thật, với độ tuổi như tôi bảo tôi đi xin xỏ như vậy cũng có chút xấu hổ. Rồi vào 1 cái đêm mưa tầm tã cách đây khoảng 8 tháng, mẹ tôi sai tôi cầm 2 bò gạo sang trả cho bà Lý ở làng bên. Tôi nói trời mưa nên để mai nhưng mẹ tôi nói bà ấy sang đòi nhiều lần rồi nên không kéo dài nữa. Tôi với tạm chiếc nón đã nát che lên đầu rồi chạy vội sang làng bên, trời mưa, đường làng lại đất bùn dễ trơn trượt, đèn thì lại yếu, tôi phải dò dẫm từng bước mới đến được cái nhà 2 tầng đang bật đèn sáng trưng mà gọi cửa: - Bà Lý ơi! Tiếng chó ở trong nhà sủa vang lên cả xóm, người phụ nữ có hình dáng mập mạp ì ạch đi ra: - Đứa nào đấy? - Cháu Thuỳ, con mẹ Loan. Mẹ cháu bảo sang trả cho bà 2 bò gạo tuần trước vay. Bà ta nghe vậy liền lấy cái ô bật lên rồi đi ra: - Cả buổi thì đéo đến, mưa gió lại mò đến. Tôi đưa 1 túi bóng đựng 2 bò gạo được buộc kỹ qua song cửa cổng cho bà. Bà Lý cầm lấy nó rồi quát lên: - Giời ạ, trời mưa thì phải cho nó vào cái gì chứ, mày để như thế này thì còn đéo gì là gạo nữa. Tôi nghe vậy liền lấy bàn tay lên vuốt gương mặt đã ướt như chuột lội rồi nói với bà: - Cháu buộc kỹ rồi, không sao đâu bà. - Thế này mà không sao à? Tao cho nhà mày mượn gạo tử tế, giờ mày trả cái đồ vứt đi như thế này à? Tôi nghe vậy cũng thấy khó chịu nhưng vẫn cố nhịn vì nhà tôi cũng thường xuyên vay mượn của bà: - Sao lại đồ vứt đi ạ? Gạo này nhà cháu vẫn nấu ăn bình thường, gạo ngon đấy ạ. - Nhà mày thì làm đéo gì có tiền mà mua gạo ngon. Nói rồi bà quăng túi gạo kia vào cái xô rác để ngay đấy rồi nói: - Thôi, về bảo với mẹ mày là tao cho. Đi về đi. Vay mượn kiểu này thì lần sau ai dám cho vay. Nói rồi bà liền đi vào nhà, còn tôi đứng đấy nhìn chằm chằm vào túi gạo đã nằm im ở trong xô rác đấy mà đôi mắt đỏ hoe. Cái cảm giác uất ức và nhục nhã sộc thẳng lên mũi, đi vay thì bị xỉ vả, đi trả thì cũng bị lăng mạ. Giữa con người với nhau, tôi tự hỏi họ có cần phải cay nghiệt đến như vậy không? Lững thững đi bộ trở về mà hai hàng nước mắt chua chát vẫn cứ chảy dài theo màn mưa. Bỗng 1 cơn gió lớn kéo đến thổi bay chiếc nón tôi đang đội, mưa trút xuống đầu làm tôi vội vã chạy đến 1 cái chòi bỏ hoang gần đấy. Cả người lúc này đã ướt nhẹp, gió thổi làm tôi lạnh mà run rẩy. Sấm chớp bắt đầu đánh ầm ầm khiến tôi khiếp sợ, cái bóng đèn vàng duy nhất thắp sáng đường đi bỗng nhiên vụt tắt, xung quanh chỉ 1 màu tối đen. Tôi run rẩy tìm chiếc điện thoại để bật đèn pin, nhưng sơ qua mới biết lúc đi không có mang theo. Đang định tính bỏ chạy 1 mạch về nhà thì từ 1 phía phát lên tiếng hát say sỉn của 1 gã nào đấy. Tôi sợ quá đứng lùi vào bên trong, gã say sỉn kia tay cầm 1 chiếc đèn pin nhỏ soi qua soi lại rồi chĩa thẳng vào người tôi làm tôi chói mắt phải đưa tay lên che: - Ế, em gái....trời mưa mà đứng đây làm gì? Đợi người yêu à? Đường thì vắng, lại tối đen, gặp một gã say ỉn thì đứa con gái nào chẳng sợ. Tôi không nhìn gã, cũng không trả lời định quay người chạy đi thì ai ngờ lão vứt chiếc đèn pin sang 1 bên rồi lao đến ôm chầm lấy tôi: - Ấy...chạy đi đâu...ở lại đây trú mưa với anh! Tôi lúc này hoảng sợ cực độ, cố gắng vùng vằng đẩy gã ra rồi la lên: - Bỏ tôi ra, đồ khốn nạn. Khi tôi đẩy được gã ra liền chạy đi, ai ngờ gã túm lấy tóc tôi giật ngược lại về sau rồi tát tôi 1 cái đau khủng khiếp: - Mẹ mày, mày nói ai là đồ khốn nạn đấy? Bố mày lại băm chết cụ mày giờ. Tôi đã bắt đầu có những tiếng khóc, trời lại tối chẳng rõ được mặt gã, 2 tay chỉ biết vung loạn xạ mà đánh trả lão rồi la lớn lên: - Cứu tôi với, làm ơn...có ai không? Gã vẫn không chịu buông tôi ra, thêm phần trời mưa to, sấm chớp đánh mạnh nên hầu hết mọi nhà đều đóng cửa không nghe thấy. Lúc này gã liền đấm mạnh vào bụng tôi, cơn đau khủng khiếp kéo đến khiến tôi không còn sức kháng cự. Gã túm đầu tôi kéo vào bên trong cái chòi, đẩy tôi ngã xuống đất. Tôi gào khóc khủng khiếp, lồm cồm ngồi dậy muốn bỏ chạy khỏi con thú hoang này nhưng gã nhanh tay túm được chân tôi kéo lại, 2 bàn tay bẩn thỉu dùng sức cởi khoá quần của tôi. Tôi kinh hãi cố gắng dẫy đạp, rồi gào lên: - Cút, thằng chó, tránh xa khỏi tao.....Có ai ngoài đó không? Cứu tôi. Lời vừa dứt, lão tát tôi thêm 1 cái nữa, sức của đàn ông làm tôi choáng váng: - Con đĩ, câm mồm cho bố mày không tao giết đấy. Tiếng sấm lớn vang trời, cơn mưa rào khủng khiếp, trời tối đen như mực, tất cả như đang hùa với gã mà chống lại tôi. Thi thoảng vài tia chớp loé lên, tôi chỉ kịp nhìn thấy đôi mắt đỏ ngàu như mãnh thú của gã, bàn tay vơ vội nắm đất ném vào mặt gã. Ông trời không có mắt, gã ra sức tát tôi rồi lại đấm vào bụng, cả người đau ê ẩm làm tôi chẳng còn sức chống cự. Chiếc áo sơ mi ướt nhẹp bị cởi phăng ra, quần bò cũng được kéo xuống đến cẳng chân, từng khấc da thịt tôi bị gão bấu xé đến đau nhức. Tôi còn chỉ biết gào khóc với trời, ai đó làm ơn giúp tôi thoát khỏi tên súc vật này. Nhưng trời cao chẳng nghe thấy, cái cảm giác đau đến xé da thịt khi gã đưa cái thứ bẩn thỉu ấy vào trong người tôi, nó thật khủng khiếp. 2 bàn tay tôi cào xuống mặt đất đến tứa máu, nước mắt với mưa ngoài kia phả vào làm người run rẩy và đau xót. Lần đầu tiên của tôi, cuối cùng cũng đã mất, mất bởi 1 kẻ say không rõ mặt, ở một nơi bẩn thỉu đến ngay cả chiếc giường cũng chẳng có, nó thê thảm và nhục nhã vô cùng. Con súc vật ấy ở trên người tôi mà bộc lộ thú tính, giọng nói của gã làm tôi ghê tởm, cơn đau từ phía dưới vẫn kéo đến từng đợt quặn thắt. Sau khi thoả mãn, gã mặc lại quần áo rồi bỏ đi như chưa có chuyện gì. Cả người tôi đau nhức gắng gượng ngồi dậy, giữa trời đen mà mò mẫm từng cái áo, cái quần mặc vào. Nước mắt suốt từ khi ấy đến giờ vẫn chưa ngừng lại, tôi thất thần lê từng bước dưới trời mưa giông đấy, ngửa mặt lên nhìn 1 mảng đen uất hận mà nức nở khóc. Tôi trở về nhà, cố giấu bố mẹ truyện này. Mẹ tôi thấy tôi ướt nhũn cũng lên tiếng hỏi: - Mưa sao không ở lại trú lúc rồi về? Tôi cố quay mặt mình về phía không ánh sáng mà nói: - Con thấy mưa lâu tạnh nên không trú nữa, giờ vào tắm 1 cái là được. Nói rồi tôi cũng né nhất có thể đi vào lấy quần áo rồi chạy vội vào nhà vệ sinh, đã phải dùng hết mấy chậu nước mới cảm thấy mình sạch sẽ 1 chút rồi mới trở về phòng mình. Thấy con Út đang nằm say sưa ngủ, tôi vẫn phải nhẹ nhàng trèo lên giường rồi quay lưng về phía nó, nước mắt lại chảy trào ra trong sự cố kìm nén của tôi. Tháng ngày về sau qua đi, tôi cố gắng quên cái đêm ám ảnh đấy nhưng có lẽ kiếp trước tôi gây nghiệp nên kiếp này phải gánh lấy hậu quả. Bụng tôi qua thời gian mỗi lúc 1 lớn lên, đến khi mẹ tôi sinh nghi và đưa đi khám mới biết thai đã được 6 tháng. Tôi còn nhớ cái ngày hôm ấy, bà mặc kệ tôi manh bụng chửa cầm cán chổi vụt vào người tôi rồi chửi: - Mẹ mày, đúng là con mất dạy, mày còn không nói là của đứa nào? Tôi khóc lóc đến sưng húp cả mắt, 2 tay cứ ôm lấy người minh mà nức nở nói: - Mẹ ơi, con xin lỗi, nhưng con thật sự không biết? Con là bị cưỡng bức. Bố tôi lúc này ở trong nhà ném cái ghế gỗ ra ngoài rồi quát lớn: - Mày còn già mồm à? Hay là ngủ với nhiều thằng quá nên không biết? Đúng là loại con gái hư hỏng, mày cút khỏi đây đi. Đừng bôi tro chát trấu vào mặt bố mẹ mày. Con Út thấy tôi bị đánh chạy lại ôm lấy chân mẹ tôi mà gào khóc: - Mẹ ơi, mẹ đừng đánh chị Thuỳ nữa, chị Thuỳ rất thương Út. Mẹ tôi vì giận quá cũng đẩy con Út ra làm nó ngã xuống rồ gào lên, tôi thấy vậy khóc lóc định chạy lại đỡ lấy nó thì bà lại cầm cán chổi vụt vào người tôi: - Loại mất nết, tao phải đánh chết mày! Thằng Tèo lúc này đi học về thấy vậy liền chạy lại đỡ lấy con Út rồi dỗ dành, nó đủ lớn cũng đủ sợ bởi những trần đòn từng chịu nên chẳng dám lao vào can ngăn. Bà con hàng xóm đã bắt đầu kéo sang đông rồi xúm lại, lúc này cô Hiền, nhà bên cạnh nhà tôi liền chạy đến can ngăn: - Thôi, đừng đánh nó nữa, chuyện đã lỡ rồi, giờ nó còn đang bụng mang dạ chửa, không may có như thế nào hỏng cả mẹ lẫn con thì lúc đấy hối không kịp. Bố tôi nghe vậy gương mặt tức giận rõ rệt mà quát lên: - Loại nó là phải đánh chết, sống làm gì cho xấu mặt. Tôi lúc này chỉ biết ôm cái bụng to của mình mà đứng đấy khóc. Không ai hiểu cho tôi, không ai tin tôi, tất cả chỉ trong phút chốc đều quay lưng lại, tôi đau ghê gớm, đau cả thể xác, đau lẫn tinh thần. Sau vài lời khuyên của mấy người hàng xóm, bố mẹ tôi mới dần xuôi, tôi cũng từ đấy mang thêm cái mác "con chửa hoang" ở trong cái làng này, để rồi đi đâu cũng bị mấy bà tám chuyện lôi ra bàn tán như vậy đấy. Mới đầu bị nói tôi còn tủi thân khóc, nhưng sau quen rồi nên cũng cố chai lỳ mà lờ họ đi. Giống như hôm nay, mấy bà vừa nói vừa chỉ trỏ đấy, tôi còn đi lại cười rồi chào từng người, sau đó còn thêm cho câu: "Hôm nay cháu thấy con A/thằng B nhà cô/nhà bác mới đi với ai vào nhà nghỉ ấy. Không nói khéo lại ỉnh ra thì khổ." Đấy, cứ phải đáp trả như vậy tôi mới hả dạ được. Con người mà, kẻ nào yếu thì kẻ đó thua thôi. Tôi đi trở về căn nhà mái ngói lụp xụp, con Út thấy bóng tôi từ trong nhà chạy ra ôm lấy chân tôi rồi xoa cái bụng đang lớn: - Chì Thuỳ, em bé sắp ra ngoài chưa? Tôi vòng tay xoa lấy đầu nó rồi dẫn vào trong nhà nói: - Sắp rồi, còn 1 tháng nữa là Út được bế cháu. Con bé nghe vậy thích lắm nhảy tưng tưng. Mẹ tôi lúc này từ trong bếp đi ra nói: - Làm sao rồi? Tôi nghe vậy nét mặt có chút buồn nhìn bà: - Con hỏi vài nơi nhưng không ai nhận cả. Bà lúc này cáu lên: - Ai mà nhận con chửa như mày làm. Rồi không may làm việc có sao thì họ gánh cục nợ à? Tôi nghe bà nói vậy cũng tủi thân lắm nhưng cố nhịn mà cúi mặt đi vào nhà thì bà lại lẽo đẽo theo sau: - 5 cái miệng ăn chưa đủ còn rước thêm cục nợ về nhà. Rồi đẻ đái thì bán nhà đi, con với cái, không biết kiếp trước tao gây ra nghiệp gì nữa! Tôi lúc này đã không nhịn được nữa mà ứa nước mắt ra rồi nói: - Mẹ không phải lo, con tự lo được! - Mày lo cái thân mày còn chưa xong thì mày đòi lo cái gì? Việc làm không có, rồi ôm cả cái cục nợ kia, đời chỉ có bốc cứt mà ăn. Tôi thực sự không thích bà nói đứa bé trong bụng là cục nợ. Cho dù nó không có bố, nhưng nó cũng là máu mủ của tôi, là cháu ngoại của bà, tại sao bà lại có thể cay nghiệt như vậy: - Con lo thế nào thì kệ con, mẹ không phải quan tâm. Có bốc cứt thì cũng là con chứ không phải ai cả mà mẹ phải lên tiếng. - A, con này, tao đang nuôi 2 đứa mày mà nói mày còn cãi lại à? Bố tôi lúc này từ ngoài đi vào lại quát: - Vả vào mồm nó, đúng là cái loại mất nết, loại bất hiếu. Tôi nghe đến đấy đã chẳng thể nào kìm chế nổi. Đi ra ngoài thì thiên hạ chửi bới, trở về nhà thì bố mẹ mỉa mai. Bao nhiêu uất ức tôi cố nhẫn nhịn liền bùng phát lên. Tôi gào trong nước mắt: - Bố mẹ cứ hở tí là đòi đánh con, ngày không đánh thì ngày lại chửi. Dù sao đứa bé cũng là cháu ngoại của bố mẹ mà. Ai ngờ tôi vừa dứt, bố tôi đi lại tát vào mặt tôi một cái rồi giận dữ nói: - Tao không có cái loại cháu hoang này. Gương mặt tôi đã đầm đìa nước mắt, tôi đưa tay lên ôm lấy 1 bên má đỏ rộp mà nhìn ông uất ức rồi gào lên: - Con không ở cái nhà này nữa? Con sẽ đi khỏi đây cho bố mẹ vừa lòng. Nói rồi tôi cũng bỏ chạy ra phía ngoài, bố tôi ở sau còn nói với theo: - Mày đi được thì mày đi luôn đi, đừng mò về đây nữa. Tôi khó lóc chạy ra đến phía cổng, thì con Út đang chơi bên hàng xóm chạy về thấy tôi liền túm lấy: - Chị Thuỳ, chị đi chơi à, cho Út đi với. Tôi nhìn thấy nó mà lòng đau khủng khiếp, từ từ ngồi xuống rồi đưa tay lên ôm lấy má nó, nói trong nước mắt: - Út ở nhà ngoan, nghe lời bố mẹ. Chị Thuỳ đi làm về sẽ mua nhiều đồ chơi cho Út nhé. Con bé nghe vậy lại không chịu liềm túm lấy tay tôi rôi mếu máo: - Không, Út không chịu đâu. Chị Thuỳ đừng đi. Nghe nó nói vậy mà cổ họng tôi nghẹn đắng, chậm rãi quay đầu lại phía sau nhìn căn nhà cũ kỹ đã từng là mái ấm mà chợt thấy đau lòng. Tôi quay lại hôn nhẹ vào trán con Út rồi nói: - Út ngoan, Út sẽ nghe lời chị Thuỳ nhé. Nói rồi tôi cũng đẩy con bé ra mà chạy đi, con Út thấy vậy lại khóc lóc đuổi theo 1 đoạn rồi ngồi phịch xuống đất mà gào lên. Tôi lúc này cứ phải tự nhủ lòng mình "không được quay lại, không được quay lại" mà cứ chạy thẳng về phía trước, về một tương lai mờ mịt mà tôi cũng chẳng thể nào rõ nữa.   Mời các bạn đón đọc Gái Một Con của tác giả Nguyễn Nhật Thương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Danh Sách Của Schindler
Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Bản danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. *** Review Trần Thông:   Trong “Danh sách của Schindler”, Thomas Keneally đã kể chi tiết về cuộc đời của một nhà tài phiệt người Đức tên là Sudeten, người thành lập một nhà máy sản xuất men ở thành phố Krakow của Ba Lan nhưng dường như nó đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Oskar Schindler là một người đàn ông có uy tín và có khả năng kinh doanh đáng nể trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng có một cuộc chiến khác nổ ra ở một nơi toàn cảnh đẹp như tranh vẽ ở Đông Âu -một cuộc chiến sẽ in hằn vết sẹo vào sâu trong lịch sử loài người: cuộc đàn áp người Do Thái. Schindler theo dõi những người Do Thái ở Krakow, mỗi người có câu chuyện của riêng mình, kể về những điều kiện chật chội của khu ổ chuột trong thành phố, bị cắt đứt khỏi cuộc sống và sau đó bị đuổi ra khỏi trại lao động đầy áp bức bóc lột dưới sự cai trị của chỉ huy tàn bạo, Amon Goeth. Nhưng trong cái bóng của sự tham lam kiếm tiền của Schindler, anh ta thể hiện một sự từ bi và lòng nhân hậu đối với các nhân viên Do Thái của mình. Với sự giúp đỡ của một kế toán viên, đồng thời cũng là người bạn lâu năm tên là Itzhak Stern, Schindler đã lập ra một danh sách không bình thường. Bằng cách thêm tên các công nhân vào danh sách, Schindler khiến họ không còn bị hỗn loạn và tàn sát ở Plaszow, mà thay vào đó là thiên đường – nơi nhà máy của anh ta đang hoạt động. Bằng cách mua chuộc các quan chức bằng những đồng tiền đen bạc, Schindler “di chuyển ngầm” bên dưới vòng quay của chế độ chuyên chế gây ra khủng hoảng cho thành phố này và cuối cùng cứu được 1.200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái khỏi các buồng khí của Auschwitz và Gross-Rosen. Schindler Juden sống ở mọi nơi trên thế giới và đến năm 1993, Schindler đã cứu được 6.000 trẻ em và cháu của mình một cách hiệu quả. Oskar Schindler qua đời năm 1974 và, như Keneally viết, ông được thương tiếc trên toàn thế giới. Việc câu chuyện này là có thật đã cho tôi rất nhiều niềm tin vào nhân loại. Tôi phải thừa nhận rằng cuốn sách này là tuyệt vời về mọi phương diện. Chủ đề được tiếp cận với sự nhạy cảm của tác giả khiến cho mọi câu văn trở nên cực kỳ dễ đọc. Câu chuyện không chỉ lướt qua sự tàn bạo của các sự kiện, như nhiều cuốn sách khác đã làm mà “Danh sách của Schindler” chính xác là một tiểu sử được tạo ra với cùng một kiểu tinh tế của một tác phẩm văn học. Oskar Schindler là một con người lang thang, một người nghiện rượu. Và mặc dù anh ta không bao giờ là một người chồng tốt với người vợ thẳng thắn của mình nhưng anh ta đã cứu sống 1.200 người. Thật đáng khâm phục. *** Oskar Schindler sinh ra ở Sudetenland nói tiếng Đức. Khi còn trẻ, ông là một thành viên của Đảng Quốc xã và khi chiến tranh bắt đầu, ông đã thành lập một nhà máy ở Cracow để sản xuất hàng hóa cho Quân đội Đức. Ông nhanh chóng trở nên rất giàu có với tư cách là một trong những tầng lớp tinh hoa của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, ông và vợ Emilie trở nên kinh hoàng trước cách đối xử với người Do Thái và nhanh chóng bắt đầu thu xếp để bảo vệ những người lao động Do Thái của họ, chủ yếu bằng tiền của họ. Vào cuối cuộc chiến, họ đã cứu khoảng 1200 người Do Thái. Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. ​*** Năm 1980 tôi vào một tiệm bán vali ở Beverly Hills, California hỏi giá cặp tài liệu. Chủ tiệm là Leopold Pfefferberg, một cựu tù sống sót của Schindler. Chính tại đây, dưới những giá đồ da nhập khẩu từ Ý của Pfefferberg, lần đầu tiên tôi được nghe về Oskar Schindler, gã lãng tử phong lưu người Đức, nhà đầu cơ, kẻ mê hoặc, biểu tượng của sự đối lập, và về nỗ lực của Oskar nhằm giải cứu một bộ phận của một chủng tộc bị tru di, trong những năm tháng về sau được biết tới qua cái tên chung là Holocaust. Cuốn sách về cuộc đời oanh liệt của Oskar này trước hết dựa trên nội dung phỏng vấn năm mươi cựu tù ở bảy quốc gia - Australia, Israel, Tây Đức, Áo, Mỹ, Argentina và Brazil. Nó được làm phong phú thêm bằng một chuyến đi, được sự đồng hành của Leopold Pfefferberg, đến các địa điểm xuất hiện nổi bật trong sách: Cracow, nơi Oskar chọn làm quê hương; Płaszów, nơi đặt trại lao động khủng khiếp của Amon Goeth; phố Lipowa, Zablocie, nơi ngày nay nhà máy của Oskar còn đứng đó; Auschwitz-Birkenau, từ đây Oskar đã giải cứu đoàn tù nữ. Những câu chuyện còn căn cứ vào hồ sơ tư liệu và những thông tin khác từ một vài cộng sự thời chiến của Oskar mà tác giả còn có thể tiếp cận, cũng như đông đảo bạn bè thời bình của ông. Nhiều lời chứng chi tiết về Oskar, do các cựu tù Do Thái gửi tới Yad Vashem, Cơ quan Tưởng niệm các Anh hùng và bậc Tử vì đạo, giúp câu chuyện thêm phong phú hơn nữa. Bên cạnh đó là lời chứng bằng văn bản từ các nguồn riêng và bộ sưu tập giấy tờ, thư tín của Schindler, một số của Yad Vashem, số khác do bạn bè Oskar cung cấp. Sử dụng chất liệu cùng thủ pháp tiểu thuyết để kể một câu chuyện có thật là lối đi quen thuộc của văn chương hiện đại. Đó cũng là con đường tôi lựa chọn ở đây - vì viết tiểu thuyết là kỹ năng duy nhất tôi nắm chắc, và các kỹ thuật tiểu thuyết có vẻ phù hợp với một nhân vật mơ hồ và có tầm vóc như Oskar. Dù vậy tôi vẫn cố gắng hạn chế hư cấu hoàn toàn, vì hư cấu sẽ xói mòn giá trị của câu chuyện, và cố gắng phân biệt hiện thực và những huyền thoại thường gắn liền với một con người tầm cỡ Oskar. Đôi khi tôi buộc phải tái tạo một cách hợp lý những đối thoại mà Oskar và các bên tham gia chỉ để lại ký lục hết sức vắn tắt. Song phần lớn các trao đổi và đối thoại, cùng mọi sự kiện, đều căn cứ theo hồi ức chi tiết của các Schindlerjuden (người Do Thái của Schindler), của bản thân Schindler, và nhiều người khác có cơ hội chứng kiến nghĩa cử phi thường của Oskar. Trước tiên, tôi xin cảm ơn ba cựu tù sống sót của Schindler - Leopold Pfefferberg, Thẩm phán Moshe Bejski tại Tòa án tối cao Israel, và Mieczyslaw Pemper - những người không chỉ gửi gắm cho tác giả ký ức của mình về Oskar, và cung cấp tài liệu góp phần vào sự chính xác của câu chuyện, mà còn đọc bản thảo đầu tiên và góp ý những điểm cần sửa chữa. Nhiều người khác, từ các cựu tù cho đến đồng sự của Oskar thời hậu chiến, đã trả lời phỏng vấn và nhiệt tình đóng góp thông tin qua thư tín và tài liệu. Trong số đó có Frau(1) Emilie Schindler, bà Ludmila Pfefferberg, tiến sĩ Sophia Stern, bà Helen Horowitz, tiến sĩ Jonas Dresner, ông bà Henry và Mariana Rosner, ông Leopold Rosner, tiến sĩ Alex Rosner, tiến sĩ Idek Schindel, tiến sĩ Danuta Schindel, bà Regina Horowitz, bà Bronislawa Karakulska, ông Richard Horowitz, ông Shmuel Springmann, ông Jakob Sternberg quá cố, ông Jerzy Sternberg, ông bà Lewis Fagen, ông Henry Kinstlinger, bà Rebecca Bau, ông Edward Heuberger, ông bà M. Hirschfeld, ông bà Irving Glovin, và còn nhiều nữa. Tại thành phố quê tôi, ông bà E. Korn không chỉ chia sẻ hồi ức về Oskar mà còn là nguồn động viên thường trực. Tại Yad Vashem, tiến sĩ Josef Kermisz, tiến sĩ Shmuel Krakowski, Vera Prausnitz, Chana Abells, và Hadassah Mödlinger đã tạo điều kiện rộng rãi cho tôi tiếp cận hồ sơ nhân chứng về Schindler và các tư liệu phim, ảnh liên quan. Sau cùng, tôi muốn tôn vinh nỗ lực của ông Martin Gosch nhằm đưa cái tên Oskar Schindler đến với thế giới, và bày tỏ lòng cảm ơn bà quả phụ Lucille Gaynes, về sự hợp tác với dự án này. Nhờ sự hỗ trợ của tất cả mọi người, câu chuyện phi thường của Oskar Schindler đã lần đầu tiên xuất hiện một cách trọn vẹn. TOM KENEALLY (1) Tiếng Đức: cô, bà, dùng cho người phụ nữ đã kết hôn. ​ Mời các bạn đón đọc Danh Sách Của Schindler của tác giả Thomas Keneally.
Đứa Trẻ Lạc Loài
Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa (1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của David James Pelzer. Ông sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Phải ra toà để được bảo vệ, trải qua 6 lần làm con nuôi, Dave Pelzer đã vượt đã vượt lên nghịch cảnh để đưa tiếng nói của mình - tiếng nói của một người trong cuộc - đến với cộng đồng, với những người có trách nhiệm. Tác phẩm của ông tạo được sự quan tâm sâu sắc trong dư luận và trở thành nguồn khích lệ quan trọng để nhiều nạn nhân vươn lên và công khai "bí mật" của mình ra thế giới, trong số đó có nữ tác giả Jane Elliott với tác phẩm tự truyện "Người tù bé nhỏ" nổi tiếng, trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Anh năm 2005. "Đứa Trẻ Lạc Loài là quyển sách về tình yêu và những cống hiến không thể phủ nhận mà các tổ chức xã hội và các gia đình có con nuôi đã đem lại cho trẻ em trong con nguy hiểm. Chính Dave Pelzer là một bằng chứng sống cho lòng kiên cường, tinh thần trách nhiệm và sức mạnh của ý chí của con người" (- John Bradshaw) *** Giờ có được một mái nhà. Tài sản duy nhất của cậu là những bộ quần áo cũ kỹ rách nát đựng trong một chiếc túi bằng giấy. Thế giới của cậu tràn ngập trong bóng tối và nỗi sợ hãi. Cho dù đã được giải thoát khỏi người mẹ nghiện ngập, nhưng những tổn thương của cậu bé này thực sự mới chỉ bắt đầu - bởi cậu không có nơi nào để gọi là nhà. Đây là phân đoạn được chờ đợi từ lâu của Dave Pelzer sau Không Nơi Nương Tựa. Những câu trả lời sẽ được hé lộ, những chuyến phiêu lưu mạo hiểm của tác giả - lúc này đã là một cậu bé vị thành niên - sẽ được kể lại trong câu chuyện đầy lôi cuốn này. Giờ đây, với thân phận là một đứa con nuôi, cậu bé David lại chịu cảnh thay đổi chỗ ở liên tục với tổng cộng sáu gia đình trong suốt thời niên thiếu. Nước mắt và nụ cười, sự thất vọng và hy vọng - tất cả đan quyện trong cuộc hành trình liều lĩnh của cậu bé lạc loài này trên con đường tìm kiếm một mái ấm gia đình. Đứa Trẻ Lạc Loài là câu chuyện có thật, nên nó có khả năng khơi gợi những rung cảm sâu kín nhất trong bạn, mang đến cho bạn cảm hứng yêu thương và hy vọng mạnh mẽ hơn bất kỳ câu chuyện tưởng tượng nào. - First News *** Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.c. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzjsr.com *** Review Nguyễn Hùng: Đây là cuốn sách thứ hai trong series kể về cuộc đời mình của Dave Pelzer (tên thật là David Pelzer ) , sau cuốn ''Không nơi nương tựa ''. Nếu bạn muốn biết vì sao người mẹ của tác giả lại bạo hành cậu như vậy mà cậu không trốn đi, và vì sao người cha lại không bảo vệ cậu- những điều mà cuốn sách thứ nhất chưa đề cập đến, thì cuốn sách này sẽ là đáp án. Tiếp nối phần một, David đã ăn cắp và bị bắt. Khi ở tòa, cậu đã khai ra những gì mình đã phải chịu đựng dưới sự bạo hành của mẹ ruột mình. Và cuối cùng, cậu được tòa án giúp, được một nhà khác nhận nuôi. Cho dù được cứu thoát ra khỏi căn nhà đầy tàn nhẫn với những trò hành hạ quái ác ấy, tuy nhiên con đường phía trước cậu đi cũng vô cùng gian nan, thử thách không kém. Với thân phận chỉ là con nuôi không hơn không kém, cậu đã trải qua 6 lần đổi người nhận nuôi. Tôi thấy thương nhân vật khi bị cộng đồng xa lánh, ghét bỏ. Chính vì thế, David đã cháy bỏng khát khao được hòa nhập với thế giới con người hơn bất cứ ai hết, và làm mọi điều để được đối xử như một con người, thậm chí kết bạn với những đứa ăn trộm và theo chúng. Tuy biết mình sai, nhưng trong thâm tâm David vẫn cảm thấy vui sướng - niềm vui của một kẻ chưa bao giờ nhận được tình yêu thương của người khác trong quá khứ. Chính vì thế, nhan đề cuốn sách mới là ''Đứa trẻ lạc loài ''. Đọc chỗ này, tôi lại nghĩ đến Chí Phèo -cũng muốn được làm người. Đọc truyện, ta luôn thấy một David luôn cố gắng vươn lên trong mọi hoàn cảnh khó khăn, nhưng vẫn không che lấp được tính cách của một cậu bé thuộc độ tuổi từ 12 tuổi đến 18 tuổi: đôi khi bốc đồng, nông nổi... Và cũng xúc động khi nhân vật vẫn luôn yêu người mẹ mà đã hành hạ, thậm chí đốt tay anh; yêu người cha không bao giờ bảo vệ mình. Chính điều đó đã làm nên sự khác biệt của nhân vật.Qua nhân vật trong truyện, ta còn có thể hiểu rõ một phần cốt cách, nội tâm những đứa trẻ bất hạnh trong xã hội, hiểu sâu hơn về cuộc sống. *** Tháng 12 năm 1993, Hạt Sonoma, California. Tôi ngồi một mình. Trời lạnh đến nỗi toàn thân tôi run lên bần bật. Các đầu ngón tay của tôi tê cóng. Những đám mây xám xịt cứ vần vũ trên nền trời. Từ những dãy đồi xa xa, hàng loạt tiếng sấm rên vang cả đất trời vọng lại. Mưa bắt đầu lất phất. Tôi không mấy quan tâm đến cái lạnh mỗi lúc một thấu xương. Tôi ngồi trên một khúc cây già nua mục nát trên bãi biển trải dài vắng bóng người. Tôi yêu lắm những phút giây được ngắm nhìn cảnh tượng hùng vĩ của những ngọn sóng xanh biếc dũng mãnh xô vào nhau thành một đợt sóng lớn rồi vỗ mạnh vào bờ. Tôi có thể cảm nhận rõ hơi biển mặn chát đang áp chặt lấy người mình. Trong lòng tôi thấy rất ấm áp. Tôi không còn sợ mỗi khi phải ở một mình nữa. Trái lại, tôi thích được một mình dể chiêm nghiệm những gì mình đã trải qua. Trên cao, đàn chim mòng biển kêu quang quác gọi nhau, chao lượn rồi ào xuống bờ biển tìm thức ăn. Chừng vài phút, cả đàn cất cánh bay Un cao. Một con mòng biển đập cánh phành phạch, chới với tụt lại đằng sau. Càng ra sức đập cánh, nó như càng không thể bắt kịp đàn. Cả đàn vút đi, chỉ còn lại mình nó chao nghiêng lượn lờ sát mặt biển. Thình lình, nó cắm mỏ xuống cát, tập tễnh trên bàn chân có màng màu cam. Sau một hồi tìm kiếm, nó cũng tìm được một mẩu thức ăn. Bỗng từ đâu một đàn mòng biển lại xuất hiện, bay lượn rồi ùa xuống chỗ con mòng biển yếu ớt kia hòng cướp lấy thức ăn. Con chim đơn độc dường như hiểu được rằng nó không thể bỏ chạy, vậy nên nó cứ đứng đó và cắn mổ chống trả bất cứ con chim nào đến gần. Cuộc chiến sinh tồn chấm dứt, đàn chim tan tác bay đi... Con mòng biển rít lên một hồi dài như thể tuyên bố mình vừa chiến thắng. Tôi chạnh lòng, nhớ lại khoảng thời gian tăm tối mình đã phải đấu tranh thế nào để có được cái ăn và cho cả sự sống còn khi mang thân phận một đứa con nuôi. Mong muốn được chấp nhận, được yêu thương luôn cháy bỏng trong tôi. Tôi cũng luôn hoài niệm về quá khứ, luôn loay hoay với câu hỏi “tại sao” về mảng đời tấm tối và đau thương mình đã trải qua. Nhưng càng lớn, tôi hiểu mình phải khép lại cánh cửa ấy để mở lối đi riêng cho cuộc sống mới phía trước. Tôi gia nhập Lực lượng Không quân Hoa Kỳ, thực hiện mơ ước của cuộc đời mình là được bay lượn trên bầu trời cao vút. Khi trưởng thành, tôi làm được nhiều điều từng tâm niệm. Tôi cũng đã quay trở về thăm lại mẹ ruột và hỏi bà ấy câu hỏi quan trọng nhất cuộc đời mình: Tại sao? Nhưng trên hết, tất cả những gì tôi đã trải qua càng khiến tôi thêm yêu thương cuộc sống mình đang có. Tiếng kêu quang quác của con mòng biển làm tôi chợt tỉnh. Hai bàn tay tôi run lên, nhưng không phải vì lạnh. Tôi khẽ lau nước mắt. Tôi không khóc cho bản thân mình, tôi khóc cho mẹ. Toàn thân tôi run lên. Tôi không thể kìm nén cảm xúc. Tôi khóc cho người cha và người mẹ mà tôi mãi mãi không bao giờ có được vòng tay ấp ủ của họ. Tôi lặng im, thổn thức khóc như một đứa trẻ. Tôi nhắm mắt lại, thì thầm cầu nguyện. Tôi cầu xin cho mình được sáng suốt để trở thành một con người mạnh mẽ hơn và tốt đẹp hơn. Khi đứng dậy, đối mặt với mặt biển xanh ngắt, tôi thấy lòng mình thật nhẹ nhàng, tinh trong. Đã đến lúc tôi phải đi tiếp rồi. Tôi bế Stephen lên xe rồi lái xe đến ngôi nhà thứ hai của mình - vi-la Rio ở Monte Rio. Nét đẹp yên bình của vi-la Rio vẫn luôn khiến tôi ngơ ngẩn. Nhìn thấy mắt tôi vẫn còn hoe hoe đỏ, thằng bé ôm choàng lấy cổ tôi rồi hỏi: - Cha có sao không? Mặc dù mới chỉ là một đứa trẻ, nhưng thằng bé luôn tỏ ra nhạy cảm hơn lứa tuổi của nó. Tôi ngạc nhiên vì đôi khi Stephen còn đọc được cả những cảm xúc sâu kín nhất của tôi. Ngoài việc là một đứa con trai đầy tình cảm, Stephen còn là một trong những người bạn thân nhất của tôi. Suốt buổi chiều hôm đó, Stephen và tôi cùng đi dọc bờ Dòng Sông Nga. Mùi thơm đậm của gỗ cháy hòa lẫn với hương thơm ngọt ngào của những cây tùng bách gỗ thoảng trong gió chiều. Mặt nước sông xanh ngất, trong veo và phẳng lặng. Khi mặt trời dần khuất sau ngọn Si, hình ảnh phản chiếu của mấy cây thông già trên mặt nước sông càng thêm huyền ảo. Một làn sương mù như tấm chăn trắng mềm từ núi Si phủ xuống dòng sông. Hai cha con tôi nắm tay lặng im đi bên nhau, cổ họng tôi như nghẹn lại. Tôi thấy mình hạnh phúc quá Si. Bỗng Stephen siết chặt tay tôi: - Cha ơi, con yêu cha. Chúc mừng Sinh nhật cha. Nhiều năm trước, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến một mái ấm thật sự. Nhung ngày hôm nay, tôi đã có được những thứ mà bất cứ ai cũng mơ ước - một cuộc sống, với tình yêu ngập tràn của đứa con trai. Tôi đã có một gia đình thật sự! Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Lạc Loài của tác giả Dave Pelzer.
Số Không
“Số không” - tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp Umberto Eco khiến người đọc không ngừng tự vấn: “Đâu mới là sự thật trước những gì truyền thông đang trưng trổ, phơi bày?”   Bên dưới một Milano hiện đại là “một Milano của cha tôi, của anh tôi”, một Milano mang trong lòng nó nhiều bí ẩn. Ở đó, người ta chứng kiến những đổi thay diễn ra hằng ngày nhưng vì mỏi mệt nên chẳng màn lưu tâm hoặc vì chén cơm manh áo mà đành ngoảnh mặt. Tờ Ngày mai và 12 Số Không Một nhóm 6 cây bút, nếu không muốn nói là 6 người thất bại, được tập hợp lại chuẩn bị cho sự ra đời của tờ Ngày mai gồm 12 Số Không từ 0/1, 0/2 đến 0/12 trong vòng một năm, dưới tay trụ cột Simei. Viễn cảnh của tờ Ngày mai sẽ chẳng được như cái tên sáng lạng, đầy tương lai của nó, bởi nó là một tờ báo ‘ma’ “chỉ in ít bản, để ông chủ đánh giá rồi chuyển cho ai tùy thích” nhằm uy hiếp những nhân vật quyền thế với mục đích bước vào thánh địa ‘tài chính, ngân hàng và có lẽ là những tờ báo lớn’ của Vimercate - ông chủ tờ báo - nhân vật kiểm soát “hàng chục khách sạn bên bờ biển Adriatic, rất nhiều viện dưỡng lão, một loạt các phi vụ buôn bán gây xôn xao dư luận, một vài kênh truyền hình địa phương...” Colonna, trợ lý chủ bút, bề ngoài có nhiệm vụ thống nhất phong cách, chủ trương của tờ báo với nhóm phóng viên, thực chất là viết cuốn sách về tờ báo này với tên gọi Ngày mai - hôm qua. Điều này, tất nhiên, chỉ có Simei và Colonna biết. Chủ trương để tờ báo hoạt động là tránh càng xa càng tốt các vấn đề liên quan đến tài chính, môi trường, mafia, quan chức… Tóm lại, tránh xa tất tần tật những thứ có thể mang lại rắc rối cho tờ báo cũng như gây hấn đến bất kỳ bang hội nào. Thứ duy nhất mà nó hướng đến là độc giả bình dân “không hề đọc nổi một cuốn sách nhưng có thể kể vanh vách cuốn sách nào đang bán chạy” bằng cách tập trung chúi mũi vào tin tức giật gân nhằm kích hoạt trí tò mò của họ, những ám dụ kỳ thị vùng miền hay mục tử vi vô thưởng vô phạt có thể “áp dụng cho tất cả mọi người, từ cô nữ sinh 16 tuổi cho đến bà cụ 80”. Những chiêu trò của giới làm báo được Eco phơi bày đầy giễu nhại và hài hước. “Không phải tin tức làm nên tờ báo mà tờ báo làm nên tin tức” - Simei dõng dạc. Và nhiều lần tái khẳng định: “Chính chúng ta là những người tạo tin, và chúng ta cần biêt cách để nó tự nổi lên đằng sau những con chữ”. Viết báo, không đơn giản là viết để chuyển tải sự thật mà còn là cắt ghép như thế nào để người đọc tự rơi vào ‘bẫy’, khám phá những điều nhà báo ám chỉ. “Cái ám chỉ lợi hại nhất là nêu ra những dữ kiện vốn chẳng có giá trị nào nhưng lại có thật, không phủ nhận được”. “Các cơ thể hồng hào của thiên thần là gì nếu không phải lớp vỏ bọc lừa dối khoác ngoài mọt bộ xương, cho dù có thuộc nơi thiên đàng đi nữa”.  “Sự thực còn vượt quá trí tưởng tượng và giờ chẳng ai có thể tưởng tượng điều gì nữa” Song song với hành trình của tờ Ngày mai, những bí ẩn bên của Milano dần dần lật mở qua cuộc điều tra của Braggadocio - một cây bút có tiểu sử gia đình dính dấp đến phe phát xít, luôn hoài nghi và không bao giờ nhằm mắt tin vào bất cứ thông tin gì, trừ phi có bằng chứng hẳn hoi: “Báo chí dối trá, truyền hình dối trá, các nhà sử học cũng nối dối nốt”. Bối cảnh châu Âu, cụ thể hơn là cách vận hành của thể chế, xã hội Ý từ sau chế độ độc tài Mussolini tan rã được tái hiện qua cuộc trò chuyện với tần suất ngày một nhiều và dày đặc thông tin giữa Colonna và Braggadocio. Bên thắng cuộc không ngừng công kích, trừng phạt, xỉ vả bên thua cuộc, ca ngợi những huyền thoại đẫm lệ, hùng tráng mà không màn đến sự thật hoặc bỏ qua sự thật, không đủ bình tĩnh để kiểm chứng hay không muốn chấp nhận sự thật? Những-thịt-da, máu mủ nhuộm đỏ quảng trường trong cơn hả hê của những ‘hung thần lên cơn khát’, những cái bóng ẩn dật của các phe phái, thiết chế chính trịnh cất giữ hàng loạt bí mật, bưng bít sự thật. Khiếp sợ thể chế, báo chí thời điểm đó cùng tiếp tay tung hê, đưa những thông tin rời rạc thay vì kiếm tìm và đi đến tận cùng của sự thật, của lịch sử. Có gì ngạc nhiên đâu khi trong dòng chảy truyền thông được xác lập và bị chi phối bởi những mưu đồ kinh tế, chính trị, báo chí ngày càng rời xa hiện tại. Điều cốt lõi, sự thật ở đây là gì không quan trọng. Quan trọng là bạn tung nó ra vào thời điểm nào! Có không ít sự thật dễ dàng bị che lấp bởi nhiều thông tin khác, bởi đôi khi người ta cố tình thổi phồng một sự việc để giảm bớt sự chú ý vào một sự việc khác. Khi vở kịch hạ màn thì một nhúm người lưu tâm chỉ còn biết há hốc mồm bởi: “sự thực còn vượt quá trí tưởng tượng và giờ chẳng ai có thể tưởng tượng điều gì nữa”. Và vỡ lẽ: “Chẳng có gì là mảng tối mảng sáng trong nghệ thuật Baroque nữa, tất cả đều được phơi bày dưới ánh sáng ban ngày, như thể được các họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng vẽ vậy: nạn tham nhũng được dung thứ, mafia ngồi ngay trong nghị viện, trốn thuế ngay trong chính phủ, trong tù chỉ có lũ trộm chó trộm gà thôi”. Sự thật đó biến kẻ cầm bút còn biết chút tự vấn thành những kẻ chạy trốn, đồng thời là những con ma thất bại, cay đắng như Maia, như Colonna, tự ủi an: “thanh thản mà chấp nhận sống trong nghi ngờ cái thế giới quanh mình. Cuộc đời là có thể chịu đựng được, miễn là phải biết tự hài lòng”. Còn số đông ư? “Vẫn tiếp tục bầu cho bọn du côn vì họ sẽ chẳng tin vào BBC, hoặc bởi họ chẳng xem những chương trình như thế này vì còn đang dán mắt vào mấy chương trình lá cải”. Sự thật chua chát như Maia từng có lần thốt lên rằng: “Tôi chưa bao giờ hiểu được cái mốt nói lời chính thức xin lỗi là tín hiệu của sự nhún nhường hay trơ trẽn nữa: anh làm cái gì đó lẽ ra không được làm, rồi lên tiếng chính thức xin lỗi, thế là phủi tay coi như xong.” Cái chết của một con người hay của một tờ báo Cái chết không rõ nguyên do cuối truyện không chỉ là cái chết của một con người mà còn của một tờ báo, sự giãy chết của một xã hội thông tin chuộng những trò lố bịch, rẻ tiền, khước từ sự thật liên quan đến số phận con người. Từ sau năm 1945 cho đến năm 1992, thời điểm tờ Ngày mai hoạt động, gần 50 đã trôi qua nhưng có vẻ như bản chất của nền báo chí Milano không hề thay đổi qua ám dụ ký hiệu của Umberto Eco “ngày mai - hôm qua”, “quá khứ - hiện tại” trong lời đề từ Eco mượn của nhà tiểu thuyết Anh - E. M. Forster “Only Connect”. Kỷ nguyên mới ra đời, thông tin tràn ngập, thậm chí nhiễu loạn, sự hoài nghi ngày càng gia tăng tỷ lệ với khả năng tiếp cận sự thật. Chỉ có kết nối giữa quá khứ và hiện tại mới tạo nên tương lai, mới giảm thiểu được những thế hệ lạc loài, ngu muội. Chỉ có lòng dũng cảm đón nhận sự thật dù trái tai và đầy đớn đau, người ta mới có quyền kỳ vọng vào một ngày mai tốt đẹp, một nền báo chí tốt đẹp, đứng về phía người bình dân, cùng khổ. *** Thứ Bảy mồng 6 tháng Sáu năm 1992, 8 giờ sáng Sáng nay vòi nước không chảy. Toóc, toóc hai tiếng như tiếng trẻ con ợ, rồi tịt ngóm. Tôi gõ cửa hàng xóm: ở nhà họ mọi thứ vẫn ổn. Bà hàng xóm bảo: hay cậu lại khóa van tổng rồi. Cháu á? Nó ở đâu cháu còn chẳng biết nữa là. Cháu cũng mới chuyển đến, mà bác thấy đấy, cháu đi làm suốt, tối mịt mới về. Ôi Trời! Thế khi cậu đi vắng cả tuần cũng không khóa van nước và gas à? Rõ là bất cẩn. Để tôi vào xem thế nào. Bà ta mở chiếc tủ nhỏ dưới bồn nước, vặn vặn cái gì đó thế rồi nước chảy ra. Thấy chưa? Cậu khóa van vào còn gì. Xin lỗi bác, cháu lơ đễnh quá. Ôi giời, xinh-gờ độc thân như chú! ôkê-gâu: vâng thế mời bà đi cho! Giờ thì đến bà hàng xóm cũng nói tiếng Anh kia đấy! Bình tĩnh nào. Không có chuyện ma quỷ gì ở đây hết, những thứ đó chỉ có trong phim ảnh mà thôi. Tôi cũng không mắc chứng mộng du, mà ngay cả khi có bị mộng du đi chăng nữa, tôi cũng chẳng biết cái van nằm ở chỗ nào, nếu không thì hẳn tôi đã đóng nó lại khi không ngủ được rồi, bởi vòi hoa sen trong nhà tắm bị rỉ nước nên lúc nào tôi cũng có nguy cơ thức chong chong cả đêm vì tiếng róc rách nhỏ giọt, khác nào Chopin trên đảo Valldemossa![1] Quả thật, nhiều khi đã ngủ rồi lại tỉnh, tôi phải ra khỏi giường, đi đóng cửa nhà tắm và cửa phòng ngủ tại để khỏi phải nghe tiếng nước róc rách khó chịu đó. Cũng không có chuyện chập điện hay gì gì đó (vì van là van tay vặn, cái tên nó cũng đủ để hiểu là cơ chế vận hành bằng tay rồi), mà chuột có chạy qua cũng không thể đủ mạnh để làm quay nắp van có dạng bánh xe sắt kiểu cổ lỗ sĩ (mọi vật dụng trong cái nhà này phải có từ ít nhất năm mươi năm trước rồi), lại còn han gỉ nữa chứ. Cho nên hẳn phải có tay người (hay mang hình dáng người) ở đây. Tôi cũng chẳng có ống khói lò sưởi để cho con đười ươi phố Morgue[2] trèo vào. Thử nghĩ xem nào. Người ta nói cái gì cũng có nguyên nhân của nó cả. Loại bỏ khả năng có điều kỳ diệu nào xảy ra, bởi đó chỉ là cái vòi hoa sen chứ có phải Biển Đỏ đâu mà Chúa đoái hoài tới. Cho nên kết quả tự nhiên thì nguyên nhân cũng phải tự nhiên. Đêm qua trước khi lên giường tôi có uống một viên thuốc ngủ, như vậy là cho tới lúc đó nước vẫn chảy. Sáng nay thì không. Cho nên Watson[3] thân mến ơi, van nước đã bị khóa đêm qua, mà không phải do mi. Ai đó đã vào nhà, hắn, hay chúng, sợ rằng tôi tỉnh dậy, không phải do tiếng động chúng gây ra (chúng hẳn êm như ru rồi), mà bởi tiếng nhỏ giọt của vòi nước, khiến chính chúng cũng phát điên, có khi còn tự hỏi sao nó lại không đánh thức tôi dậy. Thế nên, vốn láu cá, chúng đã đóng van nước lại, y như bà hàng xóm hẳn đã làm. Thế rồi sao? Đống sách vở vẫn để lộn xộn như thường, cho dù toàn bộ mật thám trên thế giới có qua đây lật từng trang sách đi chăng nữa thì tôi cũng chẳng nhận ra. Có xem trong ngăn kéo hay mở tủ ở hành lang chăng nữa cũng vô ích. Thời buổi này nếu muốn tìm gì thì chỉ có một chỗ: lục trong máy tính. Có khi để tiết kiệm thời gian, chúng đã sao lại tất cả rồi trở về nhà. Và lúc này, sau khi đã mở đi mở lại từng tài liệu, chúng hẳn đã nhận ra trong máy tính không có thứ gì đáng quan tâm. Chúng hy vọng tìm được gì? Hẳn là thứ gì đó liên quan tới tờ báo (tôi chẳng thấy có khả năng nào khác). Chúng không ngu đâu, chúng nghĩ tôi đã ghi chép toàn bộ công việc diễn ra tại tòa soạn, và do đó, nếu biết điều gì về vụ Braggadocio, hẳn tôi đã ghi lại vào đâu đấy. Giờ thì chúng đoán ra sự thật rồi, tức là tôi giữ mọi thứ trong một đĩa máy tính. Đương nhiên đêm qua chúng đã ghé thăm cả phòng làm việc, và không tìm thấy cái đĩa nào của tôi cả. Do đó chúng bây giờ mới suy ra rằng có lẽ tôi giữ nó trong túi. Hẳn chúng đang tự rủa sao lại ngu thế chứ, đáng lẽ phải tìm trong túi áo khoác của nó. Ngu ư? Lũ khốn. Nếu khôn thì hẳn đã không làm cái nghề bẩn thỉu này rồi. Chúng sẽ thử lại lần nữa, ít nhất là sẽ giở chiêu lá thư bị đánh cắp[4] ra với tôi, chúng sẽ giả làm lũ móc túi mà tấn công tôi trên đường. Cho nên tôi phải nhanh chân lên, trước khi chúng quay lại, phải gửi cái đĩa tới một địa chỉ nào đó, rồi xem lúc nào có thể tới lấy được. Trời ơi sao tôi lại có thể nghĩ những điều vớ vẩn thế được kia chứ? Đã có một xác chết rồi, còn Simei đã phải tháo chạy. Ai cần biết tôi có biết gì hay không đâu: để cho chắc, chúng sẽ loại tôi đi cho rảnh nợ. Tôi chẳng thể lên báo mà trình bày mình chẳng biết gì về vụ việc này, bởi chỉ riêng việc nhắc tới nó thôi đã để lộ ra là mình biết về nó. Tại sao tôi lại rơi vào vũng lầy này? Tôi tin mọi chuyện là do giáo sư Di Samis và việc tôi biết tiếng Đức mà ra cả. *** Tại sao tôi lại nghĩ tới Di Samis? Đã bốn mươi năm trôi qua rồi còn gì. Bởi tôi vẫn luôn đổ lỗi cho ông về việc mình chưa bao giờ tốt nghiệp đại học, và chỉ vì chưa bao giờ tốt nghiệp đại học nên bây giờ tôi mới bị cuốn vào âm mưu này. Còn Anna đã bỏ tôi hai năm sau khi cưới, nói rằng cô ấy nhận thấy tôi là một kẻ bỏ đi, một tên thất bại. Chẳng rõ ngày trước tôi đã kể với cô ấy những gì để tỏ ra mình hay ho đẹp đẽ. Tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học bởi tôi biết tiếng Đức. Bà tôi là người vùng Alto Adige nên đã luyện cho tôi nói tiếng Đức từ bé. Từ năm thứ nhất đại học, tôi đã nhận dịch sách tiếng Đức để trang trải chi phí. Thời đó, chỉ cần biết tiếng Đức thì đã coi như có một nghề rồi. Ai đọc và dịch được những cuốn sách Đức mà người khác không hiểu (và do đó được coi là quan trọng) sẽ được trả công cao hơn so với tiếng Pháp, thậm chí cả tiếng Anh. Ngày nay tôi nghĩ cũng tương tự như ai biết tiếng Trung hay tiếng Nga. Nói ngắn gọn thì hoặc dịch tiếng Đức, hoặc tốt nghiệp. Làm cả hai thì không được. Quả thật, dịch tức là ở trong nhà, cả khi trời nóng lẫn khi trời rét, làm việc mà chân vẫn xỏ dép đi trong nhà, và nhất là học được khối thứ. Sao lại phải lên lớp, theo các bài học ở trường làm gì? Vốn tính biếng nhác, tôi đã quyết định đăng ký vào khoa tiếng Đức, tự nhủ như thế chẳng phải học gì nhiều, bởi tôi đã biết hết rồi. Thuở đó, giáo sư Di Samis đã tạo ra cái mà đám sinh viên vẫn gọi là tổ đại bàng, trong một tòa nhà xây theo lối ba rốc nay đã cũ nát, nơi phải trèo lên một cầu thang rộng để tới sảnh lớn. Một bên là tới văn phòng của thầy Di Samis, một bên là khán phòng lớn, như cách giáo sư gọi thật khoa trương: phòng học chỉ có sức chứa khoảng năm mươi sinh viên. Ta chỉ có thể vào văn phòng của thầy Di Samis nếu xỏ dép đi trong nhà vào. Thế nhưng ngoài cửa chỉ có đủ số dép cho các trợ lý của giáo sư và hai hoặc ba sinh viên. Ai không có dép thì đứng ở bên ngoài chờ tới lượt mình. Tôi nghĩ mọi thứ ở đây đều được đánh sáp bóng loáng, kể cả đống sách trên tường, kể cả khuôn mặt của các trợ lý đã già, tự cổ lai hỵ vẫn đang ngồi chờ tới lượt mình được lên chức giảng viên. Phòng học có mái vòm rất cao và cửa sổ theo lối gô tích (chẳng hiểu nổi sao lại có lối kiến trúc như thế trong một tòa nhà ba rốc), với kính màu xanh. Khi tới giờ, tức là đúng mười bốn phút sau giờ lên lớp, giáo sư Di Samis rời phòng làm việc. Đi cách ông một mét là vị trợ lý già, và cách hai mét là các trợ lý trẻ hơn, chỉ dưới năm mươi thôi. Vị trợ lý già mang sách hộ giáo sư, các trợ lý trẻ vác máy ghi âm - vào thời cuối những năm năm mươi, đống máy ghi âm vẫn còn to đùng, chẳng khác gì chiếc xe Rolls-Royce. Thầy Di Samis bước qua mười mét ngăn cách phòng làm việc và phòng học như thể khoảng cách là hai mươi mét vậy: ông không đi đường thẳng, mà đường cong (đường cong parabol hay đường elip, tôi cũng chẳng rõ nữa), vừa đi vừa nói to "tới đây, tới đây!", rồi bước vào phòng học, ngồi xuống cái ghế bành chạm trổ cầu kỳ - thiếu mỗi nước ông bắt đầu tự xưng là Thánh Ishmael nữa thôi. Ánh sáng chiếu qua tấm kính cửa sổ màu xanh khiến cho khuôn mặt ông trở nên nhợt nhạt, ông mỉm cười nham hiểm trong lúc các trợ lý bật máy ghi âm, rồi bắt đầu lên tiếng: "Trái với những gì mà vị đồng nghiệp đáng kính của tôi - giáo sư Bocardo - đã nói gần đây..." và cứ thế suốt hai tiếng đồng hồ. Thứ ánh sáng xanh le lét đó khiến tôi luôn rơi vào trạng thái thiu thiu ngủ. Mắt các trợ lý cũng chẳng khá gì hơn. Tôi biết nỗi khổ của họ. Sau hai giờ giảng, trong khi lũ sinh viên chúng tôi ùa ra khỏi phòng học, giáo sư Di Samis cho tua lại đoạn băng rồi rời khỏi ghế bành, ngồi xuống hàng ghế đầu cạnh các trợ lý đầy dân chủ. Thế rồi tất cả cùng nghe lại bài giảng dài hai tiếng đồng hồ, giáo sư gật gù thỏa mãn mỗi khi tới đoạn ông cho là quan trọng. Cần phải biết rằng khóa học có chủ đề là bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức của Martin Luther. Thật là quá sức tưởng tượng! Lũ sinh viên cùng lớp tôi vẫn nói thế với ánh mắt đau khổ. Vào cuối năm thứ hai, sau khi theo rất ít bài giảng, tôi liền đánh bạo xin làm đề tài khóa luận về tính châm biếm trong các tác phẩm của nhà thơ Heine (tôi thấy được an ủi với cách ông đối mặt những mối tình bất hạnh, cái cách mà tôi gọi là những lời châm biếm chua cay cần thiết - tôi đang chuẩn bị cho nỗi bất hạnh trong tình yêu của chính mình). Thầy Di Samis thất vọng nói: "ôi giới trẻ bây giờ chỉ chăm chăm bập ngay vào các tác giả hiện thời..." Trong một phút thông minh bất thình lình, tôi nhận ra rằng không hy vọng gì vào việc viết luận với thầy Di Samis. Tôi nghĩ tới giáo sư Ferio, trẻ hơn, nổi tiếng thông minh sáng suốt. Mảng nghiên cứu của ông là thời kỳ lãng mạn và các thời kỳ lân cận. Nhưng các bạn học lớn tuổi hơn đã cảnh báo tôi rằng muốn gì thì gì, tôi vẫn phải có thầy Di Samis là giáo viên hướng dẫn thứ hai, rằng tôi không được tiếp cận giáo sư Ferio một cách chính thức, nếu không Di Samis sẽ biết ngay và biến tôi thành kẻ thù vĩnh viễn. Tôi phải đi lách, phải giả bộ là chính Ferio đã yêu cầu tôi làm khóa luận với thầy, như thế Di Samis sẽ giận ông ta, chứ không giận tôi. Di Samis ghét Ferio, bởi một lý do đơn giản là chính Di Samis đã giúp Ferio có được cái chức giảng viên này. Tại trường đại học thuở ấy (tôi nghĩ cả ngày nay cũng vậy), mọi thứ đều đảo ngược so với thế giới thông thường: không phải con ghét cha, mà là cha ghét con. Tôi nghĩ sẽ có thể giả vờ tình cờ tiếp cận Ferio tại một trong các hội thảo hằng tháng do Di Samis tổ chức ở phòng học của ông, vốn được rất nhiều đồng nghiệp tham dự bởi ông luôn mời được các nhà nghiên cứu nổi tiếng. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy: ngay sau hội thảo là thời gian dành cho tranh luận, do các giáo sư độc diễn, rồi tất cả rời đi vì diễn giả được mời tới nhà hàng Con Rùa - nhà hàng ngon nhất trong vùng, với phong cách giữa thế kỷ mười chín, thậm chí những người phục vụ ở đó còn mặc bộ áo đuôi tôm. Từ tổ đại bàng tới nhà hàng, cần phải đi qua một phố lớn hai bên là những mái vòm, rồi quảng trường cổ kính, rẽ tại góc một tòa nhà trang trí cầu kỳ và cuối cùng đi qua một quảng trường nhỏ. Suốt dọc con phố có mái vòm, vị diễn giả được các giáo sư bao quanh, cách họ một mét là các giáo viên hợp đồng, cách hai mét là cánh trợ lý trẻ hơn, và cách đó xa xa là đám sinh viên mạnh dạn nhất. Khi tới quảng trưởng cổ, các sinh viên tản đi, tới góc tòa nhà, cánh trợ lý rút lui, các giáo viên họp đồng đi hết quảng trường nhỏ, nhưng cáo lui trước ngưỡng cửa nhà hàng, chỉ diễn giả và các giáo sư bước vào trong. Thế nên thầy Ferio không biết tới sự tồn tại của tôi. Mà bấy giờ tôi cũng hết hứng thú với môi trường ấy, cho nên không tới lớp nữa. Tôi làm công việc dịch thuật như một cái máy, chấp nhận dịch bất cứ cái gì khách hàng yêu cầu. Có lúc tôi còn đắm mình trong cái lãng mạn của trọn bộ ba tập về vai trò của nhà lý thuyết kinh tế Friedrich List trong việc sáng lập ra Liên minh quan thuế Đức Zottverein. Thế nên có thể hiểu được tại sao sau đó tôi từ bỏ việc dịch tiếng Đức, nhưng lúc ấy thì cũng đã quá muộn để quay trở lại trường đại học rồi. Vấn đề nằm ở chỗ ta không chịu chấp nhận sự thật: ta cứ tiếp tục sống mà đinh ninh rằng một ngày nào đó sẽ hoàn thành tất cả các bài thi và luận văn. Và khi sống mà nuôi hy vọng bất khả thì ta đã là kẻ thất bại rồi. Khi nhận ra điều đó thì chẳng còn cách nào khác là từ bỏ. Ban đầu tôi tìm được công việc gia sư cho một thằng bé Đức quá ngu không thể đến trường tại vùng núi Thụy Sĩ Engadina. Khí hậu rất tốt, cô quạnh trong mức có thể chịu đựng được, tôi ở đó một năm vì tiền công cao. Thế rồi một hôm, bà mẹ thằng bé xán lại sát người tôi trong hành lang, ám chỉ bà ta sẵn lòng chiều tôi. Bà ta răng vẩu, mép lún phún ria. Tôi lịch thiệp nói cho bà ta hiểu mình chẳng mặn mà gì. Ba hôm sau tôi bị đuổi việc với lý do thằng bé không đạt tiến bộ gì trong học tập.   Mời các bạn đón đọc Số Không của tác giả Umberto Eco.
Người Cha Im Lặng
"Những giọt nước mắt mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy chảy trên má của cha mẹ tôi tạo nên hôm nay một chiếc cầu giữa hiện tại và quá khứ, giữa con người mà họ đang là hiện nay và con người mà họ đã từng là trước đây, giữa nước Pháp và nước Việt, hai quê hương của họ." Người cha im lặng - Doan Bui là quyển tự truyện phác họa lại hành trình đặc biệt của một gia đình người Việt sinh sống ở Pháp, sau khi người cha mất đi giọng nói vì một cơn tai biến mạch máu não. Chuyến hành trình này không chỉ giúp những người con lần tìm lại quá khứ của người cha, tìm về nguồn cội cũng như khám phá ra những bí mật "động trời" của gia đình, mà còn hòa giải được những xung đột rất đời thường, những bất đồng ngôn ngữ và văn hóa giữa các thế hệ trong cùng một gia đình người Việt xa xứ.​ *** Một đêm tôi mơ thấy giọng nói của cha tôi. Tôi đang cầm điện thoại. Ban đầu, tôi không nghe thấy gì cả. Chỉ thoáng một hơi thở, vài tiếng lạo xạo ở đường dây. “A lô, cha đấy phải không?”. Chính vào lúc ấy thì giọng nói xuất hiện chẳng rõ từ đâu, mơ hồ, xa xôi. Tôi đã lo là cuộc nói chuyện sẽ bị ngắt. Tôi dỏng tai về phía giọng nói ấy, nó thật nhỏ và rè rè như thể phát ra từ một sóng radio nghe trộm. Giọng của cha tôi, tôi biết, một thứ giọng phát âm từ trong họng được chuyển thành trầm mỗi khi nói tiếng Pháp, như kiểu một ca sĩ có giọng nam trung cố hát những nốt nhạc thấp nhất. Nó còn trở nên xa lạ hơn nữa khi bị làm méo đi bởi chiếc máy thu âm mà cha dùng để đọc những bản báo cáo trong phòng thí nghiệm phân tích y khoa nơi ông làm việc: Khối u trung mô, khối u trung biểu mô, nhiều tế bào bướu ác xuất phát từ tuyến có hạch nhân, có sẵn tế bào chất khoang nước. Lúc nói tiếng Việt, giọng cha tự nhiên hơn. Nhưng vẫn khiến tôi hoang mang. Cha nói giọng Bắc. Tôi thì lại quen với giọng của mẹ tôi, bà ngoại tôi, các dì tôi, với cách phát âm du dương và từ trong mũi của người Nam. Tôi có cảm giác ngôn từ phát ra từ miệng cha rơi xuống giống như những viên đá cuội có hình thù kỳ lạ và sắc nhọn. Cha ấy à, trong nhà chúng tôi nghe thấy cha từ xa. Tiếng ho suyễn và tiếng của chai xịt chống hen Ventoline thường đến để đệm vào ngôn từ của cha như mô-típ lặp đi lặp lại bướng bỉnh của một bản giao hưởng. Trong giấc mơ ấy của tôi, tôi nhận ra những âm thanh đó. Một thoáng giọng, hơi thở đè lên ngôn từ, tiếng phì phò. Chính cha tôi đấy. Thế là nỗi hoảng sợ của tôi tan biến. Niềm vui tràn ngập trong tôi. Tựa như trong một giấc mộng ta được gặp lại người cha đã qua đời: vui sướng, ta bảo, ồ cha vẫn đây cơ à, vậy là ác mộng qua rồi, sao con mơ thấy cha chết nhỉ, con nhớ cha quá đi thôi! Ðược nói chuyện với cha, tôi mừng khôn xiết. Bình thường mỗi khi tôi gọi điện về nhà và nếu cha là người cầm máy, tôi chỉ nói: “Chào cha, cha khỏe chứ?”, một cách hờ hững, rồi sau đó dường như luôn luôn là câu: “Cha chuyển máy cho mẹ được không?”. Cha tôi hay trả lời ngắn gọn: “Mẹ con không có nhà”, hoặc “Mẹ con một tiếng nữa mới về”. Trong giấc mơ ấy, tôi muốn vớt vát những cuộc nói chuyện thường xuyên bị thui chột của chúng tôi, tôi hỏi cha: “Ồ, mà bây giờ cha nói được rồi? Cuối cùng, cha lại có giọng rồi!”. Tôi không nhớ cha đã nói gì. Tôi chỉ lắng nghe giọng cha. Tôi thức dậy. Và bật khóc. Tôi lại cảm thấy một cục chì nặng đè lên ngực, và biết rằng sẽ không bao giờ nghe thấy giọng cha. Cha vẫn còn đây, nhưng giọng cha đã chết. Mời các bạn đón đọc Người Cha Im Lặng của tác giả Doan Bui.