Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Đao Ca (Liễu Tàn Dương)

Võ lâm có tránh khỏi kiếp nạn một sông máu đỏ hay không? Tất cả sẽ được thể hiện một cách tài tình sinh động dưới ngòi bút Liễu Tàng Dương qua tác phẩm kiếm hiệp Ma Đao Ca.***

Đầu xuân!

Mặc dù trên những ngọn núi cao nơi xa vẫn phủ đầy tuyết trắng, sớm tối vẫn gió rét căm căm nhưng liễu rũ đã rũ lá xanh, hoa đã hé nụ, loài người đã cảm thấy được mùa xuân đã đến với vạn vật.

Tại phía Tây nam huyện Nam Dương tỉnh Hồ Nam, núi non chập chùng uốn khúc như một con rồng khổng lồ đang nằm ngủ. Tương truyền Gia Cát Lượng đã từng cất nhà ở tại đây, người lấy tên theo địa danh, địa danh nhờ người lan truyền. Đây chính là Ngọa Long cương, nơi Gia Cát Võ Hầu đã ở ẩn khi xưa.

Trong sơn cốc cây cối sum suê, khắp nơi lộ ra những góc lầu trúc xanh biếc. Nếu không nhìn kỹ, lầu cùng màu với lá cây, khó mà phát hiện ra được. Tìm mua: Ma Đao Ca TiKi Lazada Shopee

Lúc này, nơi một khoảng đất bằng trên Ngọa Long cương vang lên một hồi tiếng cười đùa của trẻ con, thảy đều ngước mặt lên nhìn những chiếc diều đủ hình dạng bay liệng trên không. Có hình chim ưng màu đen, bướm màu sặc sỡ, chim hạc màu trắng và rết to màu tím. Tất cả bọn trẻ con đều đang nhìn chiếc diều hình rết uốn lượn trên không, mặt lộ vẻ kinh ngạc, hâm mộ và ganh tị.

Thiếu niên thả chiếc diều hình rết tuổi chừng mười lăm mười sáu, tuy mày thanh mục tú nhưng mặt đầy vẻ bệnh hoạn. Y đứng riêng lẻ ở một bên, không cùng đám với những đứa trẻ khác.

Bỗng, thiếu niên thả chiếc diều ưng đen hừ một tiếng thật mạnh, đưa mắt nhìn chiếc diều của mình, bất luận màu sắc hay kiểu dáng đều không bằng người khác, có thể nói là kém nhất so với những chiếc diều khác. Nhất là so với chiếc diều to lớn kia lại càng kém xa, đồng thời y thấy thiếu niên thả chiếc diều rết đứng riêng rẽ một mình, không giao du với những đứa trẻ khác, hiển nhiên là có ý khinh khi, bất giác đôi mắt tam giác trừng lên, lập tức nảy ý.

Y chạy đến giữa bọn trẻ, hai tay chống nạnh lớn tiếng nói:

- Chúng bây có thấy không, tiểu tử kia thật là hống hách, rõ là khinh khi chúng ta mà!

Bọn trẻ nghe y nói vậy cũng cảm thấy bực tức, cùng đưa mắt về phía thiếu niên thả diều rết, chỉ thấy y đang ngồi trên một tảng đá to thờ thẫn nhìn xuống sơn cốc.

Thiếu niên mắt tam giác như cố ý muốn cầm đầu gây hấn, nhặt lấy một hòn đá nhỏ, vù một tiếng ném vào sợi dây của chiếc diều rết. Đừng thấy thiếu niên mắt tam giác chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi, nhưng hòn đá ném ra rít vang và rất chuẩn xác, mắt thấy đã sắp trúng vào sợi dây diều.

Một chiếc diều rết dài gần bốn trượng bay trên cao, dĩ nhiên sức rất mạnh. Nếu hòn đá ném trúng dây, chắc chắn sẽ đứt. Ngay khi hòn đá còn cách dây khoảng ba tấc, thiếu niên cô độc ấy bỗng hạ hai tay xuống, hòn đá lướt qua dây, bay xa xa mấy mươi trượng, đã chệch mục tiêu.

Thiếu niên mắt tam giác thoáng ngạc nhiên, lớn tiếng nói:

- Tiểu tử này không phải là người ở quanh vùng này, chúng ta phải ném rơi diều của hắn mới được.

Bọn trẻ lập tức xúm lại, mỗi người nhặt lấy một hòn đá sẵn sàng ném ra.

Thiếu niên cô độc đứng lên, thần thái hết sức điềm tĩnh như không chút ngán sợ lũ trẻ tinh nghịch này.

Thiếu niên mắt tam giác lại lớn tiếng nói:

- Nay ta đếm một hai ba, tất cả cùng lúc ra tay, lần này nhất định phải ném đứt dây diều của hắn... Một!

Bọn trẻ cùng giơ tay lên và nhắm kỹ, lúc này bọn họ chỉ cảm thấy chiếc diều rết to lớn kia là một niềm sỉ nhục và đe dọa đối với họ chứ không nghĩ là mình đã bị thiếu niên mắt tam giác sai khiến, hiếp đáp một đứa trẻ cô đơn, đó là một hành vi sai trái.

- Hai!

Họ đều mong mình có thể ném đứt dây, nhìn chiếc diều rết to lớn kia bay đi xa mấy dặm, nhìn thiếu niên kiêu căng kia khóc lóc rồi đón nhận những lời khen ngợi của thiếu niên mắt tam giác, lòng mới cảm thấy vui sướng.

- Ba!

Bảy tám hòn đá bay vút đi, nhắm vào sợi dây diều rết. Và cùng lúc ấy, thiếu niên mắt tam giác buông tiếng cười khẩy, vung tay ném ra một hòn đá nhắm ngay mặt thiếu niên cô độc.

Thiếu niên cô độc chẳng ngờ đối phương lại ném đá vào mặt mình, đương nhiên y cũng không muốn dây diều bị ném đứt nên phải tránh cả hai. Chỉ thấy y hai tay đưa lên hạ xuống thật nhanh đồng thời nghiêng đầu tránh khỏi hòn đá bay vào mặt.

Ngay trong khoảnh khắc ấy, thiếu niên mắt tam giác lại nhanh như chớp ném ra một hòn đá nhỏ, chỉ nghe soạt một tiếng, dây đã bị đứt, chiếc diều rết uốn lượn trên không bay đi mất dạng trong rừng rậm dưới sơn cốc.

Bọn trẻ liền tức vui mừng reo vang, đồng thời với ánh mắt kính phục nhìn thiếu niên mắt tam giác, một người lớn tiếng nói:

- Sử Báo đại ca qủa nhiên thân thủ bất phàm. Nào! Chúng ta hãy chúc mừng Sử Báo đại ca đi!

Bọn trẻ mắc diều vào cành cây, xúm nhau khiêng Sử Báo lên, tiếng reo hò vang dậy trên Ngọa Long cương.

Thiếu niên cô độc nhướng mày, nhặt lấy bảy tám hòn đá, quát to:

- Các ngươi ném đứt dây diều của người ta, vui lắm phải không?

Sử Báo ngạc nhiên như không ngờ thiếu niên cô độc này lại dám nói năng với y như vậy, bèn từ trên tay bọn trẻ phóng xuống, đôi mắt tam giác trừng lên nói:

- Tại sao không vui? Chả lẽ tiểu tử ngươi dám chống đối hả?

Những thiếu niên khác cũng ưỡn ngực lớn tiếng nói:

- Đúng rồi, diều của ngươi bay mất là tại ngươi xui xẻo, chả lẽ ngươi không phục hả?

Thiếu niên cô độc cười khẩy:

- Nếu như ta ném đứt dây diều của các ngươi, các ngươi có thể vui như vậy không?

Bọn trẻ cơ hồ không dám tin ở tai mình, đồng thanh nói:

- Ngươi dám ném đứt dây diều bọ ta ư? Có lẽ ngươi chưa nghe nói đến tiếng tăm của Sử Báo đại ca phải không?

Thiếu niên cô độc cười khinh miệt:

- Chỉ là một con Tử Báo, có gì là đáng kể?

Sử Báo ngửa mặt cười vang một hồi, y cố làm ra vẻ như người lớn, nghênh ngang tiến về phía thiếu niên cô độc.

Thiếu niên cô độc trầm giọng:

- Khi nãy ném đứt dây diều của ta, ngươi cười to tiếng hơn ai hết. Bây giờ ta phải xem thử ngươi có thể khóc ra tiếng hay không.

Vừa dứt lời, vung tay ném ra một hòn đá nhỏ.

Sử Báo quay đầu lại nhìn, hòn đá không ném đứt dây diều của y mà dọc theo dây bay thẳng lên chiếc diều ưng trên không.

Chiếc diều ưng ấy cao đến mấy mươi trượng và lại lay động không ngừng trên không, hòn đá lực đạo rất mạnh nhưng độc đáo hơn nữa là bay lên dọc theo dây như thể bị sợi dây hút lấy vậy.

Bọn trẻ chỉ cảm thấy thích thú, cùng vỗ tay reo hò.

Nhưng Sử Báo thì bất giác biến sắc mặt. Chỉ nghe soạt một tiếng, hòn đá bay lên đến bên chiếc diều ưng lực đạo vẫn chưa yếu đi, đã cắt đứt dây ở chỗ chạng ba.

Chiếc diều ưng lập tức lộn vòng, bay đi xa hơn dặm, rơi xuống trên vòm cây.

Sử Báo tức giận quát to:

- Đừng ồn!

Bọn trẻ lập tức im re. Chỉ thấy Sử Báo mặt mày u ám, bắt chước người lớn cười hăng hắc nói:

- Xem thủ pháp của ngươi vừa rồi, nhất định không phải hạng tầm thường. Ngươi là người của phái nào?

Thiếu niên cô độc lạnh lùng đáp:

- Ngươi không xứng đáng biết, cũng không xứng đáng hỏi.

Đoạn quay sang bọn trẻ nói tiếp:

- Vốn ra ta định làm đứt hết dây diều của các ngươi nhưng vì các ngươi chỉ là một bọn đáng thương không có chủ trương, chỉ nghe theo kẻ khác, hành động sai trái mà cũng không biết.

Sử Báo thấy vậy cả giận, xắn tay áo lên gằn giọng nói:

- Tiểu tạp chủng, Sử Báo này hôm nay phải cho ngươi một bài học mới được.

Thiếu niên cô độc cười khẩy:

- Họ Sử kia, ngươi không phải địch thủ của ta đâu, ta khuyên ngươi từ nay đừng cậy thế uy hiếp người nữa, phải biết thân thủ như ngươi chỉ là hạng xoàng xĩnh...

Sử Báo buông tiếng quát to, với thế Ngạ Hổ Phác Thố (hổ đói vồ thỏ) lao tới rồi bỗng đổi thế Đảo Diệu Hầu (quay lại đuổi khỉ), giữa chừng lại đổi chiêu Thập Tự Bãi Liên, song quyền nhanh như chớp công vào trung bàn thiếu niên cô độc.

Thiếu niên cô độc thoáng giật mình, nhận ra đối phương là người của phái Thái Cực, buông tiếng cười khẩy lách sang bên ba bước tránh khỏi.

Sử Báo ngỡ đối phương khiếp sợ lại với thế Ban Lan Chủy sấn tới. Thiếu niên cô độc lùi thêm hai bước. Sử Báo lại biến chiêu Lãm Tước Vỹ công vào huyệt Linh Đài của đối phương.

Thiếu niên cô độc nhanh nhẹn lách người tránh khỏi, nhướng mày nói:

- Chúng ta không thù không oán mà ngươi lại xuất thủ tàn độc như vậy, chả lẽ còn chưa biết khó tự lui hả?

Sử Báo liên tiếp mấy chiêu đều bị đối phương tránh khỏi dễ dàng, biết là đã gặp cao thủ nhưng tính y rất tự cao hiếu thắng. Hôm nay nếu bị bại, bọn trẻ này hẳn sẽ khinh y nên y cắn răng tung hết tuyệt chiêu ra tấn công tới tấp.

Thiếu niên cô độc tức giận nói:

- Đây là ngươi tự chuốc khổ vào thân, chớ trách ta độc ác.

Đồng thời lẹ làng lách người sang bên, hai chân tung lên. Chỉ nghe bộp bộp hai tiếng, Sử Báo loạng choạng lùi lại sau năm sáu bước, hai cánh tay đã trật khớp xương.

Bọn trẻ thấy Sử Báo bị đánh bại, thảy đều sợ hãi nhìn nhau, không một ai dám hó hé.

Sử Báo giận dữ nói:

- Các ngươi còn thừ ra đó làm gì? Tiến lên!

Bọn trẻ đành vâng lời xông tới, đấm đá lung tung. Trong số đó chỉ có hai người biết chút ít võ công nhưng để lộ rất nhiều sơ hở.

Thiếu niên cô độc không muốn đả thương họ, lùi ra xa hơn trượng nói:

- Các ngươi không phải địch thủ, đừng tự chuốc khổ vào thân thì hơn.

Sử Báo lớn tiếng nói:

- Ngươi có dám ở đây chờ ta không?

- Chờ ngươi chi vậy?

- Ta về nhà tìm ca ca ta!

Bọn trẻ nghe vậy càng cười phá lên, Sử Báo tức giận quát:

- Các ngươi dám vô lễ với ta thế này, để rồi xem ta có tha cho các người không cho biết.

Bọn trẻ đều từng nếm trải thủ đoạn của y, sợ hãi nín cười ngay.

Thiếu niên cô độc vốn không muốn đa sự, giờ thấy Sử Báo rõ ràng là cậy thế hiếp người. Bọn này đều sợ hắn, sao mình không trừng trị hắn một phen cho hắn bớt thói hống hách.

Thế là chàng trầm giọng nói:

- Được, ngươi hãy mau tìm y đến đây, nhưng ta phải nói trước ta chỉ có thể chờ chừng nửa giờ thôi đấy!

- Nửa giờ đủ rồi, ngươi đừng bỏ trốn đấy!

Thiếu niên cô độc cười khẩy nói:

- Chỉ cần ngươi đừng đi luôn là được rồi.

Sử Báo hừ một một tiếng, phóng nhanh đi xuống đồi.

Thiếu niên cô độc quét mắt nhìn bọn trẻ.

- Tại sao các ngươi lại nghe lời hắn? Chả lẽ không thấy hắn là kẻ ngang ngược hay sao?

Bọn trẻ đưa mắt nhìn nhau muốn nói gì đó nhưng lại không dám, ngập ngừng rồi im lặng.

Thiếu niên cô độc hiểu ý, lớn tiếng nói:

- Các ngươi sợ gì chứ? Có ta ở đây, ca ca hắn đến cũng chẳng làm gì được.

Một thiếu niên trong bọn nói:

- Ngươi không biết, ngoài ca ca hắn, trong nhà hắn còn có người lợi hại hơn.

- Trong nhà hắn còn có những ai nữa?

- Ngoài ca ca hắn, còn có một thúc thúc tuổi tác xấp xỉ ca ca hắn nhưng võ công thì lợi hại hơn ca ca hắn. Còn phụ thân hắn càng...

Thiếu niên ấy không dám nói tiếp, cùng nháy mắt nhau rồi mỗi người một đường giải tán, lát sau đã mất dạng.

Thiếu niên cô độc biết gia đình Sử Báo hẳn là ác bá trong vùng này, hoành hành vô kỵ nhưng chàng chẳng ngán sợ.

Bỗng nghe tiếng y phục phất gió, chỉ thấy Sử Báo theo sau hai người đàn ông trung niên phóng nhanh đến. Một người hai tai to lớn, trán gồ má cao, đôi mắt tam giác rực lên ánh sáng màu vàng cam. Một người vóc dáng cao to, sắc mặt đỏ gay, lưng giắt một chiếc Thái Cực khuyên (vòng).

Thiếu niên cô độc chẳng chút sợ hãi, với người giắt Thái Cực khuyên bốn mắt tiếp xúc hồi lâu không chớp.

Sử Báo đưa tay chỉ chàng nói:

- Tiểu tử, ngươi là môn hạ của ai?

Thiếu niên cô độc biết người này là thúc thúc của Sử Báo, vốn định với lễ tương kiến nhưng thấy đối phương kiêu căng hống hách liền bỏ ý định ấy nói:

- Môn phái của tại hạ chẳng tiện cho biết!

Người giắt Thái Cực khuyên thoáng ngạc nhiên, trầm giọng nói:

- Ngươi biết bổn nhân là ai không?

Thiếu niên cô độc nhìn chiếc Thái Cực khuyên đã biết y là nhân vật hạng nhì của Thái Cực môn và chính là Thái Cực Khuyên Sử Trường Phúc, lão nhị trong Thái Cực nhị tuyệt. Còn người trung niên kia hẳn là Thái Cực Truy Hồn Sử Hổ, ca ca của Sử Báo.

Thiếu niên cô độc ơ hờ lắc đầu, mặt đầy vẻ khinh miệt nói:

- Tại hạ không biết.

Thái Cực Khuyên Sử Trường Phúc buông tiếng cười khẩy, quay sang Thái Cực Truy Hồn Sử Hổ nói:

- Hổ nhi, bắt lấy hắn!

Thái Cực Truy Hồn Sử Hổ giết người như ăn mật ong, y với em trai Sử Báo từng gây nhiều tội ác trong vùng này, không một ai dám trừng mắt hay chau mày trước mặt y.

Y tung mình lướt tới đứng cách thiếu niên cô độc chừng năm bước, lạnh lùng nói:

- Tiểu tử, ngươi có gì trăn trối không? Phải biết Sử Hổ này một khi đã động sát cơ là không một ai có thể thoát chết.

Thiếu niên cô độc vừa thấy vẻ mặt nham hiểm của y là đã động sát cơ, trầm giọng nói:

- Các hạ bình sanh đã giết bao nhiêu người vô tội rồi?

Sử Hổ cười vang:

- Mặc kệ có tội hay vô tội, chỉ cần đại gia thấy chướng mắt là giết ngay, nay tính ra đàn ông chừng một trăm, đàn bà con gái cũng có bảy tám mươi, trẻ con dưới mười tuổi có lẽ có khoảng năm sáu mươi.

Thiếu niên cô độc quắc mắt gằn giọng:

- Các hạ có biết câu giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền không?

Sử Hổ cười khẩy:

- Sử Hổ này giết người không bao giờ đền mạng, thiếu nợ không bao giờ trả tiền...

Sử Trường Phúc lạnh lùng ngắt lời:

- Hổ nhi, ngươi còn lải nhải với hắn làm gì?

Sử Hổ ngậm thinh, nhanh như chớp sấn tới tấn công ra ba chiêu.

Thiếu niên cô độc thầm kinh hãi, thì ra Sử Hổ này võ công cao hơn em trai rất nhiều, thân pháp nhanh nhẹn, xuất chiêu hiểm độc.

Thế là chàng quyết tâm lấy mạng y tại đây, nhặt lấy một cành cây khô trên mặt đất thay kiếm chớp nhoáng công ra ba chiêu bức lùi Sử Hổ ba bước.

Sử Trường Phúc thấy vậy hết sức kinh ngạc, Sử Hổ đã buông tiếng quát vang, lại tung mình lao tới, quyền đổi sang trảo rít gió ghê rợn, thì ra là Thái Cực trảo, một tuyệt học của Thái Cực môn.

Thiếu niên cô độc hết sức căm thù đôi trảo của y bởi đôi trảo này đã từng giết chết hàng mấy trăm người vô tội. Chỉ thấy cành cây trong tay chàng rung lên hóa thành bảy tám đóa hoa kiếm nhỏ quét vào đôi trảo của đối phương.

Sử Trường Phúc kinh hãi vội quát:

- Dừng tay!

Nhưng thiếu niên cô độc đã bừng sát cơ, đâu chịu thu chiêu. Chỉ nghe soạt một tiếng, cổ tay trái của Sử Hổ đã bị tiện lìa, máu tuôn xối xả.

Sử Hổ lùi sau năm bước, trán nổi gân xanh, mồ hôi đổ ra như mưa.

Sử Trường Phúc vốn định hỏi rõ môn phái của thiếu niên này vì y nhận thấy kiếm thuật của chàng huyền diệu tuyệt luân, uy lực cương mãnh kinh người. Nhưng thấy Sử Hổ đã bị tiện mất một bàn tay trở thành tàn phế từ đây, ý định thỏa hiệp liền tiêu tan, cười hung tợn nói:

- Tiểu tử, ngươi đã không vị tình thì đại gia cũng chẳng kể ngươi là môn hạ của ai!

Đoạn hai tay đưa lên ngang ngực chuẩn bị xuất thủ.

Thiếu niên cô độc trầm giọng nói:

- Khoan đã! Nghe đâu Thái Cực Khuyên là cao thủ hạng nhì của Thái Cực môn, một đôi Thái Cực khuyên khá là lợi hại. Hôm nay tại hạ cũng muốn lĩnh giáo một phen.

Sử Trường Phúc vốn đã có ý lấy binh khí xuống nhưng còn e ngại đến thân phận, giờ nghe đối phương nói vậy liền choang một tiếng rút lấy đôi vòng thép đường kính hơn thước rưỡi. Tiếng vang kinh tâm động phách, trên tỏa sáng xanh biếc, hiển nhiên có tẩm kịch độc.

Thiếu niên cô độc thoáng giật mình như vẫn điềm tĩnh nói:

- Tại hạ xin mạn phép!

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ma Đao Ca PDF của tác giả Liễu Tàn Dương nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nếp Cũ - Làng Xóm Việt Nam (Toan Ánh)
Cuốn sách Nếp Cũ - Làng Xóm Việt Nam này sẽ giúp các bạn tìm hiểu phần nào cuộc sống làng xóm Việt Nam thời xưa, là một cuốn sách thật cần thiết và bổ ích cho những ai đang tìm hiểu về đề tài Làng xóm Việt Nam.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ - Làng Xóm Việt Nam PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)
Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám. Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè". Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.*** Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục. Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều. Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ… Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan. Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong. Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM. Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè. Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè. Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình. Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới. Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ. Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ. Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả. Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh… Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN. Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm. Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương. Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn. Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng. Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt: - Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị. - Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo. - Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này. Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày: - Nơi và ngày có hội - Thân-tích - Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM. Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê. Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969 TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)
Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám. Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè". Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.*** Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục. Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều. Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ… Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan. Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong. Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM. Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè. Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè. Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình. Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới. Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ. Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ. Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả. Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh… Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN. Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm. Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương. Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn. Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng. Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt: - Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị. - Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo. - Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này. Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày: - Nơi và ngày có hội - Thân-tích - Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM. Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê. Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969 TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)
Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”. Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Hồng Lâu Mộng được đánh giá là "tuyệt thế kì thư" phản ánh toàn diện và sâu sắc xã hội, con người Trung Hoa giai đoạn mạt Thanh khi đứng bên bờ vực suy vong, sụp đổ. Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 khi triều đại phong kiến đã bắt đầu mục ruỗng và đi tới hồi kết. 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc hoàn thành. Hồng lâu mộng miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cuối cùng tan vỡ của thế giới lí tưởng Đại Quan Viên. Thế giới lí tưởng đó ngay từ đầu đã không tách rời khỏi thế giới hiện thực: Đại Quan Viên hoa thanh quả khiết vốn được xây trên cái nền bẩn thỉu Hội Phương Viên. Trong suốt quá trình 12 chị em thanh nữ vun đắp phát triển khu vườn, hoa thanh quả khiết của họ cũng không ngừng bị rình rập, bẻ phá bởi bàn tay nhớp nhúa từ bên ngoài. Thanh khiết mọc lên từ ô uế, sau cùng cũng đành rơi rụng giữa ô uế. Đó chính là ý nghĩa trung tâm của bi kịch Hồng lâu mộng. Đó là sự bế tắc của những con người trẻ tuổi, khát khao lý tưởng sống mới nhưng cuối cùng đành bị khuất phục bởi họ đang ở trong bóng đêm suy tàn của ngày cũ, chưa thể đứng trong áng sáng ban mai của ngày mới, đó là yếu tố bi kịch của lịch sử trùm lên bi kịch cuộc đời của tất cả các nhân vật. Tìm mua: Hồng Lâu Mộng TiKi Lazada Shopee Tiểu thuyết được dựng thành phim, ngay khi ra mắt bộ phim Hồng lâu mộng đã gây tiếng vang ở khắp Trung Quốc và nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồng Lâu Mộng PDF của tác giả Tào Tuyết Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.