Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Bé - Jules Vallès

JUYN VALEX VÀ TIỂU THUYẾT JĂC VANHTRAX Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Chú Bé của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phật Tội - Đẳng Bình
Nàng mang trong mình nửa dòng máu quỷ, nửa dòng máu người. Vì lẽ đó tộc nhân ruồng rẫy nàng, loài người xua đuổi nàng. Ngay chính cha mẹ ruột cũng từ nàng.“Y” cả đời nguyện hướng Phật. Phật chỉ Đông y không dám rẽ sang Tây. Phật chỉ y hoàn tục cưới nàng làm vợ, trừ họa nhân gian, y chỉ còn nước nghe theo. Vậy là y lên đường hỏi vợ. Y dám cưới. Nàng dám gả. Nàng yêu y! Nhưng trong “y” lại có một y khác. Kẻ đó dùng một đời tính kế hằng mong được người đời công nhận, được thiên hạ công nhận, được chính những kẻ vứt bỏ công nhận. Kẻ đó cũng cô độc giống như nàng. Hai kẻ độc hành vô tình gặp nhau giữa chốn nhân gian, đi cùng nhau một đoạn đường. Vì lẽ sinh tồn, vì mục đích mà kẻ đó tính kế nàng hết lần này đến lần khác. Hai kẻ bị cả thế giới ruồng bỏ cuối cùng đã tìm được nhau. Yêu hận xoay vòng. Nhưng cái đích vẫn là niềm cảm thông và thứ thuần khiết nhất, cao cả nhất vẫn là cách họ đã vì nhau mà tồn tại. *** Đêm trăng rằm. Buổi hừng đông. Thế gian chìm trong tịch lặng. Trong phòng, Ân Khánh thiền sư đang tham thiền nhập định, hai hàng lông mày vốn dĩ luôn bình tĩnh hiện không ngừng nhíu lại, gương mặt dần hiện vẻ bồn chồn. Vị phương trượng ấy nhìn thấy điềm trời. Điềm rằng vạn vật huỷ diệt, trời đất sụp đổ. Lòng thiền trông thấy trần thế mù mịt khói đen, núi non đổ nát, lửa cháy ngút trời. “Hi hi… ha ha… hi hi hi…” Tiếng cười ma quỷ vần vũ trên dòng sông máu, mây đen dày đặc, một cái vạc lớn từ từ trồi lên giữa sông, lông vũ đen tuyền rơi xuống từ bầu không, một nữ quỷ cánh đen sà xuống thấp, ném một vật vào cái vạc bao bọc giữa sục sôi máu lửa. Ầm một tiếng, đất trời rền vang, chừng như ngàn quỷ vạn quỷ đang đồng thanh rên xiết, rền rĩ kêu khóc, cả nhân gian từ từ chìm vào mênh mông máu lửa. “Ha ha ha… Hi hi hi…” Nữ quỷ giang rộng đôi cánh, lơ lửng giữa trời, ngửa mặt cười lớn. Thứ nàng vừa ném vào vạc, là một con người. Một nam tử tuấn tú đang khoanh chân ngồi nghiêm ngắn. Ân Khánh mở choàng mắt… Kẻ đó là… .. Mời các bạn đón đọc Phật Tội của tác giả Đẳng Bình.
Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? - Agathe Hochberg
Một điều vô cùng chắc chắn: thời nay chẳng kiếm đâu ra bạch mã hoàng tử! Nam giới toàn những kẻ hoặc miệng lưỡi dẻo quẹo, hoặc bủn xỉn, hoặc ích kỷ vô trách nhiệm, hoặc gàn dở thậm chí ấu trĩ và nhu nhược đến nực cười. Bằng chứng ư? Chính là vô số những bức mail độc nhất vô nhị và cùng lúc hấp dẫn khôn cưỡng giữa hai cô nàng Ariane và Justine, một ở Paris, một ở New York, một đã có chồng, một còn độc thân. Và một điều còn chắc chắn hơn nữa: chính bạn sẽ bị cuốn theo mối bận tâm chung của hai cô nàng ấy từ lúc nào chẳng hay, đến mức chỉ có thể buông cuốn sách xuống chừng nào bạn đã biết được kết cuộc. “Trong tấn hài kịch lôi cuốn, vui nhộn và đúng mực này, Agathe Hochberg biết bắt lấy nhạc điệu của thời gian với cả sự thông tuệ lẫn hài hước.” - Pascale Frey, Lire *** Đôi nét về tác giả Sinh tại Paris, Agathe Hochberg lớn lên và trưởng thành tại cả Pháp và Mỹ. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành luật và thương mại quốc tế, cô quay sang lĩnh vực điện ảnh. Trải qua quãng thời gian tác nghiệp như một nhà báo chuyên về lĩnh vực âm nhạc và nhờ vào sự sáng dạ, tinh tế và hài hước, Agathe Hochberg đã có được một lượng lớn độc giả ngay sau khi phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Bạch mã hoàng tử: chàng ở đâu? vào năm 2003. Tiếp nối thành công ấy là một loạt các tiểu thuyết khác như Mes amies, mes amours, mais encore? (2005), La Coupe du monde et autres footaises: le dico non officiel (2006), Lettres à ma fille (2006), Lettres à mon amour (2007), và Lettres à ma mère (2007). *** - Trượt tuyết nhé? Dĩ nhiên là không. Hồi còn nhỏ tôi đâu có được học: tôi trèo lên ván trượt tuyết lần đầu tiên vào năm mười bảy tuổi; thật điên khùng, cái gọi là ý thức về sự nguy hiểm có thể làm hỏng bét mọi thú vui. Thế nhưng tôi đã nỗ lực, bạn bè thay phiên nhau chỉ bảo cho tôi còn tôi thì ngoan ngoãn chống gậy, gập đầu gối... trong khi lũ nhóc bốn tuổi vượt mặt tôi cái vèo. Sau một tuần, trên người tôi xuất hiện những vết tím bầm hẳn là khả dĩ giúp tôi có thể xuất hiện trong bách khoa thư về những bọc máu, và rốt cuộc tôi đã có thể khập khiễng trở về nhà. Đấy, những kỷ niệm duy nhất về núi non của tôi là thế đấy, đống kỷ niệm ấy và chuyện ăn mặc. Chưa bao giờ tôi lại mất nhiều thời gian đến vậy cho việc khoác đồ vào và cởi đồ ra. Khoác đồ, cởi đồ; trèo lên, bước xuống: chẳng phải chuyên môn của tôi. Mà ở đó trời còn lạnh, rất lạnh nữa chứ. Tôi ghê sợ cái lạnh, khi lạnh tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi. Lạnh lẽo thật chẳng phải thứ gì thân thiện cho lắm, vả lại, đã co ro là chỉ có co ro một mình. Được rồi, giờ thì phải trả lời cô ấy thôi: Không, tớ không định đi trượt tuyết cũng chẳng định đi ra biển, trong kỳ nghỉ tớ thích tham quan các thành phố hơn. Tôi viết cho Justine, cô bạn mới quen vẫn giữ liên hệ với tôi qua mạng, chúng tôi gặp ở một đám cưới nơi cả hai cùng là người làm chứng. Đến tiệc cocktail, cô ấy hỏi tôi: - Cuộc sống khi kết hôn sẽ thế nào? Tôi hơi lưỡng lự chút xíu, tôi không muốn làm cô ấy thất vọng nhưng cuối cùng tôi cũng trả lời: - Rất khó khăn. - Sao ai cũng nói thế nhỉ? - Vì đó là sự thật... Có thể nói điều đó giống như việc cặp đôi mà không kết hôn và có khuynh hướng tai hại là tin rằng mình đã chiếm được người kia. Justine sống ở New York, cô ấy ba mươi hai tuổi, tóc đen và mắt xanh quyến rũ. Cô ấy cũng rất thông minh và sinh động, đến nỗi mà ngay cả một cô gái tự nhận là hiện đại như tôi cũng phải tự hỏi sao cô ấy lại không kết hôn. Thế là ngay lập tức chúng tôi bị cuốn vào phần sôi nổi nhất của câu chuyện. Các cô gái tuổi chúng tôi không có thời gian để lãng phí, dù câu chuyện là gì đi chăng nữa. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? của tác giả Agathe Hochberg.
Cuộc Đời Chín Ngày - Thierry Cohen
Một chuyện tình được viết ra với phong cách từa tựa như Marc Levy và Guillaume Musso - nhẹ nhàng, lãng mạn, ngập tràn cảm xúc nhưng cũng không kém phần hồi hộp và ly kỳ. Jeremy luôn tin rằng Victoria yêu anh, họ sẽ chung sống với nhau. Cái ngày cô rời bỏ anh, 8/5/2001, Jeremy quyết định từ giã cuộc đời và kết tội Chúa là người đã gây ra mọi bất hạnh cho anh. "Chúa ơi... Tại sao con lại kêu tên Người? Người có ở đó không? Có từng ở đó không? Người có thấu được những lời cầu nguyện của con? Thôi nào Chúa ơi, chúng ta hãy thanh toán nợ nần nhé! Làm sao Chúa trời nhân từ là thế lại tạo ra một con người tuyệt vời như nàng ở cận kề con rồi lại chối từ không trao nàng cho con? Vì mục đích gì vậy? Đế con phải đau khổ ư? Người đã thành công rồi đấy! Con đang đau khổ đây. Đến mức không thiết sống nữa. Thế nào, Người tự hào về mình chứ? Con trả lại Người tương lai của con đấy. Hãy đem nó cho kẻ khác đi. Người chỉ mách con vực thẳm thì con xuống đó đây". Nhưng kỳ lạ thay, khi Jeremy tỉnh dậy, Victoria đang ở đó và cô vẫn yêu anh. Đó là ngày 8/5/2002. Một năm đã trôi qua và mặc cho mọi sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, anh thấy mình như đang ở chốn Thiên đường trần gian... Sau một ngày đầy bất ngờ, Jeremy lại chìm vào giấc ngủ sâu. Khi anh mở mắt ra, lại một năm nữa đã trôi qua, một năm mà anh không có chút ý niệm nào về những gì đã xảy ra. Victoria đang mang thai đứa con của anh... Khi Jeremy tỉnh dậy vào ngày 8/5/2004, anh đã là bố... Nhưng thời gian dường như trôi ngày càng nhanh, Jeremy thấy mọi việc diễn ra trong những lần tỉnh dậy của mình ngày càng hỗn loạn. Những giây phút thức tỉnh hiếm hoi, anh dành để cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy với mình... Và rồi đến sáng ngày 8/5/2010, khi anh mở mắt ra, Victoria đã bỏ đi. Cô đã bỏ anh và kết tội anh là một kẻ độc ác, ích kỷ, tồi tệ, không thể chịu đựng nổi. Dần dần, anh phát hiện ra mình đã gieo rắc nỗi sợ hãi cho những người xung quanh. Trong cái cuộc sống mà anh đã cố rời bỏ ấy, anh trở thành một con người hoàn toàn khác và cư xử như một tên khốn nạn với tất cả những người mà anh yêu quý. Cho tới khi anh thấy mình chỉ còn lại một mình trên thế giới này. Liệu anh có thể thoát ra khỏi chốn địa ngục này? Ai là kẻ đã đóng giả anh và phá hoại cuộc đời anh? Jeremy đã chết? Hay anh đã phát điên? Hay mất trí nhớ? Hay anh bị trừng phạt vì đã dám thách thức Chúa? Thierry Cohen, tác giả của Cuộc đời chín ngày, dẫn dắt người đọc vào một câu chuyện tình kỳ lạ bắt đầu bằng... một vụ tự tử, một câu chuyện tình diễn ra nơi hành lang thời gian, giữa sự sống và cái chết, nơi thực và ảo đan xen... Câu chuyện của Jeremy bắt đầu khi tất cả đã kết thúc. Khi tự tử, anh đã bước vào một thế giới khác, trong đó anh phải đối diện với những hậu quả do hành động điên rồ của mình gây ra. Chính với tác phẩm đầu tay Cuộc đời chín ngày, Thierry Cohen được trao giải Grand Prix d'Ormesson của Pháp năm 2007. Cuốn sách đã được dịch ra 10 thứ tiếng và chuyển thể thành kịch bản phim. Bắt nguồn từ việc một người bạn thân của mình tự tử, Thierry Cohen tự hỏi liệu ông có thể kể câu chuyện gì để bạn từ bỏ quyết định kia, phải nói gì để bạn hiểu rằng anh ta không cô độc giữa thế giới này và vẫn còn rất quan trọng đối với nhiều người khác. *** Thuốc ngủ, rượu whisky, cần sa. Nằm xuống. Mình biết mình làm gì. Chỉ nghĩ đến phương pháp. Chỉ nghĩ đến những động tác. Chỉ nghĩ đến bản thân, ở đây, trong phòng khách này, đến chai rượu, đến những viên thuốc. Chỉ mình mình thôi. Cái nút. Ống thuốc. Há miệng, để thuốc lên lưỡi, đưa chai lên môi. Nuốt. Nghĩ đến phương pháp. Không gì khác. Không nghĩ đến bố, không nghĩ đến mẹ. Nhất định không. Nghĩ đến nỗi nhục nhã của mình. Chỉ một mình, ở đây. Mình và nỗi nhục của mình. Mình biết mình đang làm gì. Rồi bố mẹ sẽ hiểu. Có thể. Mà mình đâu thèm quan tâm đến việc họ có hiểu hay không! Không… Không nghĩ đến điều ấy. Không nghĩ đến ai hết. Hôm nay, mình là người quyết định! Mình không thiết gì cuộc sống này nữa. Nó là một cuộc tra tấn, một sự sỉ nhục. Mình là người quyết định. Và mình quyết định sẽ vứt quách nó đi. Mình hoàn toàn làm chủ được tình thế! Và nếu không đủ can đảm, nếu có ý định đứng dậy hay dừng tất cả những việc này lại, mình sẽ nghĩ đến nàng. Đến nàng, cuộc sống của mình và là người đã từ chối mình. Không nghĩ đến ai khác, những người yêu thương mình, mà nghĩ đến nàng, người không hề yêu mình, không muốn yêu mình. Thậm chí không hề muốn thử yêu mình. Làn da mịn màng, đôi mắt xanh biếc, nụ cười của nàng. Nụ cười của nàng! Đó chính là sự ve vuốt mà vẻ đẹp của nàng trao tặng cho những ai đến gần. Giờ nó đã trở thành một nỗi đau. Không, tất cả những gì thuộc về nàng đã khiến mình lạc lối, đã xô mình đến vực thẳm này. Vực thẳm của cái chết đối lại với nỗi trống rỗng của cuộc đời mình. Nào có khác gì nhau đâu? Chúa ơi, sao đầu óc con quay như chong chóng thế này. Chúa ơi… Tại sao con lại kêu tên Người? Người có ở đó không? Có từng ở đó không? Người có thấu được những lời cầu nguyện của con? Thôi nào Chúa ơi, chúng ta hãy thanh toán nợ nần nhé! Làm sao Chúa trời nhân từ thế lại tạo ra một con người tuyệt vời như nàng ở cận kề con rồi lại chối từ không trao nàng cho con? Vì mục đích gì vậy? Để con phải đau khổ ư? Người đã thành công rồi đấy! Con đang đau khổ đây. Đến mức không thiết sống nữa. Thế nào, Người tự hào về mình ư? Con trả lại Người tương lai của con đấy. Hãy đem nó cho kẻ khác đi. Người chỉ mách con vực thẳm thì con xuống đó đây. Mình không sợ. Chỉ nghĩ đến phương pháp. Mẩu giấy vẫn còn bốc khói. Phê thêm một chút nữa. Đưa mình ra khỏi chính mình để tách khỏi nàng. Này đây tâm hồn mình bay bổng, được ru đưa bởi khói và rượu. Tiếp đến là thuốc ngủ. Đó là phương pháp. Mình đang vã mồ hôi. Không sợ. Chỉ vài giây nữa thôi. Nghĩ đến nàng. Mình đã quyết định nói hết với nàng. Ngày hôm nay, ngày mình tròn hai mươi tuổi. Để tự mình giải thoát khỏi những mối ngờ vực. Và cuối cùng là để biết. Mình đã chuẩn bị thật kỹ… Nhưng liệu có cần phải chuẩn bị không nhỉ? Mình có biết bao nhiêu điều muốn nói với nàng. Nhưng nào nàng có muốn nghe, muốn hiểu. Mình đã nói với nàng tình yêu thời thơ ấu. Phần đầu của câu chuyện. - Nhưng hồi đó bọn mình mới có chín tuổi mà, Jeremy! nàng vừa cười vừa nói. Mười tuổi. Không trẻ con lắm đâu khi đã lên mười. Mình yêu nàng đến phát điên, còn nàng thì rất quý mình. Với nàng, tất cả chỉ là một trò chơi con nít, một vài nụ hôn trong sáng, một tình cảm thân tình trìu mến, một giai điệu yêu kiều. Một kỷ niệm xa vời nhuốm màu dĩ vãng. Còn với mình, đó lại là khởi đầu của cuộc sống. Một thứ ánh sáng nóng bỏng đến trước ánh sáng mùa hè và chia rẽ hai đứa. - Chúng mình đã trở thành bạn. Thậm chí cậu từng là người bạn tâm tình của mình! ... Mời các bạn đón đọc ​Cuộc Đời Chín Ngày của tác giả Thierry Cohen.
Cuộc Hội Thảo - Milan Kundera
Trong Lời cuối sách của bản tiếng Pháp, François Ricard đề nghị coi kết cấu của bảy truyện trong Những mối tình nực cười là kết cấu đối xứng, trong đó sáu truyện ngắn đối xứng nhau qua tâm điểm truyện thứ tư, thành những đường tròn đồng tâm, những cặp tương ứng 1-7 (Sẽ không ai cười và Edouard và Chúa), 2-6 (Quả táo vàng của ham muốn vĩnh cửu và Bác sĩ Havel hai mươi năm sau), 3-5 (Trò chơi xin quá giang và Người chết cũ phải nhường chỗ cho người chết mới) ; các cặp đó tương đồng cả về hình thức (độ ngắn dài) lẫn các ý tưởng, chủ đề. Đứng ở vị trí trung tâm, Cuộc hội thảo dĩ nhiên có tầm vai trọng đặc biệt và khác với sáu truyện còn lại. Xét về dung lượng, Cuộc hội thảo có độ dài lớn nhất, đó cũng là truyện duy nhất có kết cấu theo lối kịch 5 màn. Đó là một khảo sát đầy tính châm biếm về tình thế của Don Juan trong thế giới hiện đại, cái chết của một biểu tượng “cao quý” ; trong thế giới hiện đại Don Juan không còn đất sống, bị rút gọn thành một hình ảnh hài hước và mơ hồ đến thảm hại, từ chỗ Nhà Chinh Phục trở thành Nhà Sưu Tập. Khái niệm tự do cũng được Kundera khai thác, một tự do khác với cách hiểu của Sartre, không phải là điều kiện sẵn có, bị áp đặt từ bên ngoài, mà là một chút không gian để cựa quậy theo ý mình, cái sẽ dần dà bị thu hẹp đến mức khó thở. Nhưng quan trọng hơn cả là Cuộc hội thảo trình bày một suy tư về thân phận con người, về những sự thật nhiều mặt của con người, trong đó nhìn từ khía cạnh nào những sự thật đó cũng đúng đắn, và cùng lúc cũng sai lầm, mất giá một cách trầm trọng. *** Mời các bạn đón đọc Cuộc Hội Thảo của tác giả Milan Kundera.