Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đâu Mái Nhà Xưa - Hermann Hesse

Hình như trong mỗi con người của chúng ta đều có Một mái nhà xưa để mà hướng vọng, quay về sau những phen thăng trầm, điêu đứng. "Mái nhà xưa chưa về nhưng tâm hồn vẫn chảy tuôn về cõi trú, nơi ấy từng đêm đen những tiếng lang thang gào thét nhẹ nhàng".  Mái nhà xưa ở đây, có thể là một hoài niệm xanh xao của tuổi trẻ đã dần dà trôi tuột mà bao nhiều mộng đời, mộng nước chỉ còn thoảng lại một chút dư thanh lăng lắc ở bèn trời lận đận, với một tâm sự bi hùng "đầu tiên bạch"; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một cuộc tình mong manh vội tắt mà hai kẻ yêu nhau chỉ còn biết ngoảnh mặt bước đi để từng đêm nghe âm thầm réo lên biết bao là tiếc nuối; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một tiếng Đạo đầy tròn viên mãn mà con người băn khoăn thao thức muốn tìm ra để nương náu cho qua mấy cơn phũ phàng gió bụi. Nhưng với Hermann Hess trong tác phẩm này, thì Mái nhà xưa ấy còn có tên là Rosshalde, một ngôi biệt trang lộng lẫy, huy hoàng mà vì mối bất hòa của đôi vợ chồng cho nên cái chốn "Rosshalde tuyệt vời, hạnh phúc, đẹp đẽ... đó đã thành ra một chốn thống khổ và ghê tởm" Dường như dấy là cái bi lụy lớn nhất của con người. Và với Hermann Hesse thì điều đó lại là một điều không sao chịu nổi. Từ đấy viết lách đối với ông là một ghi nhận trung thành cái hệ lụy nhân sinh ấy với một tấm lòng xót xa vô hạn. Do đấy, toàn bộ tác phẩm của ông không phải là một ghi nhận bất cứ tiến trinh kỹ thuật văn chương nào, mà là tiếng nói phát xuất từ con tim, tiếng nói người-rất-người của một tâm hồn đã trải qua mấy mùa ở địa ngục. Cho nên ta không lấy làm lạ gì vào thuở sinh thời Hermann Hesse đã được rất nhiều nam nữ thanh niên ngưỡng mộ, hàng năm họ đã tấp nập hành hương đến "khu vườn nho nhỏ" của ông để thăm hỏi ông và hằng năm ông nhận được không biết bao nhiêu là thư từ cậy nhờ giải đáp những thắc mắc, khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc sống. Hầu hết các tác phẩm của ông đều phần nào phản ảnh cuộc sống của ông một cách nồng nàn và ray rứt. Đâu mái nhà xưa chính là phản ảnh cuộc tan vỡ hôn nhân của ông, (Hesse đã trải qua ba lần kết hôn) và nhân vật chính trong tác phẩm này, nhà danh họa nổi tiếng thế giới Johann Veragutli có phần nào bóng dáng của ông vậy. Đây cũng là tác phẩm cảm thương nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Ta thử tưởng tượng xem có gì cay đắng và xót xa hơn khi hai vợ chồng cùng sống trong một ngôi nhà, cùng ăn một bàn, lại như là hai kè xa lạ với nhau mà còn có phẩn căm hận với nhau nữa. Và cái gạch nối duy nhất giữa "hai kẻ cô đơn" ấy là một đứa con khôn ngoan dễ thương như một thiên thần, rồi một ngày kia cũng giã từ mặt đất mà đi! Ôi, đất ơi, cái đó có ý nghĩa gì? Về một khía cạnh khác, đây còn là một cáo buộc hùng hồn về sự tranh chấp của người lớn đã làm di hại đến cái thế giới thuần khiết trinh nguyên của tuổi trẻ. Ta còn thấy rõ ẩn dụ ấy ở các cuộc tranh chấp của các Quốc gia, và kết quả là người dân đen vô tội phải gánh chịu hết mọi tai ương. Cho nên ta không lạ gì khi tliấy Hermann Hesse sắp hàng bèn cạnh Romain Rolland (đây cũng là một con người rất người, một á thánh nữa vậy) trong công cuộc pacifits trong cuộc đệ nhất Thế chiến để nhận lãnh bao nhiêu lời thóa mạ nặng nề, nào là "Kẻ đê tiện", "Kẻ phản bội di sản Đức quốc" chỉ vì ông không đồng ý ở cái tinh thần hãnh tiến quốc gia để giết hại bất kỳ ai. ° ° ° Đâu mái nhà xưa kết thúc một cách nửa vời như một Sonate dang dở của Beethoven; (bản Sonate Fa thăng trưởng ấy vẫn còn thiên thu vang vọng nhưng Beethoven biết tìm Nữ Bá tước Theres Brunsvik ở nơi đâu với bức chân dung tự họa của nàng và mấy lời đề tặng rất là "lịch sự": "Xin tặng nhà nghệ sĩ vĩ đại, một thiên tài hiếm có, một người lương thiện") ° ° ° Và sau cùng khi bi kịch đã phóng thích ông, Veraguth đã lên đường sang Đông Phương nơi ông hy vọng "một khung cảnh mới mẻ thuần khiết và tự do từ lỗi lầm và khốn khổ sẽ bao bọc cưu mang ông". Hình như suốt cuộc đời băn khoăn thao thức của Hermann Hesse đã làm nổi bật lèn một bức tranh mầu nhiệm: tác phẩm The Decline of the West của Oswald Spengler nổi bật trên nền lửa đạn của hai cuộc Thế chiến. Và cũng hình như trong những đêm tối máu lửa của Việt Nam, có một câu hỏi âm thầm thảng thốt đặt ra: Chúng ta là người ở Phương Đông, bao giờ thì chúng ta cũng Trở về với Mái Nhà Xưa? - Bao giờ? Bao giờ? Vườn cô liêu giữa mùa hoa Hồng Thảo Hoài Khanh *** Mặt trời chiếu đỏ rực qua những đường viền của những đám mây đã tạnh mưa khi tiểu gia đình về nhà từ đám tang của Pierre. Bà Adele ngồi thẳng đon trong chiếc xe; gương mặt bà đã ráo hoảnh, hình như sáng rỡ và cứng ngắc một cách lạ lùng khi nhìn từ giữa chiếc nón đen và chiếc áo cắt cao. Khóe mắt Albert Sling vù lên và suốt cuộc hành trình cậu nắm chặt tay mẹ cậu. - Thế là ngày mai con sẽ ra đi rồi - Veraguth nói trong cố gắng làm cho họ xao lãng - Đừng có lo lắng về sự việc ấy, ba sẽ theo dõi mọi sự cho xong xuôi. Ngẩng mặt lên đi, con. Tại Rosshalde, khi họ từ chiếc song mã bước xuống những nhánh cây dẻ nhỏ xuống từng giọt lấp lánh dưới ánh sáng. Bị lóa mắt, họ bước vào ngôi nhà im lặng, nơi đây các chị giúp việc, trong y phục tang tóc, đã nói thì thầm khi họ chờ đợi, Veraguth khóa căn phòng của Pierre lại. Cà phê đã sẵn sàng và ba người ngồi vô bàn. - Tôi sẽ lấy phòng cho bà ở Montreux - Veraguth nói - Thấy rằng bà có một cuộc nghỉ ngơi tốt lành. Tôi cũng sẽ ra đi nữa, ngay khi tôi đã hoàn tất tại đây. Robert sẽ ở lại giữ cho nhà cửa được ngăn nắp. Hắn sẽ có địa chỉ của tôi. Không ai nghe ông; một sự trống rỗng hổ thẹn sâu xa đã đè nặng lên tất cả bọn họ như một lớp sương mù. Bà Adele nhìn cố định yào khoảng không và gom lại các mẩu vụn từ chiếc khăn trải bàn. Bà giam mình trong nỗi thống khổ của bà, không muốn đứng dậy, và Albert đã bắt chước bà. Bây giờ bé Pierre đã chết rồi, tất cả sự hợp nhất ngoài mặt trong gia đình đã biến mất, cũng như sự lịch sự được duy trì bởi một nỗ lực của ý chí biến mất khỏi gương mặt một người ngay sau khi một người khách có quyền uy và gây hoảng sợ đã đi mất. Veraguth một mình nổi bật trên những cảnh ngộ đó, thủ cái vai trò của ông và bảo toàn sự che đậy giấu diếm của ông cho đến giây phút cuối cùng. Ông ngại rằng một cái cảnh nhi nữ thường tình có thể làm hư hỏng sự chia tay của ông với Rosshalde, và trong tâm hồn ông, ông đã đợi chờ một cách nồng nhiệt cho cái phút giây khi mà hai người bọn họ sẽ ra đi. Chưa bao giờ ông cô đơn như thế như lúc ngồi trong cái tiểu phòng của ông vào chiều hôm ấy. ở đằng ngôi biệt trang, vợ ông đang thu xếp hành lý. Ông đã viết các bức thư cho Burkhardt, người mà tuy vậy vẫn chưa được kể về cái chết của Pierre, cho biết việc đi đến của ông; viết cho luật sư ông và ngân hàng, giao cho họ những chỉ thị sau cùng của họ. Rồi, khi chiếc bàn của ông đã dọn trống, ông dựng bức hình vẽ bé Pierre lâm chung trước mặt ông. Bây giờ thì em đã nằm dưới lòng đất rồi, và Veraguth tự hỏi không biết sẽ có bao giờ ông lại hiến dâng tâm hồn ông cho bất kỳ ai khác nữa như ông đã có với Pierre hay không, có bao giờ lại sẻ chia một cách sâu đậm với nỗi khốn khổ của bất kỳ ai khác nữa thế kia hay không. Bây giờ thì ông cô đơn trơ trọi. Trong một lúc lâu ông nhìn vào bức họa của ông, đôi má tóp vô, đôi mi mắt khép lại trên cặp mắt sâu trũng xuống, đôi môi mỏng dán dính chặt vào nhau, đôi tay gầy gò một cách tàn nhẫn. Rồi ông bỏ cất họa phẩm của ông vào họa phòng, lấy chiếc áo khoác và đi ra ngoài. Trời đã về đêm trên trang viên và mọi vật đều yên tĩnh. Ở đằng ngôi nhà, một vài cánh cửa sổ đèn đã thắp lên; chúng chẳng có liên quan gì với ông nhưng ở dưới những cây dẻ đen đúa, trong con đường lát sỏi các bóng cây nhỏ đã ướt sũng nước mưa, và trong vườn hoa vẫn còn cái hơi thở của đời sống và kỉ niệm. Tại đây đã có lần Pierre - không phải mới những năm trước đây sao? - chỉ cho ông xem một con chuột nhỏ bị bắt, và ở kia cạnh cây hoa giáp trúc đào em đã nói chuyện với đàn bướm xanh, và em đã đặt ra những cái tên tưởng tượng âu yếm cho các bông hoa. Tại đây, giữa chuồng gà và chuồng chó, trên bồn hoa và trên lối đi dưới những cây quất, em đã hướng dẫn cái đời sống nhỏ bé của em và chơi các trò chơi của em; đây là ánh sáng của em, sự tự do, tiếng cười trẻ thơ và tất cả sự quyến rũ của tính ương ngạnh, bản chất độc lập vôn tự nhiên của em. Tại đây, không được quan sát bởi một người nào cả, em đã tận hưởng những lạc thú như con trẻ của em và sống trong những chuyện thần tiên của em và một đôi khi có lẽ em đã tức giận hay khóc lóc khi em cảm thấy bị phủ nhận hay hiểu lầm. Veraguth đi lang thang đây đó trong bóng tối, thăm viếng mỗi địa điểm mà nó duy trì một hoài niệm về đứa con bé bỏng của ông. Sau cùng ông quỳ bên cạnh đông cát của Pierre và làm mát lạnh tay ông trong cát ẩm. Tay ông gặp phải một cái gì bằng gỗ và nhặt nó lên, ông nhận ra là cái xuổng xúc cát của Pierre, và rồi ông bẽ gãy đi, ý chí của ông đã bỏ mặc ông, và lần đầu tiên trong ba ngày khủng khiếp đó, ông đã khóc mà không kềm chế lại. Ngày hôm sau ông có một cuộc nói chuyện cuối cùng với bà Adele. - Hãy cố vượt qua nó đi - Ông nói - và chớ có quên rằng Pierre thuộc về tôi. Bà sẽ trao nó cho tôi rồi, và tôi cảm ơn về điều đó một lần nữa. Dẫu rằng tôi đã biết là nó sẽ chết, nhưng đó là lòng quảng đạx của bà. Và giờ đây hãy sống đúng như bà ưa thích, và đừng có hối hả về bất cứ điều gì. Hiện tại cứ giữ lại Rosshalde, bà có thể hối tiếc nếu bà bán nó đi quá sớm. Chưởng khế sẽ cho bà biết, ông ta nói rằng đất cát quanh đây chắc chắn lên giá. Tôi chúc bà được may mắn tốt nhất. Chẳng có gì lưu lại đây thuộc về tôi ngoại trừ đồ đạc trong họa phòng, tôi sẽ mang chúng đi sau đó. ... Mời các bạn đón đọc Đâu Mái Nhà Xưa của tác giả Hermann Hesse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Mang Thai - Yoko Ogawa
Một cô gái âm thầm sử dụng những quả bưởi có chất bảo quản, nấu thành mứt cho chị ăn trong suốt thời gian thai kỳ (Nhật ký mang thai). Một thầy giáo mất hai tay và một chân với những dẻ xương sườn biến dạng xiết chặt khu vực của tim và phổi, đang ẩn dật trong khu ký túc xá vắng lặng (Ký túc xá). Một người đàn ông có thể đứng hàng giờ mỗi ngày ngắm nhìn nhà ăn để chìm đắm trong mớ ký ức giằng xé (Nhà ăn buổi chiều tà và bể bơi dưới mưa)… Bản thân các nhân vật trong cuốn truyện đã hé mở những điều bất an ngay từ đầu, và tác giả không chút ngại ngần dẫn dắt độc giả bám theo những điều nghi hoặc sắp xảy đến. Với giọng văn dịu dàng mà sắc sảo, Yoko Ogawa đã thể hiện những chuyển động tâm lý tinh tế trong các nhân vật, dẫn dắt người đọc băng qua những cảm nhận về bề mặt tới sự thật hiện hữu của thế giới thực. Các nhân vật đều như tiềm ẩn thứ mầm ác được che khuất, giống như chúng ta vẫn thường bỏ qua những suy nghĩ bất chợt lóe lên bên trong. Yoko Ogawa theo đuổi những gì “không nhìn thấy được” ấy bằng thứ văn xuôi chậm rãi, khung cảnh tĩnh lặng cùng linh cảm sầu muộn về nỗi bất an sâu xa. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp ám ảnh của Nhật ký mang thai. *** — “Yoko Ogawa là một nhà văn có thể diễn tả một ách uyển chuyển và sắc sảo những nét tâm lý khó nắm bắt nhất của con người” – Kenzaburo Oe — “Sự hư cấu của Yoko Ogawa tựa như một liều thuốc gây ảo giác nhẹ. Rất lâu sau khi đọc, câu chuyện vẫn sẽ còn đọng lại, làm thay đổi quang cảnh trước mắt bạn, khiến sự điềm nhiên của bạn lung lay, gieo vào đầu óc bạn sự nghi hoặc đối với ngay cả những người bạn thường hay gặp. Tài năng của bà vừa hé lộ vừa lưu giữ sự bí ẩn về bản chất con người” – Kathryn Harrison, tác giả của The Kiss — “Giống như tiểu thuyết gia Nhật Bản Kenzaburo Oe, những mẩu đối thoại rời rạc của Yoko Ogawa đã chạm tới niềm bất an sâu thẳm nhất trong tiềm thức cùng với sự tỉnh tại tuyệt đối” – the Pedestal Magazine. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Đ i làm về, tôi thấy trên bàn ăn mẩu giấy anh rể nhắn lại. “Chị trở dạ. Anh đưa chị vào viện"? Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi ấy. Chiếc thìa còn dính mứt nằm chỏng chơ bên cạnh. Tôi ném nó vào trong bồn rửa bát, suy nghĩ giây lát phải làm gì tiếp theo. Tôi đọc lại mẩu giấy lần nữa rồi đi ra ngoài.Quang cảnh trước mắt toàn là nắng. Những tấm kính trước của xe ô tô và những cột nước phun lên từ đài phun nước trong công viên làm tôi lóa mắt. Tôi nhìn xuống dưới, vừa quệt mồ hôi vừa bước đi. Hai đứa trẻ đội mũ cói chạy vụt lên phía trước tôi. Cổng chính của trường tiểu học đóng kín, sân trường vắng vẻ trải rộng. Đi qua khỏi cổng trường là tới một hàng hoa nhỏ. Cả người bán lẫn người khách hàng đều chẳng thấy đâu. Trong tủ kính, mấy bó thạch thảo rung lên khe khẽ. Rẽ khỏi góc phố, cuối đường là viện M. Đúng như những gì chị nói, chỉ có thời gian ở đây là dừng lại. Hình ảnh về một bệnh viện bị gói kín trong kí ức bấy lâu hiện ra nguyên vẹn ngay trước mắt. Bên cạnh cổng là cây long não đại thụ, cửa kính mờ đục, chữ trên bảng hiệu bong gần hết. Không một bóng người, chỉ có bóng nắng của tôi in đậm trên đường. Từ đây men theo tường rào phía sau, chắc chắn có cánh cổng phụ sắp hỏng. “Hẳn là cánh cửa ấy vẫn sắp hỏng như ngày xưa", không hiểu sao tôi lại có thể hình dung rõ ràng đến thế. Chẳng sai tẹo nào, vẫn là cánh cửa bị bung mất một bên bản lề. Tôi vừa tránh để mắc áo vào đinh vừa lách mình qua khe cửa, trước mắt là khoảng sân có bãi cỏ. Khẽ đưa chân dẫm lên đám cỏ xanh được cắt tỉa gọn gàng, cảm giác xốn xang trong lồng ngực sống dậy. Tôi lấy tay ngăn mồ hôi trên trán và nhìn lên. Tất cả dãy cửa sổ bằng kính đều sáng đến lóa mắt. Tôi từ từ lại gần tòa nhà, mùi sơn từ khung cửa sổ bay thoang thoảng. Không một bóng người, không một ngọn gió, ngoài tôi ra chẳng có gì chuyển động. Không cần những thùng các tông tôi cũng có thể ngó được vào trong phòng khám. Không có cả bác sĩ lẫn y tá. Bên trong mờ tỏ như lớp học nấu ăn sau giờ tan trường. Tôi nheo mắt lần lượt xác định từng thứ một: Lọ đựng thuốc, máy đo huyết áp, bức hình hướng dẫn dẫn tư thế sửa ngôi thai, máy siêu âm. Tấm kính áp vào mặt âm ấm.Tôi mơ hồ nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh khóc. Tiếng khóc bé nhỏ run rẩy và nghèn nghẹn vọng lại từ phía bên kia ánh mặt lấp loáng. Lắng tai nghe, tiếng khóc ấy xoáy thẳng vào màng nhĩ. Đáy tai đau nhói. Tôi đưa mắt về phía tầng ba. Một người đàn bà trong bộ đồ sản phụ đang nhìn ra xa. Những đường cong của bờ vai hắt trên tấm kính. Mái tóc xõa xượi rủ xuống trán, để lại những khoảng tối trên gương mặt xanh xao, thành ra tôi không chắc có phải là chị hay không. Người đàn bà khẽ mấp máy đôi môi thâm xám, chớp mắt. cái chớp mắt yếu đuối như lúc khóc. Khi tôi cố nheo mắt nhìn thì bị tia nắng hắt ra từ ô của kính chắn mất tầm nhìn. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Mang Thai của tác giả Yoko Ogawa.
Bóng Em Xa Hơn Chân Trời - Michelle Celmer
Garett ước gì thời gian đưa chàng trở lại đêm vũ hội ấy, cái đêm chàng gặp Louisa lần đầu. Người con gái xinh đẹp đã nhẹ nhàng đi vào đời chàng bằng những bước chân thanh thoát như cánh bướm, đi vào tim chàng bằng tính cách vừa dạn dĩ vừa ngây thơ. Vì một sai lầm ấu trĩ, chàng để mất nàng. Đời chàng từ đấy thành quạnh hiu trống trải đến tàn nhẫn. Mỗi đêm khó ngủ, chàng lại nhớ nàng... Khi lần lại ảo ảnh êm đềm của dĩ vãng, chàng dần dần hiểu ra hạnh phúc tròn đầy không chỉ đơn thuần là sự hấp dẫn giới tính, mà còn là sự hòa hợp về cảm xúc của hai tâm hồn. Khi nỗi nhớ trở nên nhức nhối, khi nhu cầu về nàng biến thành một phần tất yếu của cuộc đời, chàng liều mình đi gặp nàng lần nữa, mong cứu vãn tình yêu chàng muộn mằn phát hiện... *** Garrett choàng tỉnh khỏi giấc ngủ ngon và ngồi bật dậy trên giường. Chàng quờ tay tìm Louisa, nhưng chỉ gặp chăn đệm lạnh ngắt. Chàng vừa mơ một giấc mơ về máy tính của chàng, hình như Louisa hỏi mượn dùng nó. Hay việc đó xảy ra thật? Chàng và nàng nói chuyện về tránh thai, sau đó chàng bắt đầu gà gật ... Đúng, nàng hỏi dùng máy để đặt mua đồ cho trẻ sơ sinh. Rồi chàng nhận ra nguyên nhân khiến mình choàng tỉnh. Chàng đã đóng email chưa nhỉ? Chàng hất chăn và sờ soạng quanh phòng để tìm quần. Nếu chàng chưa đóng, liệu nàng có chú ý đến các tiêu đề gắn tên nàng không nhỉ? Và nếu chú ý thấy, liệu nàng có đọc không? Garrett xỏ chân vào quần, chưa kip kéo khoá đã lao vụt ra khỏi phòng ngủ. Chàng nửa đi nửa chạy suốt dọc hành lang cho tới thư phòng. Khi đẩy tung cửa, vào giây phút bắt gặp nàng ngồi đó với khuôn mặt u ám, chàng biết nàng không chỉ trông thấy email, mà còn đã đọc nó. Trời đánh thánh vật. - Tại sao chàng không xoá đám thư ấy đi? Tại sao còn lưu bằng chứng lại? ... Mời các bạn đón đọc Bóng Em Xa Hơn Chân Trời của tác giả Michelle Celmer.
Đùa Với Thần Ái Tình - Michelle Celmer
Charles Mead có thói quen tuyển trợ lý đẹp, quen đưa họ vào giường ngay trong tuần làm việc đầu tiên, và cũng có thói quen không chung đụng với ai quá một lần. Chuỗi thói quen ấy đưa đến kết quả là chàng thường xuyên phải tuyển trợ lý mới. Victoria Houghton đang làm quản lý tại khách sạn gia đình thì cha nàng phá sản, theo sắp xếp của ông nàng được nhận vào cụm kinh doanh hoàng gia, nhưng vì yêu cầu an ninh nên tạm thời chỉ làm nhân viên thường. Chuỗi sự kiện này đẩy nàng đến vị trí trợ lý của Charles. Chàng cao to, nàng nhỏ nhắn. Chàng nóng bỏng, nàng thờ ơ. Chàng ưa châm chọc, nàng ưa chống đối. Sự hội tụ của các thái cực tạo ra sức hút khó lường. Mỗi ngày họ bị cuốn lại một gần nhau. Lần đầu tiên, Charles lạc mất mình vì ham muốn ngay giữa văn phòng. Lần đầu tiên chàng biết thế nào là khát khao vô tận. Và lần đầu tiên, con báo hung mãnh mê chinh phục đã phải quy thuận mãnh lực đẹp đẽ của tình yêu. *** Khi chuông cửa nhà của Charles vang lên vào cuối ngày thứ năm, anh chắc chắn đó là Victoria, đến để nói với anh là cô đã đổi ý. Nhưng thay vì cô, anh thấy Ethan đứng ở trước hiên nhà. Ethan nhìn anh từ đầu đến chân, nhận thấy đầu tóc bù xù, quần áo nhầu nhĩ, và râu ria bốn ngày không cạo của anh. “Lạy Chúa toàn năng, trông chú như quỷ ấy!” Thích hợp làm sao, xét việc anh cảm thấy thế nào. Anh đứng sang một bên để cho Ethan có thể bước vào, sau đó đóng cửa lại phía sau lưng. “Tôi nghĩ tôi bị bệnh gì đó.” “Hy vọng đó không phải là bệnh truyền nhiễm,” Ethan nói một cách cảnh giác. “Lizzy sẽ giết tôi nếu tôi tha vi trùng về nhà. Cô ấy sẽ trở dạ bất cứ lúc nào, chú biết đấy.” Chỉ khi lòng kiêu hãnh bị thương tổn có thể lây lan sang người khác. “Tôi nghĩ là anh an toàn.” “Có lẽ là cái gì đó liên quan đến Victoria phải không? Người ta nói là cô ấy đã nhận một công việc ở Anh Quốc.” Trước cái nhìn kinh ngạc của Charles, Ethan nói, “Chú nghĩ là chúng tôi không nghe thấy à? Tôi đoán là chú không thể thuyết phục cô ấy ở lại đúng không? Và cái cách hai người hôn nhau tại bữa tiệc, tôi nghĩ chú đã bỏ qua yêu cầu của chúng tôi là không ngủ với cô ấy.” “Anh bực mình à?” Anh ta nhún vai. “Hãy cứ cho là tôi không ngạc nhiên.” “Nếu điều này có ý nghĩa, thì tôi nghĩ là cũng chẳng khác biệt gì. Victoria là người phụ nữ ương bướng nhất trên đời này.” Anh đi vào trong bếp, nơi anh để đồ uống, và Ethan theo sau. “Tuy nhiên, anh đến đây làm gì?” “Chú không đến chơi bóng quần, thiên tài ạ. Tôi gọi đến văn phòng và thư ký của chú nói chú vắng mặt từ thứ sáu tuần trước.” “Đúng vậy.” Charles nhấp một ngụm scotch và ra hiệu về phía chai rượu. “Muốn một ly không?” Ethan lắc đầu. “Sao, đã có chuyện gì?” ... Mời các bạn đón đọc Đùa Với Thần Ái Tình của tác giả Michelle Celmer.
Chuyện Kể Năm 2000 - Bùi Ngọc Tấn
N hiều người hỏi tại sao người Việt Nam đã trải qua mấy chục năm chiến tranh mà chưa có tiểu thuyết lớn nào phản ảnh toàn cảnh một dân tộc trong cuộc chiến đằng đẵng tràn ngập khổ đau đó. Nhưng trong thế kỷ 20 ở Việt Nam còn một biến cố khác cũng có kích thước lớn, tác động sâu rộng và gây nhiều đau khổ không kém chiến tranh. Ðó là việc thiết lập một chế độ độc tài toàn trị ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1950 và trên cả nước từ năm. Chiến tranh đã gây những đổ vỡ vật chất, những máu lửa, chết chóc kinh hoàng; còn một chế độ công an bao trùm khắp mặt, chặt chẽ và tinh vi, cũng để lại những hậu quả xã hội và tinh thần lớn lao không kém, mà ảnh hưởng còn sâu đậm và lâu dài hơn chiến tranh nữa. Chiến tranh tác động trực tiếp đến từng nhóm người, từng địa phương, trong một thời gian giới hạn, và khi chiến tranh qua thì người ta sẵn sàng quên đi để trở lại tiếp tục cuộc sống hàng ngày của mình. Những ngôi nhà đổ vỡ sẽ được xây lại, những nấm mồ sẽ xanh cỏ, những chiếc xe tăng sẽ han rỉ, những hố bom rồi cũng được lấp đầỵ Nhưng một chế độ chính trị thay đổi, đảo lộn tất cả đất nước, tất cả nếp sống hàng ngày, khi làm việc, khi đi chợ, các món ăn, cách chặt thịt gà lén lút, cách “phân phối” một cây kim một cuốn chỉ trong làng, các ngõ ngách phải đi qua khi đi xin việc, cho đến cách suy nghĩ, cách nói năng thưa bẩm; chế độ đó buộc chặt mọi cá nhân, mọi gia đình, mọi con người vào một guồng máy chuyên chế, soi xét và điều chỉnh từng hành vi, cử chỉ, lời nói, thậm chí đến các giấc mơ thầm kín trong đầu người ta; ảnh hưởng của một chế độ như vậy lan tỏa khắp mọi làng xã, thành thị, trên giường ngủ, trên trang báo, và nó kéo dài rất lâu, người sống trong đó cảm thấy là bất tận, sống mãi trong đó những thứ bất thường trở thành bình thường, tự nhiên. Trong lịch sử Việt Nam chẳng mấy thời không bị cảnh chiến tranh, có khi liên miên mấy chục năm, dai dẳng hàng trăm năm, từ những lần phải chống ngoại xâm cho đến những cuộc nội chiến. Nhưng việc thi hành một chế độ độc tài và toàn trị kiểu Cộng sản thì mới xảy ra lần đầu, và hy vọng là lần duy nhất. Việc thiếp lập và duy trì một chế độ rập theo khuôn mẫu của Stalin ở Nga, lại được Mao Trạch Ðông cải biến cho phù hợp với xã hội Á Ðông, trong một hai thế hệ, có thể nói còn tác hại cho dân tộc Việt Nam một cách nặng nề và sâu xa hơn cả ba chục năm chiến tranh. Có lẽ vì vậy các nhà văn Việt Nam không viết nhiều về những đau khổ thời chiến tranh nhưng họ viết rất nhiều về tình trạng xã hội đảo lộn, tan rã trong chế độ Cộng sản. Và tất nhiên những nhà văn đã sống ở miền Bắc Việt Nam thì có nhiều kinh nghiệm và chịu nhiều thất vọng cay đắng hơn các nhà văn sống ở miền Nam. Những tác phẩm của Dương Thu Hương, Phùng Gia Lộc, Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Khắc Trường, v.v. đã phản ảnh nhiều bộ mặt xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản. Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, kịch bản của Lưu Quang Vũ, v.v… cũng cho thấy các cảnh sống tàn bạo đến phi lý làm cho con người mất cả tính người, cái ác trùm lấp cái thiện, chiếm chỗ và đội lốt, nhân danh cái thiện ố tình trạng mà nhà thơ Nguyễn Duy gọi là “Thiện ác nhập nhằng ố công lý nổi lên phênh”. Hồi ký của Vũ Thư Hiên cũng có tính chất sáng tạo, nghệ thuật, vì diễn tả một con người bị bộ máy vô hồn đè bẹp trong lao tù như thế nào. Nhưng cho đến nay chưa có tác phẩm nào có tầm cỡ như “Chuyện Kể Năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn. *** B ùi Ngọc Tấn sinh năm 1934. Quê ông ở làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ông bắt đầu viết văn, viết báo từ 1954. Bùi Ngọc Tấn có sáng tác in ở các nhà xuất bản: Văn học, Lao động, Thanh niên, Phổ thông… khi mới ngoài hai mươi tuổi. Trước khi viết văn, ông là phóng viên báo Tiền Phong ở Hà Nội, viết với bút danh Tân Sắc. Sau đó, năm 1959, ông trở về quê và thành biên tập viên báo Hải Phòng Kiến. Để có thể nuôi gia đình 6 người, ông tập trung vào viết báo. Ông có mối quan hệ thân thiết với nhà văn Nguyên Hồng và Bí thư Thành ủy Hoàng Hữu Nhân, người quan tâm đến giới văn nghệ sĩ và đã giúp đỡ ông lúc khó khăn sau này. Bùi Ngọc Tấn từng bị tập trung cải tạo 5 năm (1968-1973) theo đài RFA về tội "Xét lại, chống Đảng", mà không được xét xử. Theo ông thì người hạ lệnh bắt ông, cũng như đuổi vợ ông khỏi trường Đại học trong thời gian ông bị cải tạo, ngăn chặn ông đi làm sau khi ra tù là giám đốc công an thành phố Hải Phòng Trần Đông. Khi bị bắt giữ, ông cũng bị tịch thu hơn nghìn trang bản thảo và sau này không được trả lại. Theo nhà văn Vũ Thư Hiên viết tưởng niệm ông Tấn, thì ông ta không dính líu gì đến chính trị, nhưng bị bắt chỉ vì chơi với ông Hồng Sĩ. Từ khi được xóa án, sau hai năm thất nghiệp, Bùi Ngọc Tấn được tổng cục trưởng Tổng cục Thuỷ sản Hoàng Hữu Nhân xếp vào làm nhân viên theo dõi thi đua khen thưởng ở Liên hiệp Xí nghiệp Đánh cá Hạ Long. Trong khoảng thời gian làm công việc này từ 1974 đến 1994, ông trở thành một "người ẩn dật" với văn chương, ngừng viết trong khoảng thời gian 20 năm này. Theo đài RFA, trong thời gian đó "ông không được phép viết lách gì, ngay cả nhật ký cũng thường xuyên bị công an văn hóa xét nhà, lục lọi tịch thu..." Ông trở lại với bạn đọc qua bài "Nguyên Hồng, thời đã mất" đăng trên tạp chí Cửa biển tại Hải Phòng năm 1993. Ngày 18/12/2014 ông mất tại nhà con trai mình (anh Bùi Ngọc Hiến) ở Hải Phòng sau một thời gian bị bệnh phổi nặng. Theo con trai ông, tang lễ được tổ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 2014. Tác phẩm chính Mùa cưới Ngày và đêm trên Vịnh Bái Tử Long, phóng sự Đêm tháng 10 Người gác đèn cửa Nam Triệu, truyện ký Nhật ký xi măng Nhằm thẳng quân thù mà bắn Thuyền trưởng, truyện vừa, cuối thập niên 1970 (Ký tên Châu Hà) Nguyên Hồng, thời đã mất, 1993 Một thời để mất, hồi ký, 1995 Một ngày dài đằng đẵng, tập truyện ngắn Những người rách việc, tập truyện ngắn, 1996 Chuyện kể năm 2000, tiểu thuyết, 2000 Rừng xưa xanh lá, ký chân dung, 2004 Kiếp chó, tập truyện ngắn, 2007 Biển và chim bói cá, tiểu thuyết, 2008 Viết về bè bạn, ký, 2012 (In gộp Rừng xưa xanh lá, Một thời để mất và phụ lục) Mời các bạn đón đọc Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn.