Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare

Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khi Vết Thương Nằm Xuống - Nguyễn Văn Học
Khi vết thương nằm xuống- nỗi cô đơn khủng khiếp Nỗi cô đơn ở thời nào cũng đáng sợ, như một thứ bệnh khủng khiếp nhất. Cuốn tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Văn Học đã đề cập đến nỗi cô đơn vô hạn của những con người phải chống chọi với số phận nghiệt ngã. Toàn bộ cuốn sách 264 trang tràn ngập nỗi cô đơn và cách con người gồng mình để thoát khỏi điều đó. Tiểu thuyết Khi vết thương nằm xuống   (NXB Văn Học) là tác phẩm viết về giới trẻ của nhà văn Nguyễn Văn Học. Khi vết thương nằm xuống với sức hấp dẫn, cuốn hút đặc biệt nhờ phần ngôn ngữ gọn, sắc lạnh. Thông qua cuộc đời nhiều khổ đau và khát vọng của nhân vật Kiêu, tác giả muốn đề cập tới thực trạng của nền giáo dục gia đình và xã hội đối với việc hình thành nhân cách con người. Trong một xã hội mà ý thức con người còn nhiều lạc hậu, thực dụng, nhiều kỳ thị, ít sự cảm thông… thì cái tốt xấu đan xen, dẫn tới nhiều bạo lực, hận thù, cạm bẫy, làm mất niềm tin ở thế hệ trẻ. Cậu bé Kiêu, con của một chiến sĩ công an hy sinh vì nhiệm vụ, đã từng có một gia đình hạnh phúc. Cậu bé từng có một tuổi thơ với những kỷ niệm về mối tình đầu, tình bạn, tình cảm gia đình thân thương lưu luyến. Sau khi người bố mất vì bọn tội phạm, oái oăm thay cậu lại lìa xa ước mơ, khát vọng học hành để sa ngã vào con đường trộm cắp. Kiêu may mắn được bà Hát, một họa sĩ, giảng viên đại học phúc hậu, yêu cái đẹp, khao khát tình yêu và hạnh phúc cứu vớt và thắp sáng ước mơ. Cậu được trở về với tình cảm gia đình đùm bọc, thương yêu, chia sẻ. Trong xã hội nhất thời bị xáo trộn bởi đồng tiền, chỉ cần một chút tình người cũng làm ta hạnh phúc. Khi gặp khó khăn có một bàn tay đưa ra đầy nhân ái cảm thông cũng làm ta rùng mình rơi lệ. Đó là bước ngoặt tốt đẹp sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc đời Kiêu. Cuốn tiểu thuyết nhiều ngôn từ giằng xé Nguyễn Văn Học có những trang văn miêu tả dữ dội và trực diện về tâm lý con người và cái ác, bộc lộ những dự cảm chân thực về xã hội, cố gắng chạm sâu vào nỗi đau con người, đó đây lóe lên những phát hiện mới về tâm lý. Tác giả thể hiện nỗi buồn hoang hoải của con người, những vết thương tâm hồn bị khoét sâu cũng được đẩy đến tận cùng tâm can, tới đáy sâu nhất của tâm hồn mỗi người. Nhưng đằng sau những dòng văn thản nhiên ấy, vẫn ẩn chứa một tấm lòng nhân hậu và con mắt đau đáu của người viết dõi theo số phận con người, chia sẻ và đồng hành cùng họ. Dù cuộc sống được mô tả trong tiểu thuyết có khốc liệt đến mấy, thì những trang văn của Nguyễn Văn Học cũng rất chân thật, thấm đẫm tình yêu thương con người. Việc thiết yếu cần làm là chữa lành vết thương cho tâm hồn con người. Phải xoa dịu để những vết thương ấy “nằm xuống”, ngủ yên, cho con người dũng cảm đi lên với cuộc đời mới. Tác phẩm Khi vết thương nằm xuống đã mở ra niềm hy vọng: Dù cuộc đời gập ghềnh, gian khổ, nhưng luôn vẫn còn những con đường tốt lành cho mỗi người... Tiểu thuyết “khi vết thương nằm xuống” thêm nhiều hy vọng vào giữa cuộc đời còn nhiều giông tố. Nguyễn Văn Học: Tên vận vào đời Cuộc đời Nguyễn Văn Học trải qua nhiều khốn khó. Những trở ngại của đời thường là nguồn dinh dưỡng tốt nuôi tâm hồn người, nếu người có đời sống nội tâm và hướng thiện để cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Trân trọng giới thiệu! *** Năm năm trôi qua, biết bao nhiêu đám mây đen trắng đã trôi qua bầu trời. Những trận mưa gió đã trút xuống dân gian, không ai cầm bút mà ghi nó lại. Không ai có thời gian, tâm trạng nào làm điều đó, điều vô nghĩa, xoàng xĩnh, chẳng ra tiền. Một người viết là tôi đã cầm bút ghi lại tất cả những trận mưa to nhỏ mình gặp, chỉ để làm một nhật ký trong đời, chỉ để xem từ giai đoạn đó trở đi, cứ đánh dấu từ sau giấc mơ Kiêu chắc chắn mẹ mình chết, tôi chứng kiến bao nhiêu cơn mưa. Kiêu đã là một chiến sĩ, oai phong dũng cảm. Thời gian cho tôi là một gã đàn ông, thời gian cho tôi là chồng Hoằng. Chúng tôi tìm thấy điểm chung ở nhau, làm đám cưới. Tôi vẫn tự hào đó là một người bạn chân tình, một người vợ đảm đang, và nàng còn giống như một người mẹ của tôi nữa. Điều đó chẳng có gì phải xấu hổ, tôi tự hào vì điều đó, vì tình yêu của nàng đối với tôi, vì sự săn sóc của nàng đối với một người viết văn, chuyên vác cái "máy quay" nhãn quan của mình đi quan sát thiên hạ, những lát cắt cuộc sống để vẽ thành truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Tôi hạnh phúc vì tình yêu, vui vì tình yêu và tự hào vì tình yêu. Không có sự khiên cưỡng nào, không có chút rắc rối gì ở giữa tôi, Kiêu và Hoằng. Bởi vì tôi tin, Hoằng và Kiêu đã nghĩ đến những điều lớn lao hơn là ôn lại chuyện chẳng vui gì trong quá khứ. Chúng tôi nhìn đến ngày mai để sống. Ngần ấy thời gian đã trôi qua, ngần ấy thời gian không dập tắt được sự thèm khát của bà Hát, mẹ nuôi Kiêu. Những năm tháng đó, đã trôi đi như những đám mây trên trời và chỉ khắc lại trong lòng bà Hát sự thèm khát, thứ tình yêu nguyên thủy đối với cậu con trai. Đêm dài là kẻ thù của kẻ không được thỏa mãn, đêm dài liên tiếp kéo nhau đi mãi. Bà không muốn làm tổn thương con một lần nữa. Sự chịu đựng mỗi ngày dày thêm, mưng mủ, âm thầm thiêu đốt. Kiêu chưa yêu thêm được một người nào khác, ẩn ức sôi trào trong cậu. Cuộc sôi trào to lớn nhất đã đánh bại tất cả những kìm nén, rào cản, khiến cậu ngã nhào, không còn chống đỡ nổi một đòn. Cậu không cựa quậy, đầu hàng trước cơn sóng trào của bà Hát đổ bộ lên mình, hai con người lúc đó, không hiểu đã tìm đâu ra cảm xúc, để cùng lúc ầm ào giật lên, thét gào. Sau đó là một sự hụt hẫng, ân hận của Kiêu. Cậu thấy mình đã sai, hoàn toàn, luôn miệng rủa “Tôi là kẻ khốn nạn”, rồi đấm thùm thụp vào ngực. ... Mời các bạn đón đọc Khi Vết Thương Nằm Xuống của tác giả Nguyễn Văn Học.
Đêm Hồng Hoang - René Barjavel
Khi đoàn thám hiểm Pháp ở Nam cực thông báo về dấu tích của một nền văn minh 900,000 năm, các nhà khoa học trên khắp thế giới họp nhau lại cùng khám phá và hướng dẫn đoàn. Toàn bộ hành tinh nhìn qua truyền hình vệ tinh toàn cầu, hiện ra thật đẹp đẽ, rồi các nhà thám hiểm phát hiện ra một căn phòng có một người đàn ông và phụ nữ đang trong tình trạng thực vật. Người phụ nữ Éléa tỉnh giấc và thông qua chiếc máy phiên dịch cô kể về thế giới của mình, về mình và về Païkan chồng cô, và rằng chiến tranh đã hủy hoại nền văn minh của họ như thế nào. Cô cũng cho hay mình và đồng sự đang trong tình trạng thực vật có nguồn kiến thức vô cùng tiên tiến (không phải Païkan, mà là khoa học gia Coban cô không ưa chút nào), nguồn kiến thức đem đến năng lượng và thức phẩm cho toàn nhân loại không phải trả tiền mua. Tuy nhiên, các siêu cường quốc chưa sẵn sàng công bố bí mật của Éléa, tác phẩm cho thấy 900,000 năm và ngày tận thế sau đó, nhân loại vẫn chưa trưởng thành và đang sắp sửa phạm phải sai lầm một lần nữa. *** Tới thời điểm này thì "Đêm hồng hoang" vẫn là cuốn sách hay nhất tôi đọc năm 2019. Một tác phẩm mang tính thời đại không chỉ hấp dẫn tuyệt đối mà còn mang đến bao cảm xúc, khiến trái tim tôi rung động sâu sắc. Câu chuyện kể về một đoàn thám hiểm đã khai quật được hai con người đóng băng từ 900.000 năm trước. Bằng mọi biện pháp khoa học họ đã làm sống dậy người phụ nữ cổ đại, để nghe cô kể về một nền văn minh xa xưa đã sụp đổ thế nào. Tác phẩm mang giả tưởng về thời quá khứ song lại dự cảm về tương lai, cảnh báo loài người trước họa diệt vong do chính mình gây nên. Bởi chiến tranh, bởi lòng tham, sự ngu dốt và ích kỷ. Tác giả đã phê phán, đã lên án những điều đó một cách mạnh mẽ, ông mở ra cho chúng ta cái nhìn sống động, dữ dội, tràn đầy đau xót để chúng ta hiểu được và trân trọng cuộc sống mình đang có. Câu chuyện viễn tưởng còn đan xen chút lãng mạn, một tình yêu thật đẹp, đi qua tận cùng thế giới và vượt qua thời gian đằng đẵng. Đi qua những bi kịch của một thời đại, ám ảnh và buồn thương biết mấy. Đặc biệt là cao trào cuối cùng, không thể không khiến người đọc lặng đi. Tôi đánh giá cao tác phẩm có lẽ vì yêu thích chủ đề về nhân loại, tương lai Trái đất, tận thế, hậu tận thế, thích những yếu tố sáng tạo, giàu trí tưởng tượng... song "Đêm hồng hoang" thuyết phục tôi, đi vào lòng tôi và để lại ấn tượng khó phai đến thế còn bởi tính nhân văn và bao cung bậc xúc cảm. *** Chúng ta luôn xem xét lịch sử nhân loại theo cái cách mà chúng ta quan sát sự trưởng thành của một con người, xuất phát điểm từ một đứa bé không biết gì rồi thu thập kiến thức, phát triển, hoàn thiện hơn. Chúng ta luôn nghĩ lịch sử nhân loại cũng như thế, xuất phát từ thuở hỗn mang rồi từ từ phát triển đến sự văn minh hiện tại, thế nhưng có thể nào là ngược lại, có khi nào nhân loại từ thuở xa xưa đã phát triển vượt bậc hơn chúng ta hiện tại và vì một lý do gì đó mà nền văn minh ấy bị chôn vùi? Đó chính là giả thiết mà René Barjavel đặt ra cho cuốn tiểu thuyết “Đêm Hồng Hoang” của ông khi kể về cuộc phiêu lưu đến tận cùng nguồn gốc của con người. Các nhà thám hiểm Pháp phát hiện ra một nền văn minh hơn 900,000 năm bị chôn vùi dưới những lớp băng sâu thẳm của Nam Cực. Và điều này lập tức gây ra một sự chấn động, vì nó đi ngược lại hoàn toàn với sự hiểu biết của con người trước đó (hay là ta tưởng rằng mình đã biết). Trong cái kén thu hút sự chú ý của các nhà khoa học hàng đầu trên toàn thế giới người ta tìm thấy một người phụ nữ – Éléa – nàng là ai, nàng đã nằm ở đó bao lâu và liệu nàng có phải là chìa khóa để khám phá nền văn mình kỳ lạ dường ấy. Với những kỹ thuật tân tiến, người ta đã thành công trong việc đánh thức nàng thế nhưng nàng thuộc về một thế giới hoàn toàn khác với ngôn ngữ hoàn toàn khác, thậm chí người ta còn không tìm được cách đưa chất dinh dưỡng để nuôi sống nàng vì nàng không ăn uống như con người hiện đại. Các nhà ngôn ngữ tìm cách hiểu được ngôn ngữ của Éléa, để từ nàng mở ra cái thế giới kỳ bí mà chưa ai từng khám phá ra. Chi tiết các nhà phiên dịch phân tích tìm đủ mọi phương pháp để nói chuyện được với Éléa  làm gợi nhớ đến bộ phim “Arrival” của đạo diễn Denis Villeneuve  được phát hành vào năm 2016, quả thật ngôn ngữ và chữ viết chính là cầu nối duy nhất gắn kết được mọi người và thậm chí các nền văn minh khác nhau, ngôn ngữ là chìa khóa để dẫn đến sự thấu hiểu (và đi kèm với nó dĩ nhiên là sự hiểu lầm), nếu như trong “Arrival” là một nền văn mình ở ngoài trái đất thì trong “Đêm hồng hoang” là nền văn minh cổ xưa thế nhưng dường như có những bước phát triển vượt bậc bất ngờ. Điều gì khiến con người có sự cuốn hút với những nền văn minh khác một cách mạnh mẽ đến vậy, đó có phải là do sự khao khát kiến thức: “Chúng ta có chung một thứ to tát hơn những gì chúng ta khác biệt nhau: đó là nhu cầu được hiểu biết. Những người làm văn chương gọi đó là tình yêu khoa học, còn tôi, tôi gọi đó là sự hiếu kỳ. Khi tính hiếu kỳ được thôi thúc bởi trí tuệ thì đó là giá trị cao đẹp nhất của con người.” Người ta thở phào nhẹ nhõm khi máy phiên dịch của thể diễn đạt những lời Éléa thành ngôn ngữ hiện đại mà mọi người có thể hiểu được và chăm chú nghe cô kể lại câu chuyện của thời đại mình. Éléa dẫn dắt những con người hiện đại (và cả độc giả) về với thế giới kỳ lạ khi con người dường như đã phát triển về mặt cảm xúc và thể chất đến mức hoàn hảo, ngay từ khi sinh ra người ta đã hiểu rõ vị trí của mình trong xã hội và thậm chí cả bạn đời của mình đến mãi mãi về sau. Mỗi người được phân công một công việc cụ thể và họ hài lòng với những việc mình được giao. Cái thế giới tưởng chừng vững chắc, văn minh đến thế nhưng lại bị đe dọa bị sụp đổ bởi một điều, mà có lẽ cũng chẳng bất ngờ, đó chính là chiến tranh. Có lẽ bản chất nhân loại thực sự là tham lam, đố kị và hiếu chiến nên ở đâu có con người thì ở đó sẽ có chiến tranh, ngay từ thuở ban sơ khi con người mới vừa xuất hiện? Ngay từ những xã hội tưởng chừng được gắn kết mạnh mẽ nhất? Ngay từ những con người cứ ngỡ hiền lành, lương thiện nhất? Song song với câu chuyện của Éléa là cuộc tranh giành của các đế quốc để được sở hữu bí mật của nền văn minh kỳ lạ kia. Họ đã không từ các thủ đoạn để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng chém giết nhau để có được vũ khí tối thượng từ nền văn minh cổ xưa. Trải qua giấc ngủ 900,000 năm, Éléa liệu có giật mình khi bản chất con người vẫn không thay đổi, nhân loại vẫn tìm cách hãm hại nhau để tranh giành quyền lực như thuở hồng hoang? René Barjavel có một câu chuyện hấp dẫn và gợi mở thế nhưng đáng tiếc lại được viết quá dài dòng và rối rắm. Những đoạn tình yêu đơn phương của nhà khoa học Pháp dành cho Éléa khá sến sẩm và rời rạc, có thể hoàn toàn cắt bỏ những đoạn độc thoại ấy ra khỏi cuốn sách mà không ảnh hưởng đến cốt truyện, thậm chí câu chuyện tình của Éléa và Paikan – chồng cô – cũng quá dư thừa, dù mục đích để thể hiện mối liên kết mạnh mẽ về thể xác và tinh thần của hai con người trong nền văn minh cổ xưa nhưng có nhiều đoạn không cần thiết. Cuộc xung đột giữa các sắc tộc trong cuốn sách chưa được đẩy lên đến cao trào với một kết thúc kịch tính và đơn giản so với cốt truyện khá rối rắm mà René Barjavel xây dựng, dường như ở đoạn cuối cùng ông trở nên bối rối vì chính những thứ mình bày biện ra và không biết phải dọn dẹp thế nào cho gọn ghẽ. “Đêm hồng hoang” là một cuốn sách phù hợp dành cho những bạn đọc hâm mộ thể loại khoa học giả tưởng với một cốt truyện gợi mở và đặt ra nhiều vấn đề khiến ta suy ngẫm. Còn với riêng tôi, cuốn sách vẫn chưa khiến tôi thật sự hài lòng bởi cái kết như thể đang xem một bộ phim hành động hạng hai thiếu kinh phí nên đành đắp vào bằng một kết thúc quá nhanh chóng và có phần ủy mị.   Mời các bạn đón đọc Đêm Hồng Hoang của tác giả René Barjavel.
Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây
“Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm màu đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi.” Lưu Thập Tam sinh ra và lớn lên ở thị trấn Ngàn Mây – nơi có một tiệm tạp hóa với đống hàng hóa chồng chất theo năm tháng và những con người đã để lại vô vàn dấu ấn không sao xóa nhòa trong ký ức cậu. Cả một tuổi thơ sôi nổi và êm đềm, cậu đều trải qua bên bà ngoại ở nơi đây. Con người ta chỉ biết trân trọng những thứ mìnhy có khi nó dần tan biến. Rời khỏi thị trấn, bước chân trên con đường “trưởng thành”, Lưu Thập Tam mới dần thấu hiểu: những hồi ức đẹp đẽ nơi trấn nhỏ chính là một thứ vô cùng quý giá – là mái ấm, là góc nhỏ bình yên trong lòng cậu, để mỗi lần đối mặt với gian nan, mệt mỏi, thất bại và tuyệt vọng đến sức cùng lực kiệt, Lưu Thập Tam biết, vẫn luôn có một nơi gọi là “quê hương” che chở cho cậu khi trở về. Đây là một câu chuyện dành tặng cho những bi thương, vất vả, những giọt nước mắt tủi vô thức nơi khóe mắt mỗi chúng ta khi bước trên đường đời, cũng chính là những hy vọng và tia sáng không bao giờ tắt dẫn lối cho ta tiến về phía “trưởng thành”. *** NÚI RỪNG, GỐC ĐÀO, VƯƠNG OANH OANH “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Đầu hè, dưới mái hiên, Lưu Thập Tam cắn hết vốc hạt dưa, bảo bà ngoại: “Con cảm thấy có người đang nhớ bà cháu mình.” Bà đáp: “Nhớ có ích gì, sao không cho tiền ấy.” Cát cánh nở đầy thị trấn, bồ công anh bay vượt qua tán lựu, dạt vào ruộng lúa dưới chân núi. Trong lòng đa số người, quê hương sau này sẽ trở thành một chấm đen, như hòn đảo lẻ loi ngàn đời không thay đổi. Bà ngoại nói, tổ tiên đời đời chôn cất ở đây, nên gọi là quê hương. Thị trấn nhỏ trong núi, tựa như đội đất chui lên. Từ khi đỗ đại học rồi rời quê, ngoài những dịp lễ Tết ra, Lưu Thập Tam chẳng bao giờ trở lại. Bà ngoại tên đầy đủ là Vương Oanh Oanh, mở quán tạp hóa tại nhà đã mấy chục năm. Bà mặc áo ngắn tay hoa nhí, mái tóc bạc phơ vấn thành búi, cánh tay giấu trong bao tay áo, tất bật chạy qua chạy lại. Trời ấm dần lên, bia bán chạy như tôm tươi, bà chồng từng két bia lên rồi hổn hển lau mồ hôi, “Mày có phụ một tay không, không làm bà giết.” Lưu Thập Tam rầu rĩ đáp: “Con không ở mãi xó rừng rú này được đâu.” Bà hỏi: “Bán bảo hiểm thế nào rồi, có kiếm được không?” Lưu Thập Tam thở dài, “Tiền không quan trọng, con đang khởi nghiệp mà.” Trong sân trồng một cây đào, bà đứng dưới gốc cây, cầm chổi quét sân, liếc xéo cậu: “Hay thế này, bà bán quách nhà đi, cho mày tiền khởi nghiệp nhé?” Lưu Thập Tam ôm chầm lấy bà, “Con yêu bà nhất.” Bà đá cậu ra, “Thôi thôi, tránh ra đi.” Lưu Thập Tam hỏi: “Trưa nay ăn gì ạ?” Bà châm điếu thuốc, đáp: “Ai rỗi hơi lo cơm cho mày, đi kiếm tiền đi.” Tháng Sáu, ve đã râm ran từ lâu, kêu ra rả không dứt, khi gần khi xa, ong ong như cơn ù tai khi vừa thức dậy. Bà ngoại thò đầu vào cửa giục: “Kiếm nhiều tiền vào, tối nay bà mời cơm, uống hai chén.” Hai chén rượu với Vương Oanh Oanh chẳng thấm vào đâu. Tối qua bà ít nhất phải uống đến hai chục chén, ngà ngà mắng cậu: “Thất tình có gì mà buồn, yêu đứa khác đi!” Lưu Thập Tam chống chế: “Nhưng con chưa quên được cô ấy.” Bà ngoại xót xa ôm lấy cậu, dịu dàng dỗ: “Mày xấu nên người ta bỏ là phải. Người ta xinh nên mày không quên được là đúng. Muốn khóc thì cứ khóc đi, bà thương mày, bà xui xẻo.” Lưu Thập Tam khẽ cựa mình, phát hiện bà ôm rất chặt, bèn quờ lấy bình rượu tu cạn rồi thiếp đi trong lòng bà. Chắc bà chẳng nhớ chuyện tối qua, nên vẫn hăng hái như thường. Lưu Thập Tam bị đá ra cửa, ngoái lại trông thấy nửa thân đào cao vượt khỏi tường vây, bảng hiệu cũ kỹ của quán tạp hóa treo lủng lẳng trên cửa, có mây trắng núi xanh xa xa làm nền. Lưu Thập Tam thật sự bó tay hết cách. Mấy hôm trước, cậu còn đang nai lưng đi làm ở thành phố, cuối cùng vừa thất tình vừa thất nghiệp, đau lòng khôn tả. Vương Oanh Oanh xách hai chai rượu gạo đến chỗ cậu ở, chuốc cho cậu say mèm rồi lôi về. Bà cụ bảy mươi tuổi lái máy kéo cả đi cả về hai trăm cây số, trói thằng cháu ngoại say bí tỉ trong thùng xe. Bà than thở: “Đường xóc quá, thằng ngốc này thì nôn liên tục như đứa thiểu năng. Hơi một tí lại phải xuống xe lau cho nó. Khổ quá đi mất.” Lưu Thập Tam tỉnh lại, trợn tròn mắt nhận ra mình đang nằm trong căn nhà nhỏ giữa núi. Khó khăn lắm mới rời khỏi quê, quyết tâm làm nên sự nghiệp, nào ngờ lại bị Vương Oanh Oanh lái máy kéo tới, lôi về thị trấn Ngàn Mây. Ngôi nhà này lưu giữ tuổi thơ của Lưu Thập Tam. Mỗi khi tan học, cậu lại lẽo đẽo bám lấy bà ngoại hỏi đủ thứ chuyện. Thằng bé hỏi: “Bà ơi, sao trời cao thế?” Bà đáp: “Con có thấy mây không? Đó là cánh của trời đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, rất nhiều chuyện đã rất nhiều năm. Từ nhỏ đến lớn đều là bà đóng học phí cho cậu, mà thu nhập của bà chủ yếu bắt nguồn từ quán tạp hóa Oanh Oanh. Từ khi cậu hiểu chuyện, bà đã ngậm điếu thuốc, lái máy kéo rong ruổi khắp núi rừng, hàng hóa chất thành đống trong thùng xe. Thuở bé, Lưu Thập Tam giận bà vì vô số việc, nhưng chủ yếu là ba chuyện: Một, cho ít tiền tiêu vặt. Hai, chơi mạt chược quá nhiều. Ba, không tôn trọng mơ ước của cậu. Mỗi lần cậu nói: “Bà chơi ít thôi, dành tiền cho con này, để con thực hiện ước mơ.”, bà ngoại lại nghi ngờ hỏi: “Mày mới học lớp Bốn, mơ mộng cái gì?” Lưu Thập Tam đáp: “Đỗ vào Thanh Hoa, Bắc Đại, rời khỏi Vương Oanh Oanh, đến thành phố lớn.” Nghe vậy bà liền vơ dao đuổi cậu chạy khắp phố. Lưu Thập Tam trèo tót lên cây, nghiêm trang nói vọng xuống: “Bà ngoại, con nói cho bà biết, bà phải tôn trọng mơ ước của con.” Bà đáp: “Không thích ở với bà, định học theo mẹ mày, lẳng lặng bỏ đi đấy phải không?” Lưu Thập Tam đáp: “Con không học theo mẹ, con gửi tiền cho bà, tám vạn mười vạn đều vô tư!” Bà bổ dao vào gốc cây, “Bà đợi thế nào được đến lúc ấy, mày cứ đưa tiền mừng tuổi năm ngoái ra đây đã.” Lưu Thập Tam ngớ người rồi òa khóc thảm thiết, “Xấu hổ lắm! Con không học tiểu học nữa đâu! Con thi luôn vào Thanh Hoa, Bắc Đại, lấy vợ sinh con thôi!” Mười bốn năm trước, bà ngoại nhận được một bức thư. Bà không biết chữ, nhưng cũng không đưa cho Lưu Thập Tam đọc mà cất vào hộp bánh quy thiếc cùng mấy món trang sức. Bấy giờ Lưu Thập Tam tò mò lục ra xem rồi lén lút viết một bức thư trả lời, gửi theo địa chỉ ghi trên đó. Cậu viết rất đơn giản: Xin chào, con tên Lưu Thập Tam, cháu ngoại bà Vương Oanh Oanh, hai bà cháu sống rất chật vật, gửi cho ít tiền đi. Từ đó, cậu còn háo hức chờ hồi âm hơn cả bà. Giữa con phố chính của thị trấn là cửa hàng mậu dịch cũ, về sau sửa thành nhà thờ. Trước cửa hàng có một hòm thư, đối diện quán bánh bao. Lưu Thập Tam đeo túi chéo, hỏi bác Trần bưu tá: “Có thư của cháu không? Có thì nhớ đưa cho cháu, đừng đưa cho bà Vương Oanh Oanh.” Bác hỏi lại: “Sao vậy?” “Bác già rồi hỏi nhiều thế làm gì, cháu chia hoa hồng cho bác nhé?” Lưu Thập Tam đợi suốt cả học kỳ, đến Tết, nhân lúc bà ngoại uống say, cậu mới dám dò hỏi người kia rốt cuộc là ai, liệu có gửi tiền không? Đột nhiên bà ngoại bật khóc nức nở, khiến Lưu Thập Tam phát hoảng, cuống quýt lau nước mắt cho bà, “Bà ngoại, bà đừng khóc nữa, đợi con lớn lên ra thành phố sẽ gửi tiền cho bà.” Sau khi bác Trần qua đời, chẳng có bưu tá mới đến, hộp thư cũng biến mất, mọi người hiếm khi viết bằng bút máy. Bất kể ai trải giấy ra, viết ba chữ “anh yêu em”, đều có thể trở thành bức thư tình cuối cùng của thế kỷ 21. Lưu Thập Tam cũng viết một bức, kẹp vào sách Ngữ văn của cô bạn Trình Sương ở lớp học thêm hè năm lớp Bốn, vỏn vẹn mấy chữ: Tớ thấy cậu xinh hơn cả cô La, ăn ô mai không? Cô La là chủ nhiệm lớp, đồng thời cũng là dì của Trình Sương, mới ngoài hai mươi, tuổi xuân phơi phới. Hôm sau lên lớp, cô xách tai Lưu Thập Tam lôi vào phòng giáo viên, dịu dàng hỏi: “Em thấy cô có xinh không?” Lưu Thập Tam quả quyết: “Xấu như ma cấu.” Cả phòng giáo viên cười ồ lên, cô Vu dạy Toán ghé sang hỏi: “Còn cô thì sao?” Lưu Thập Tam phân vân giây lát rồi đáp: “Chắc cô La định đánh em đấy, cô cứu em với.” Cô Vu nói: “Cô ấy đánh là dĩ nhiên, giờ chỉ xem cô có đánh em không thôi.” Lưu Thập Tam trả lời: “Cô trẻ hơn cô ấy nên xấu vừa vừa thôi.” Cô Vu ra lệnh: “Ra hành lang, đứng dựa vào tường đến khi tan học.” Lưu Thập Tam hỏi lại: “Cô không hỏi em thấy hiệu trưởng thế nào à?” Mọi người trong phòng giáo viên vội ngừng công việc, bao nhiêu con mắt như đèn pha đổ dồn vào cậu. Cậu bĩu môi, “Thầy ấy chẳng ra sao, học thêm hè mà huy động từng này người thì khác gì học chính?” Kết quả cậu bị đưa từ phòng giáo viên sang phòng hiệu trưởng. Hiệu trưởng rót một chén trà, Lưu Thập Tam vội bưng ngay lên uống, khiến thầy ngạc nhiên ra mặt, “Thầy rót cho thầy cơ mà.” Lưu Thập Tam thổi lá trà, nhấp một ngụm rồi tặc lưỡi, “Đắng ngắt, có tiền người ta đã uống nước quýt cho ngọt rồi.” Hiệu trưởng gõ xuống bàn, “Thập Tam viết thư tình dở ẹc.” Lưu Thập Tam khinh khỉnh liếc thầy, “Em đọc hết sách trong thư viện trường rồi, thầy dựa vào cái gì mà nghi ngờ năng khiếu văn học của em?” Hiệu trưởng mỉm cười đưa cho cậu một quyển sách cũ nát, trang bìa lốm đốm mấy vết cháy sém, viết bốn chữ Khải: Nhân gian từ thoại*. Lưu Thập Tam lật qua lật lại, đầu ong lên, đã văn ngôn* lại còn đọc theo hàng dọc. Hiệu trưởng nói: “Mấy hôm nữa tôi sẽ kiểm tra em.” Trong đầu Thập Tam nhảy số thật nhanh, đáp ngay: “Năm 1997, Hồng Kông trở về với Đại lục.” Hiệu trưởng hỏi: “Em nhắc tới chuyện này làm gì?” Lưu Thập Tam nghiêm trang dõng dạc: “Hồng Kông được trả về, thế giới đại đồng, tàn dư phong kiến nhà thầy còn đọc chữ phồn thể, định phản động à?” Hiệu trưởng lẳng lặng đặt chén trà xuống, để cuốn sách vào lòng Lưu Thập Tam, xoa đầu cậu rồi nghiêm nghị nói: “Em đọc đi, đọc kỹ vào, thằng oắt con, đọc không hiểu thì liệu hồn đấy, cút ra.” Mời bạn đón đọc Ngang Qua Thị Trấn Ngàn Mây của tác giả Trương Gia Giai & Tố Hinh (dịch).
Sau Màn Sương Lạnh - Trần Hữu Tòng
Sau Màn Sương Lạnh là tiểu thuyết phản gián viết về giai đoạn quân và dân ta ở vùng biên giới phía Bắc chống lại âm mưu, thủ đoạn thâm độc của người "bạn" lớn. *** Trần Hữu Tòng sinh năm 1938 ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tháng 4/1954, ông nhập ngũ khi mới vừa tròn 16 tuổi và là một trong những người đầu tiên xẻ núi, mở rừng xây dựng Đồn biên phòng Cầu Treo. Dẫu sau này, ông có hơn 15 năm làm phóng viên Báo Công an nhân dân vũ trang, 20 năm là phóng viên báo Quân đội nhân dân, 5 năm đảm nhận chức vụ Cục trưởng Cục Văn hóa Thông tin cơ sở - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, được đi đến nhiều miền đất của Tổ quốc, thì cái tên Nước Sốt - Cầu Treo vẫn là một vùng ký ức sâu đậm trong cuộc đời. Cũng chính vì xuất thân từ một người lính biên phòng, tác phẩm đầu tiên cũng được ra đời nơi biên viễn, thế nên chủ đề về biên giới và hình tượng người lính biên phòng cứ bền bỉ gắn với những trang viết của Trần Hữu Tòng trong suốt khoảng thời gian dài bằng cả đời người. Đến nay, nhà văn Trần Hữu Tòng đã xuất bản gần 30 tác phẩm gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn mà không có tác phẩm nào vắng bóng người chiến sĩ biên phòng. Với hàng chục tác phẩm về đề tài biên giới và người chiến sĩ biên phòng như: "Ngôi sao biên cương", "Dấu vết để lại", "Tín hiệu bình yên", "Bên dòng Păng Pơi", "Cơn lốc rừng thông", "Bầy cọp núi", "Cánh rừng và hai vầng trăng", "Bếp lửa đêm rừng", "Phiên gác trăng tà", “Sau màn sương lạnh”, “Bóng núi” cùng nhiều giải thưởng văn học có giá trị trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói rằng với nhà văn Trần Hữu Tòng ký ức của một thời trai trẻ, về những miền đất xa xôi nơi biên ải, nơi những người lính trẻ như ông thuở nào đang làm nhiệm vụ canh giữ biên cương cho Tổ quốc, chắc hẳn vẫn luôn tươi mới và là nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút của ông.   Mời các bạn đón đọc Sau Màn Sương Lạnh của tác giả Trần Hữu Tòng.