Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lỗi Tại Đàn Ông (Cấn Vân Khánh)

Tập tản văn mới nhất của nhà văn Cấn Vân Khánh là những dòng suy tư của chính tác giả xoay quanh những đề tài quen thuộc: Phụ nữ và cuộc sống.

Bằng những góc nhìn mới lạ, đặc biệt trong cuốn sách này lại có phần táo bạo hơn trước, một giọng văn ôn hòa và dịu dàng lần này bỗng trở nên cứng cỏi và dí dỏm hơn khi kết tội Lỗi tại đàn ông. Cùng đọc tản văn với Cấn Vân Khánh để xem các quý ông trong mắt phụ nữ sẽ ra sao? Và họ sẽ đối phó như thế nào?

Đọc và khám phá rất nhiều chuyện hậu trường thú vị đằng sau đó. Bìa sách với thiết kế hình ảnh vô cùng ấn tượng cũng khiến người đọc thích thú vì những ý nghĩa ẩn sau đó: Tại sao người đàn ông có thể quần là áo lượt, ăn vận chỉnh tề trong khi người phụ nữ lại lôi thôi lếch thếch, chạy đôn chạy đáo? Thật không công bằng, tất cả là… lỗi tại đàn ông!

***

Tác phẩm có tựa đề như một lời trách mắng yêu từ chính tác giả gửi cho cánh đàn ông, đồng thời cũng ẩn chứa một loạt thông điệp sâu sắc dành cho phụ nữ. Tìm mua: Lỗi Tại Đàn Ông TiKi Lazada Shopee

Bìa của cuốn Lỗi tại đàn ông.

Phải thừa nhận rằng, Cấn Vân Khánh không phải là một nhà văn quá nổi bật, nhưng những tác phẩm được xuất bản khá đều đặn của cô vẫn thu hút một lượng người đọc nhất định. Sau 6 cuốn sách đã được xuất bản, từ tác phẩm đầu tay mang tên “Chàng hề của em” (1998) đến tác phẩm mới nhất “Vết son trên môi anh” xuất bản trong năm nay đã phần nào định vị tên tuổi của Cấn Vân Khánh như một cây bút tiềm năng trong văn Việt.

Nếu như ở những tác phẩm trước, người đọc biết đến Cấn Vân Khánh với giọng văn đầy dịu dàng và nữ tính nhưng vẫn phần nào hơi mơ mộng và đôi chỗ quá sức lãng mạn bay bổng, thì với tập tản văn mới nhất này, có lẽ độc giả của cô sẽ khá bất ngờ với một Cấn Vân Khánh đằm thắm, thâm trầm và dường như đã đủ “độ chín” của một người phụ nữ ngoài ba mươi. Lỗi tại đàn ông bao gồm 25 mẩu chuyện được viết bởi con mắt quan sát tinh tế và một cảm quan nhạy bén sắc sảo, mang đến cho bạn đọc những khám phá và chiêm nghiệm thú vị của chính tác giả về những chuyện muôn thuở giữa đàn ông và phụ nữ.

Khám phá tác phẩm mới nhất của nữ nhà văn, phụ nữ có lẽ sẽ dễ dàng tìm thấy sự đồng cảm và đồng điệu với những gì Cấn Vân Khánh truyền tải. Những mẩu chuyện đời thường đều được cô thu thập và ghi lại đầy tỉ mỉ, dí dỏm nhưng cũng không kém phần sâu sắc và quan tâm. Bởi thế, có lẽ không quá khó để nhìn thấy chính mình trong đó, qua những mẩu chuyện như Xinh đẹp ngay cả khi đang ốm, Hy sinh - Bản năng của đàn bà, Chẳng có gì mãi mãi, Khi đàn ông nói lời chia tay, hay Người đàn bà đến sau… Vẫn bằng một giọng văn nhẹ nhàng, dịu dàng và trầm lắng, nhưng có thể thấy rõ sự trưởng thành của ngòi bút Cấn Vân Khánh với một sự hấp dẫn đến từ vẻ mạnh mẽ nội tại cũng như những cuốn hút đến từ óc hài hước và ý nhị của cô.

Viết về cuốn tản văn Lỗi tại đàn ông, nhà thơ - nhà báo Thiên Anh chia sẻ một cách đầy thích thú: “Tôi cứ hình dung đàn bà trong tập tản văn của Cấn Vân Khánh như con mèo bé nhỏ, mềm mại, luôn thích được người đàn ông của mình ôm ấp vuốt ve nhưng vô cùng tinh anh, và không bao giờ bạn thực sự đoán định được điều gì ẩn giấu sau đôi mắt của nàng. Lỗi tại đàn ông lôi cuốn người đọc bởi những câu chuyện, những chia sẻ giản dị, đời thường nhưng đủ sức ám ảnh không chỉ đối với đàn bà mà các đấng mày râu cũng sẽ bị hấp dẫn bởi sự tò mò đầy khiêu khích”.

Có thể nói, năm 2013 đánh dấu một năm khá thành công đối với nữ nhà văn trẻ khi cô cho ra mắt đồng thời cả hai tập sách “Vết son trên môi anh” và “Lỗi tại đàn ông”. Với ngòi bút đang dần trở nên dày dạn và lão luyện hơn mỗi ngày, nữ nhà văn sinh năm 1979, người từng đạt giải thưởng Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền Phong hứa hẹn sẽ còn cho ra đời thêm nhiều tác phẩm có giá trị.

***

Đánh dấu sự trở lại với tập tản văn “Lỗi tại đàn ông”, người đọc đón nhận một Cấn Vân Khánh trải nghiệm hơn, dịu dàng hơn và cũng…đàn bà hơn rất nhiều.

Cấn Vân Khánh là một tác giả trẻ, nhưng đã có nhiều tác phẩm tạo sức hút đối với độc giả. Tác giả Cấn Vân Khánh sinh năm 1979, tốt nghiệp khoa Sáng tác- Lý luận- Phê bình văn học tại Đại học Văn hoá Hà Nội. Chị từng đoạt giải thưởng Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền Phong và đã xuất bản 6 cuốn sách gồm: Chàng hề của em (NXB Trẻ, 1998), Hạnh phúc mơ hồ (NXB Văn hoá Sài Gòn, 2006), Khi nào anh thuộc về em (NXB Hội nhà văn, 2008), Người đàn ông có đôi mắt trong (NXB Hội nhà văn, 2008), Hoa hồng và rượu vang (NXB Văn học, 2012), Vết son trên môi anh (NXB Văn học, 2013).

Chị yêu thích viết văn, làm thơ từ khi còn đang đi học và luôn say mê tìm đọc các tác phẩm cũ, mới thuộc mọi thể loại. Cấn Vân Khánh thích chất văn nhẹ nhàng, tinh tế của nhà văn Lý Lan, truyện ngắn của nhà văn Ba Lan Janusz Leon Winsniewski. Phụ nữ và tình yêu luôn là những chủ đề yêu thích của Cấn Vân Khánh. Chị dành cho phụ nữ một sự ưu ái đến kì lạ. Dưới ngòi bút của chị, người phụ nữ được bảo vệ, được yêu thương, trân trọng và cảm thông sâu sắc. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên từng nhận xét về phong cách của Cấn Vân Khánh: “Nhẹ nhàng và mong manh, dịu dàng và day dứt, những trang viết của Cấn Vân Khánh, là truyện, là tạp văn, đều ấp ủ một nỗi buồn trong trẻo, hoang sơ của một tâm hồn nữ, của một tâm hồn trẻ”.

Năm 2013 là một năm thành công với tác giả Cấn Vân Khánh, ngay sau khi đánh dấu sự trở lại của mình với tác phẩm Vết son trên môi anh, tháng 10 này chị lại tiếp tục gửi đến các bạn độc giả tập tản văn Lỗi tại đàn ông. Trong tập tản văn này bạn đọc nhận ra một Cấn Vân Khánh trải nghiệm, thực tế hơn nhưng cùng giàu cảm xúc thăng hoa hơn rất nhiều. Đọc Lỗi tại đàn ông khiến người phụ nữ tìm thấy sự đồng cảm, những cô gái trẻ nhận được sự dẫn dắt và người đàn ông hiểu hơn về người phụ nữ của mình. Bạn đọc sẽ thu thập được những “bí kíp” để vun đắp hạnh phúc gia đình trong Xinh đẹp ngay cả khi đang ốm, Giấc ngủ ái tình, Hy sinh- Bản năng của đàn bà; nhìn thấy bóng dáng mình đâu đó trong Chiếc va li tình yêu, Tôi không muốn là người nhạy cảm, Chẳng có gì mãi mãi hay tìm được nơi để trải lòng với Ngoảnh đầu nhìn lại, Khi đàn ông nói lời chia tay,…

Với Lỗi tại đàn ông Cấn Vân Khánh không chỉ thử sức với thể loại tản văn bên cạnh những câu chuyện ngắn quen thuộc mà còn đánh dấu sự phá cách trong phong cách văn chương của chị. Vẫn là những dịu dàng nhưng có thêm phần cứng cỏi pha chút hài hước và ý nhị. Lời trách cứ Lỗi tại đàn ông giống như câu mắng yêu mà người phụ nữ dành cho người đàn ông của mình, dù bực bội nhưng chẳng thể ngừng yêu thương.

Đọc cuốn tản văn Lỗi tại đàn ông nhà thơ, nhà báo Thiên Anh đã chia sẻ rằng: “Tôi cứ hình dung đàn bà trong tập tản văn của Cấn Vân Khánh như con mèo bé nhỏ, mềm mại, luôn thích được người đàn ông của mình ôm ấp vuốt ve nhưng vô cùng tinh anh, và không bao giờ bạn thực sự đoán định được điều gì ẩn giấu sau đôi mắt của nàng. Lỗi tại đàn ông lôi cuốn người đọc bởi những câu chuyện, những chia sẻ giản dị, đời thường nhưng đủ sức ám ảnh không chỉ đối với đàn bà mà các đấng mày râu cũng sẽ bị hấp dẫn bởi sự tò mò đầy khiêu khích.”

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lỗi Tại Đàn Ông PDF của tác giả Cấn Vân Khánh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký
Có lẽ hình ảnh Tam Tạng pháp sư Huyền Trang (600-664) đi thỉnh kinh là một trong những hình ảnh gây nhiều ấn tượng sâu sắc và in sâu vào tâm thức của đa số người Việt Nam chúng ta nhất. Con người ấy đã vì pháp quên mình, cô thân chích ảnh, trải bao hiểm nguy, băng ngàn vượt suối, đến tận đất Phật, trong thời buổi đường đi chỉ là những lối mòn hoang sơ đầy bấc trắc, để tìm thầy học đạo suốt 17 năm trời, rồi thỉnh về nước 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Ấn Độ. Thế nhưng, ngoài công trình Tây hành cầu pháp, phiên dịch Kinh điển, Pháp sư còn để lại tập sử liệu rất đặc sắc, " Đại Đường Tây Vực Ký ". Trong tập bút ký này, Huyền Trang đã ghi chép về 138 nước, mà phần lớn Pháp sư đã từng đặt chân đến, rồi dùng ngòi bút của một sử gia chuyên nghiệp, ghi chép rất cẩn thận. Nội dung tổng hợp cả tính Lịch sử, Địa lý và đầy đủ các giá trị văn hoá của từng nước. Có thể nói đây là một tư liệu văn hiến rất trọng yếu dùng để nghiên cứu lịch sự Phật giáo, lịch sử giao lưu giữa các nước vùng Trung Á, Nam Á. ( Hoà thượng Thích Phước Sơn Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam )   Mục lục: Lời giới thiệu của hoà thượng Thích Phước Sơn Đôi nét về tác giả Trần Huyền Trang Nhà chú giải Nhuế Truyền Minh Giới thiệu những vấn đề xung quanh tác giả và tác phẩm " Đại Đường Tây Vực Ký " Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 1) Từ nước A Kỳ đến thuỷ thành Tô Diệp Nước A Kỳ Ni (AGNI) Nước Khuất Chi Nước Khuất Chi ( Tiếp 1) Nước Khuất Chi ( Tiếp 2) Nước Khuất Chi ( Tiếp 3) Nước Bạc Lộc Già Từ Lăng Sơn đến Đại Thanh Trì Thuỷ thành Tố Diệp Địa khu tốt lợi Tổng thuật Địa khu tốt lợi Thiên truyền Thánh Đát La Tư ............. Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 2) Tổng thuật nước Ấn Độ Danh xưng Ấn Độ Cương vực Đơn vị đo chiều dài Tuế thời Nhà ở, cung điện Y phục và trang sức Ăn uống Chữ viết Giáo dục ............ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 3) Nước Điểu Trượng Na và nước Bát lộ la Nước Điểu Trượng Na Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 1) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 2) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 3) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 4) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 5) ................ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 12) Nước Tào Cự Thác nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước tảo Củ Thác Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na ( Tiếp) Nước Đổ Hóa La Cổ Địa Nước An Đát La Phược Hoạt Quốc Năm nước: Mông Kiện, A Lợi Ni, Hạt La Hồ, Cật Lật Sắc Ma, Bát Lợi Hạt ............. Từ Đại Lưu sa trên đường đi về nước *** Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.   Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch. Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển “Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh” của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn “Huyền Trang” , nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy. Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy. Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau: “Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận.....” Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: “Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch” quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy. Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ” mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: “Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai” và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh.   Mời các bạn đón đọc Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký của tác giả Trần Huyền Trang.
Nam Ông Mộng Lục
H ồ Nguyên Trừng (1374-1446) tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, người Đại Lại [1], tỉnh Thanh Hóa. Tổ tiên ông ở hương Bào Đột đất Diễn Châu, đến đời Hồ Liêm mới dời đến Đại Lai. Vì Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn nên đổi họ là Lê. Hồ Nguyên Trừng do vậy còn được sử cũ chép là Lê Trừng. Ông là con trưởng của Hồ Quý Ly nhưng không kế cha làm vua, mà chỉ giữ chức Tư đồ Tả tướng quốc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, quân Minh đã bắt được ông vào năm 1407, đưa về Bắc Kinh cùng cha là Hồ Quý Ly, em là Hồ Hán Thương và cháu là Nhuế (con Hồ Hán Thương). Vì biết chế tạo súng “thần cơ”, một thứ vũ khí có sức sát thương lớn, vượt hẳn các loại súng đương thời, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh tha không giết và sai trông coi việc chế tạo vũ khí [2]. Từ chức công bộ doanh thiện ty thanh lại ty Chủ sự, ông dần dần được thăng làm Lang trung, rồi Công bộ Hữu thị lang, Công bộ Tả thị Lang (1436), Công bộ Thượng thư (1445). Ông mất vào tháng 7 năm Chính thống (1446), thọ 73 tuổi. Nam Ông mộng lục được viết xong vào năm Mậu Ngọ (1438), là tác phẩm duy nhất hiện còn của Hồ Nguyên Trừng. Đầu sách có bài tựa của Hồ Huỳnh, một quan Thượng thư đồng triều với Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống 5 (1440). Tiếp đến là bài tựa của chính Hồ Nguyên Trừng viết vào năm Chính Thống 3 (1438). Rồi đến phần chính của sách gồm 31 thiên truyện. Cuốn sách có bài Hậu tự của Tống Chương, người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết năm Chính Thống 7 (1442). Các truyện trong Nam Ông mộng lục là: 1. Nghệ Vương thủy mạt; 2. Trúc Lâm thị tịch; 3. Tổ linh định mệnh; 4. Đức tất hữu vị; 5. Phụ đức trinh minh; 6. Văn tang khí tuyệt; 7. Văn Trinh ngạnh trực; 8. Y thiện dụng tâm; 9. Dũng lực thần dị; 10. Phu thê tử tiết; 11. Tăng đạo thần thông; 12. Tấu chương minh nghiệm; 13. Áp Lãng chân nhân; 14. Minh Không thần dị; 15. Nhập mộng liệu bệnh; 16. Ni sư đức hạnh; 17. Cảm khích đồ hành: 18. Điệp tự thi cách; 19. Thi ý thanh tân; 20. Trung trực thiện chung; 21. Thi phúng trung gián; 22. Thi dung tiền nhân cảnh cú: 23, Thi ngôn tự phụ; 24. Mệnh thông thi triệu; 25. Thi chí công danh: 26. Tiểu thi lệ cú; 27. Thi cửu kinh nhân; 28. Thi triệu dư khánh (khương); 29. Thi xứng tướng chức; 30. Thi thán trí quân; và 31. Quý khách tương hoan. Nhưng nay chỉ còn lại 28 thiên (mất các thiên 24, 25 và 26), hiện được in trong các bộ sưu tập cổ của Trung Quốc như Kỷ lục vựng biên; Thuyết phu tục quyển thập tứ; Ngũ triều tiểu thuyết đại quan; phần Hoàng Minh bách gia tiểu thuyết; Hàm phân lâu bí kíp đệ cửu tập; Tùng thư tập thành sơ biên, phần Sử địa loại v.v... [3] Theo lời tựa của Tác giả, Nam Ông mộng lục được biên soạn một là để “biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa”; hai là để “cung cấp điều mới lạ cho bậc quân tử” (Nam Ông mộng lục tự). Đối với chúng ta ngày nay, Nam Ông mộng lục là một nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về văn học và sử học nước ta đời Lý Trần, một giai đoạn mà sách vở còn lại rất ít. Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu bài tựa của Hồ Huỳnh, bài tựa của Hồ Nguyên Trừng, bài hậu tự của Tống Chương, cùng 28 thiên hiện còn, theo bản chữ Hán chép ở bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp; Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội; ký hiệu P.521 (2). Bài tựa thứ nhất ở sách “Nam Ông Mộng Lục” Kìa mặt trời, sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, đó là vẻ đẹp của trời: núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, đó là vẻ đẹp của đất; danh hiệu điển chương, lễ nhạc giáo hóa, đó là văn minh của người. Khắp trong trời đất biết bao nhiêu nước, không đâu là không có nền văn minh. Nay ông Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, người Giao Nam [4] đang giữ chức Tả thị lang ở Bộ Công là người tư chất thông minh, tài học xuất sắc, với tôi lại là bạn cùng triều, mới rồi có đem cuốn Nam Ông mộng lục đưa cho tôi xem và nhờ viết tựa. Tôi đọc khắp một lượt, biết “Nam Ông” là tên hiệu của Mạnh Nguyên; văn ông ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình cảm kể việc, theo ý nghĩa đặt lời, vừa thú vị, vừa thiết thực, không truyện nào là không nhằm trình bày thứ bậc giữa vua tôi, làm rõ cái lành mạnh của luân thường đạo lý, thuyết minh chỗ thẳm sâu của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường dẫn tới sự hưng phế của nước nhà. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu nói sau đây của Mạnh Nguyên kể lại nguồn phúc trạch đã hun đúc nên ông: “Ra tự hang sâu, dời đến cây cao [5], (...) sống gập triều thánh [6] tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này” [7] tôi hiểu được tấm lòng của Mạnh Nguyên và cho rằng ông là dấu tích lạ của một phương trời, nay được phô trương ở Trung Hạ [8], nổi tiếng khắp quận ấp, hoặc giả còn để lại thanh danh tới đời sau. Giá không được thánh triều ban cho trọng nhiệm Á khanh thì những chuyện ghi chép trong sách sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai hay biết. Nay nhờ tri ngộ mà sách này sẽ được mãi mãi lưu truyền, há chẳng phải là dịp may lớn đã cứu vãn được một nguy cơ mất mát? Vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào chuyện nhân hậu, nên tôi đã không từ chối, viết vài lời vào đầu thiên sách này. Ngày rằm tháng 10 năm Canh Thân niên hiệu Chính Thống [9] 5 (1440). Hồ Huỳnh, tên chữ là Côn Lăng, giữ các chức tước: Tư đức đại phu, Chính trị thượng khanh, Thượng thư Bộ Lễ. Bài tựa thứ hai ở sách “Nam Ông Mộng Lục” Sách Luận ngữ từng nói: “Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy” [10], huống hồ nhân vật cõi Nam Giao [11] từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì ở nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở bị cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn ai được nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách, đặt tên là “Nam Ông mộng lục”, phòng khi có người đọc tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng tiểu thuyết, nhưng cũng là để góp vui những lúc chuyện trò. Có kẻ hỏi tôi rằng: “Những người ông ghi chép đều là người thiện, vậy thì trong các chuyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?” Tôi trả lời họ rằng: “Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được; còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi”. Họ lại hỏi: “Sách lấy tên là ‘mộng’ ý nghĩa ở chỗ nào?” Tôi trả lời: “Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải ‘mộng’ là gì? Các bậc đạt nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn ‘Nam Ông’ là tiếng Trừng tôi tự gọi mình vậy!”. Ngày Trùng cửu [12] năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống 3 (1438). Lê Trừng tên chữ Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, tước Chính Nghị đại phu, chức Tư trị doãn, Công bộ Tả thị lang đề tựa. ------------------- [1] Đại Lại: tên hương; nay ở phía bắc sông Lèn, huyện Vĩnh Lộc. Tỉnh Thanh Hóa còn có núi Kim Âu, tức núi Đại Lại cũ. Hương Đại Lại có lẽ nằm ở vùng này. [2] Nguyên văn chữ Hán là “chuyên đốc tạo binh tượng cục súng tiễn hỏa dược”, có thể hiểu là chuyên đôn đốc việc chế tạo các thứ tên lửa và thuốc súng ở Cục chế tạo vũ khí. [3] Theo sách Trung Quốc tùng thư tổng lục (dẫn theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng soạn. Série I, tập 6, Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh chủ biên, Học viện Viễn Đông bác cổ Paris xuất bản; Học sinh thư cục Đài Loan ấn hành năm 1986). [4] Giao Nam: còn gọi là Nam Giao, tức Giao Chỉ, tên nước ta thời cổ. [5] Ra tự hang sâu, dời đến cây cao (xuất tự u cốc, thiện vu kiều mộc): hai câu thơ trong bài Phạt mộc ở phần Tiểu nhã trong Kinh Thi, từng được tác giảNam Ông mộng lục nhắc đến trong bài Thi triệu dư khương (Điểm thơ để phúc về sau). [6] Triều thánh (Thánh triều): chỉ triều nhà Minh. [7] Xem Thi triệu dư khương, truyện thứ 28 trong Nam Ông mộng lục. [8] Trung Hạ: chỉ Trung Quốc. [9] Chính Thống: niên hiệu của Minh Anh Tông. [10] Xem Luận ngữ; thiên Công Dã Tràng. “Khâu” là tên của Khổng Tử. [11] Nam Giao: tức đất Giao Chỉ. Có chỗ viết là “Giao Nam”. Từ đấy trở xuống đều dịch là thống nhất là “Nam Giao”. [12] Ngay Trùng cửu: tức ngày 9 tháng 9 Âm lịch. Mời các bạn đón đọc Nam Ông Mộng Lục của tác giả Hồ Nguyên Trừng.
999 Lá Thư Gửi Cho Chính Mình
“999 lá thư gửi cho chính mình” là một tác phẩm đặc biệt đầy cảm hứng đến từ tác giả văn học mạng nổi tiếng Miêu Công Tử, mang một màu sắc riêng biệt qua những lời thư nhỏ nhắn nhủ đến người đọc về giá trị cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ, tương lai… đã làm lay động trái tim của hàng vạn độc giả trẻ. Cầm trên tay cuốn sách “999 lá thư gửi cho chính mình” – bạn sẽ hiểu rằng: tuổi trẻ của chúng ta dù có mong manh đến đâu thì cũng sẽ thành công vượt qua mọi khó khăn một cách mạnh mẽ ngoài sức tưởng tượng. Một ngày nào đó, bạn sẽ cảm nhận được hạnh phúc, tự tin của chính bản thân và học được cách mỉm cười trước những nỗi đau của quá khứ. Bạn sẽ biết cách nói lời cảm ơn với những ai đã rời bỏ bạn, hiểu ra rằng họ không phải người thích hợp để cùng đồng hành với bạn trên đoạn đường chông gai đi tới tương lai. Đôi lúc bạn có thể yếu đuối mỏi mệt rơi nước mắt, thế nhưng khi bất chợt nhìn lại, bạn sẽ thấy thì ra mình đã rất mạnh mẽ, dũng cảm đi hết cả một quãng đường dài. “999 lá thư gửi cho chính mình” – Mong bạn trở thành phiên bản hoàn hảo nhất. Cái gọi là vẻ đẹp nội tâm luôn luôn tốt hơn vẻ bề ngoài hào nhoáng, hy vọng bạn sẽ mãi luôn kiên cường, dũng cảm đứng ở nơi ánh sáng chiếu rọi, sống tốt một cuộc sống mà mình hằng mong ước. *** Review Linh Naby: Có rất nhiều bạn trẻ hiện nay cảm thấy thất vọng với con người hiện tại của chính mình. Điều đáng sợ chính là, đám đông ấy không hề bé tẹo nào. Họ giắt trên mình đôi ba điều đẹp đẽ ngủ im trong quá khứ, để rồi chấp nhận cuộc sống tù túng, nhợt nhạt, vô vị, thậm chí hoang đường đến mức không tưởng tượng được. Thuở bé ai cũng nghĩ mình sẽ thực hiện nghĩ việc lớn lao, vĩ đại nhưng càng lớn lên chúng ta càng thu bé khả năng, tự thôi miên ngủ yên trong lớp vỏ bọc lớn xác, vô dụng. Chúng ta không biết rằng mình sẽ trở thành một người vô cùng tuyệt vời nếu chấp nhận thay đổi. Thưởng thức 999 Lá thư gửi cho chính mình của nhà văn học mạng Miêu Công Tử chính là cách để ta vạch ra lộ trình trở thành phiên bản tốt đẹp nhất của bản thân ngay từ hôm nay. Với lối văn tản mạn giản dị nhưng cực kì sâu sắc qua từng lá thư nhỏ bé đó, bạn có thể tìm thấy cho mình những quotes “chất như nước cất” mà lạ lùng thay lại thấm đẫm chất nhân văn vô cùng. Mỗi người sẽ chiêm nghiệm ra một giá trị sống, nhân sinh quan khác nhau nhưng tựu chung đều hướng đến một mục đích cuối cùng: đọc để tìm về chính mình ngày xưa, dũng cảm đối diện với nó và khám phá phiên bản tốt nhất của chính mình. Có nhiều người đánh giá, đây là một cuốn sách tản văn nhuốm màu self-help đáng đọc. Cũng có người phê phán nó có quá nhiều câu hoa mỹ, tựa như đứa bé tưởng mình đã lớn nhưng sâu thẳm tâm hồn vẫn ngây ngô về thế giới. Dù thế nào đi nữa, 999 Lá thư gửi cho chính mình thực sự là một cuốn sách gieo vào lòng tôi những cảm xúc rất lạ. Mỗi con chữ của từng bức thư đều khiến tôi nhớ rõ, thậm chí là tự động khắc ghi và học thuộc lòng. Cuốn sách 999 Lá thư gửi cho chính mình có hai tập. Tập 1 gồm 561 lá thư. Những lá thư còn lại ở bản kế tiếp. Điều đầu tiên tôi thắc mắc, đó chính là, vì sao lại là số 999 mà không phải 1000? Con số ấy nó đại diện cho điều gì? Khi người ta đọc, thường sẽ ít ai để tâm đến tựa đề tác phẩm. Nhưng điều kì lạ là đó mới là nơi tác giả cất chứa, gạn lọc tinh túy của tác phẩm. Khi nhắc đến con số 999 xin bạn hãy nhớ rằng “tam cửu” ấy chính là điềm lành. Không phải ngẫu nhiên mà vua Hùng đặt ra cho Sơn Tinh và Thủy Tinh lễ vật thách cưới là “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Mọi sự sắp đặt đều có ý nghĩa riêng của nó. Số 9 là con số may mắn nhất bởi nó tượng trưng cho sự tròn đầy, vẹn toàn của trời và đất. Nó gắn liền với sự trường cửu, quyền lực, sức mạnh của tự nhiên và sự cân bằng. Từ đó, ta có thể hiểu được dụng ý của Miêu Công Tử tức là truyền gửi một thông điệp rằng, hãy sống là chính mình hoàn hảo nhất, tốt đẹp nhất để mỗi  một trang đời mà bạn sống không phải là “bản nháp” nhàu nhĩ, đen xì với những vết đen của ân hận, tức tưởi do số phận tác động vào. Ngày nay, mỗi chúng ta đã quen với sự hiện diện của những tin nhắn công nghiệp nhanh chóng và mau lẹ. Chúng ta quên mất giá trị của những bức thư tay. Những bức thư luôn đong đầy cảm xúc và tràn đầy sự lãng mạn, ấm áp. Đừng cười cợt khi bất cứ ai làm một điều gì đó lãng mạn giữa cuộc sống khô khan, tẻ nhạt, lạnh lẽo này. Nếu bạn thấy điều ấy nực cười thì bạn phải, bạn nên, bạn cần đọc cuốn sách này lập tức và ngay bây giờ. Xin đừng chậm trễ việc gửi đến bản thân mình một phiên bản xinh đẹp hơn, sáng suốt hơn, trầm tĩnh, tốt đẹp hơn giữa thế gian này nếu có thể. Hãy xứng đáng với ước mơ của chính bản thân mình. Hãy nhớ “thay đổi chẳng bao giờ dễ dàng, nhưng điều đó luôn luôn khả thi”(Barack Obama). Lời nhắc nhở từ Những bức thư gửi chính mình – Mỗi ngày đều phải sống nghiêm cẩn Cuộc sống của ta như thế nào, đều do chính chúng ta quyết định mà nên. Hãy nghiêm cẩn sống cho xứng đáng với tuổi trẻ của mình. Hãy nhớ 999 lá thư và lắng nghe chút thơ ca lãng mạn nho nhỏ giữa cuộc đời chật chội:  Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm   (Nguyễn Quang Hưng) *** Cuốn sách 999 lá thư gửi cho chính mình của Miêu Công Tử mang đến cho người đọc những bài học ý nghĩa. Trong lúc bạn bi quan, lạc hướng thì cuốn sách này sẽ tạo cho bạn động lực để vượt qua phong ba tuổi trẻ. Cuộc đời này luôn luôn tồn tại rất nhiều khó khăn, chông gai và thử thách. Lắm khi chúng sẽ làm cho bạn đau khổ, khiến bạn bất lực, khiến bạn nản lòng muốn buông xuôi mọi thứ. Nhưng hãy luôn nhớ rằng những đau khổ của bạn cũng chỉ như chiếc lá nhỏ giữa rừng thu đầy lá. Bạn nghĩ mình đau khổ nhưng người khác càng bất hạnh hơn. Đừng chỉ vì một thất bại nhỏ mà bi quan. Ngày tháng còn dài, tương lai vẫn còn ngay trước mắt, tuyệt nhiên không cần phải bi quan. Còn trẻ còn cơ hội, cần gì phải lãng phí tuổi trẻ cho những thất bại không thể vãn hồi? Hãy mỉm cười, lạc quan lên và luôn tin rằng mình làm được. Bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày hãy luôn nở nụ cười trên môi, trên đời này ngoài sinh tử ra mọi sự đều là chuyện nhỏ. Cho dù gặp phải chuyện phiền lòng cũng đừng tự làm khó mình, bất luận hôm nay xảy ra bao nhiêu chuyện đen đủi, đều không nên cảm thấy bi thương. Hôm nay là ngày bạn trẻ nhất trong những ngày tháng sau này, vì còn có ngày mai, hôm nay mãi chỉ là bước khởi đầu của con đường tương lai. Mỉm cười luôn là cánh cửa đầu tiên dẫn lối cho hạnh phúc. Hãy luôn mỉm cười và cho bản thân mình một cơ hội để sống tốt hơn, ý nghĩa hơn. Tác giả của cuốn 999 lá thư gửi cho chính mình Miêu Công Tử là một người luôn sống với nụ cười luôn ở trên môi. Miêu Công Tử quan niệm rằng bất luận bạn gặp phải nghịch cảnh ra sao thì cũng hãy luôn là một người lạc quan, vui vẻ. Mình sinh ra đâu phải để buồn, để đau vì những điều không đáng, những người không đáng. Sao phải khóc vì họ, buồn vì họ? Cho dù cuộc sống có hàng nghìn lý do khiến bạn khóc, bạn cũng phải tìm cho mình một lý do để cười, bởi lẽ đó chính là cuộc đời, những gì chúng ta có thể làm chỉ là khiến bản thân mạnh mẽ hơn mà thôi. Mất mát và nước mắt là một phần của cuộc đời, bạn không thể tránh khỏi nó được. Chúng ta chỉ có thể mỉm cười lạc quan để mạnh mẽ vượt qua đớn đau. Quá trình bạn trải qua đớn đau chính là quá trình khiến bạn mạnh mẽ hơn. Lạc quan để mạnh mẽ, vui cười để hạnh phúc, đó là bí kíp lớn để tuổi trẻ của chúng ta không trôi qua vô nghĩa. Đừng mãi "mua dây buộc mình" vào những đau khổ, thất bại vì "phiền muộn không giữ qua đêm mới là hạnh phúc".  Không cần phải cố lấy lòng tất cả mọi người Cho dù bản thân bạn tốt đến như thế nào đối xử tốt với họ ra sao thì họ cũng sẽ sẽ không bao giờ hoàn toàn hài lòng với bạn. Có những người bạn không tốt thì họ khinh mà bạn tốt thì họ ghét. Họ luôn nói xấu sau lưng bàn tán ra vào, cứ phán xét về mình theo cảm nhận chủ quan của họ một cách quá đáng. Cuốn sách "999 lá thư gửi cho chính mình" luôn khuyên chúng ta rằng không cần phải giữ phiền muộn trong lòng, càng không cần quan tâm thiên hạ phán xét mình ra sao, bình luận thế nào. Nói là quyền của họ, còn buồn hay vui khi nghe những lời ấy là chuyện của mình. Không cần để ý người khác để ý gì chỉ cần làm tốt việc của mình. Suy nghĩ quá nhiều về những lời nói ác ý, oán hận quá nhiều về những người không hiểu mình chỉ làm bản thân thêm mệt mỏi mà thôi. Đến tầm này rồi, chẳng còn muốn lấy lòng ai nữa. Dù là người yêu hay bạn bè, ai khiến mình thấy thoải mái thì mình ở bên người đó, mệt rồi thì tránh xa người đó. Lấy lòng người khác vĩnh viễn không thể sánh với tự tạo niềm vui cho mình. Thà cô đơn chứ không dối lòng, thà hối tiếc chứ không tạm bợ. Người có thể bước vào trái tim tôi, đối đãi như quân vương, còn không thì tôi chẳng cần nhắc đến. Cuộc đời này là của bạn, không cần phải cố hết sức lấy lòng cả thiên hạ, được lòng tất cả mọi. Sống cốt là để vui vẻ, để thoải mái chứ không phải để nhọc lòng khiến mọi người đều thích mình còn bản thân thì vô cùng mệt mỏi. Lấy lòng người khác để khiến họ thích mình vĩnh viễn không thể vui vẻ bằng việc tự tạo ra niềm vui cho chính mình. Vì thế nên bạn hãy biết yêu thương bản thân một chút, biết phấn đấu cho bản thân một chút. Chỉ cần mình tốt thì sẽ có người thích bạn mà không cần phải cố lấy lòng họ: "Nếu bạn nở hoa bươm bướm tự bay đến, nếu bạn xuất sắc trời tự an bài.". Còn người không thích bạn khi bạn thật sự tốt thì đó thật sự không phải là một người hợp với bạn, đã không hợp thì cũng không cần phải luyến tiếc.    Mời các bạn đón đọc 999 Lá Thư Gửi Cho Chính Mình của tác giả Miêu Công Tử.