Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Đông Vườn Địa Đàng

Phía đông vườn địa đàng là câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỷ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình.  Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp.  Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện về con người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Cách đây mấy năm, tôi có dịp nói chuyện với một giáo sư người Mỹ. Ông được giới thiệu là một nhà Việt Nam học. Trong lúc trò chuyện, tôi đặt một câu hỏi: “Tôi không hiểu tại sao nhà văn John Steinbeck lại ngồi trên phi cơ bay trên trời Việt Nam và ca ngợi những phi công ném bom nhân dân nước tôi?” Ông trả lời: “Đừng nói đến John Steinbeck nữa. Bây giờ thanh niên Mỹ không ai đọc ông ta nữa. Ông ta lẩm cẩm rồi.” Nói thế, không biết vì muốn làm vui lòng tôi, hay vì là nhà Việt Nam học, tự nhiên ông đứng về phía Việt Nam. Tôi chắc lý do thứ hai đúng hơn, ông tỏ ra là một người thẳng thắn. Nhưng câu trả lời không khiến tôi vui, mà làm tôi suy nghĩ. Tôi hiểu rằng thanh niên Mỹ bây giờ không đọc John Steinbeck nữa không phải vì họ bất bình về việc nhà văn ủng hộ ném bom Việt Nam. Chính ông giáo sư Việt Nam học ấy đã nói thanh niên Mỹ thuộc thế hệ sau chiến tranh Việt Nam hầu như không ai biết Việt Nam là gì. Vậy thì, không đọc John Steinbeck nữa, ấy là vì họ cho rằng nhà văn đã cổ lỗ rồi, không hợp thời nữa. Thanh niên Mỹ ưa chạy theo “mốt”. Nếu đúng như thế, thật đáng buồn. Vì tác giả củaChùm nho uất hận,Chuột và ngườivàPhía đông vườn Địa đàngmà chúng ta đang đọc đây là một nhà văn nhân văn chủ nghĩa. Các tác phẩm vừa kể mang giá trị nhân đạo cao cả. Đó là những tác phẩm làm vinh dự cho dân tộc Mỹ. Nếu thanh niên Mỹ bây giờ thấy những tư tưởng ấy là “lẩm cẩm” thì thật đó là một điều không hay. Nhưng tôi không tin là có điều ấy. Tôi vẫn thấy tác giảChùm nho uất hậnlà đáng kính mến. Bây giờ nói vềPhía đông vườn Địa đàng. Nghĩ về người Mỹ, người ta nghĩ ngay đếnchủ nghĩa thực dụng. Phương Tây cho là như thế. Đích thân người Mỹ cũng tự cho mình như thế. Tất nhiên là có nhiều cách hiểuchủ nghĩa thực dụngkhác nhau. Ta thì nói:chủ nghĩa thực dụng Mỹ, với ý phê phán. Đại khái như thế này: người Mỹ cái gì cũng tính toán bằng tiền. Ngồi với nhau, ai có thuốc lá thì lấy ra hút, không mời người khác. Bàn việc, hỏi ngay phần tôi bao nhiêu, phần anh bao nhiêu. Bố con mượn tiền nhau cũng là vay trả sòng phẳng. Đến những việc lớn hơn, Mỹ sản xuất vũ khí, buôn bán vũ khí, chỉ nhằm thu lợi nhuận, bất cần nhân nghĩa, đạo lý “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi.” Đối với Mỹ chẳng có gì thiêng liêng hết, họ đem tất cả ra làm quảng cáo, để bán hàng v.v... Ta nhìn nhận Mỹ như vậy là có lý do. Ta thù ghét Mỹ. Ta và Mỹ đã gặp gỡ nhau trong những trường hợp không có gì vui vẻ. Những người Việt Nam ở miền bắc, ở các vùng kháng chiến miền nam đã bị bom đạn Mỹ gây cho biết bao nhiêu đau thương tang tóc. Những người trong các vùng đô thị thì căm giận các cuộc bố ráp, những cuộc tra khảo, những tai nạn lính Mỹ gây ra trên đường phố, những phụ nữ bị lính Mỹ xúc phạm đến nhân phẩm, những thanh niên hư hỏng vì “lối sống Mỹ”. Tất cả những cái đó ta quy tội chochủ nghĩa thực dụng Mỹ. Nó đồng nghĩa vớibần tiện, tham lợi, tàn nhẫn, phi nhân. Cũng có thể đó là những biểu hiện sai xấu củachủ nghĩa thực dụngnhưng không nên hiểuchủ nghĩa thực dụng chỉ là như vậy. Nói một cách cô đúc thì nội dung căn bản củachủ nghĩa thực dụnglà ở điểm, chỉ thừa nhận các chân lý của một lý thuyết sau khi đã thể nghiệm nó trong ứng dụng vào thực tế. Nguyên lý này được dùng cho cả khoa, triết lý, đạo đức, tôn giáo. Chỉ được coi là chân lý, một nền triết lý, một nền đạo đức, một tôn giáo có tác dụng cải thiện cuộc sống. Như vậy chủ nghĩa thực dụng là mộttriết học vị nhân sinh. Nước Mỹ là một nước mới, lịch sử chỉ có hơn hai trăm năm. Những người dân ở Âu châu, Á châu, Úc châu đến đây tổ chức một xã hội mới. Ở xứ sở của họ, họ sống trong những khuôn khổ đã định hình từ bao nhiêu đời trước. Họ suy nghĩ phán đoán theo những nếp cũ, theo truyền thống. Đến vùng đất mới này, mọi cái đều mới mẻ. Những người đến đầu tiên tập mình làm trọng tài cho mình. Họ không có cách nào khác là lấy hiệu quả để đánh giá những chủ trương, những việc làm của mình và điều này trở thành một lối tư duy của người Mỹ. Rõ ràng là trong tiểu thuyếtPhía đông vườn Địa đàng John Steinbeck đã chấp nhận lối tư duy ấy và khẳng định nó. Tác phẩm của ông đầy sức thuyết phục. Giả sử ông là triết gia và trình bày chủ nghĩa thực dụng bằng triết học chưa chắc ông thuyết phục được mạnh mẽ. Nhưng ông là nhà văn, và tiểu thuyết chính là bức tranh phản ánh cuộc sống cho nên chính cuộc sống chứng minh và như thế không ai chối cãi được. Tuy nhiên, để điều vừa nói không bị nghi ngờ, tôi cần phải nói về bút pháp của Steinbeck. Tiểu thuyết Mỹ, chí ít là tác phẩm của tiểu thuyết gia tiêu biểu, thể hiện một tính hiện thực rất trội. Có những cuốn có giá trị như một công trình nghiên cứu xã hội học, nhân chủng học (tất nhiên là bằng văn chương cho nên có thể còn rõ ràng hơn là khoa học nữa vì sinh động hơn, cụ thể hơn, tỉ mỉ hơn). Chúng không chỉ khảo sát một quãng đời mà cả cuộc đời, có khi từ đời nọ sang đời kia. Nhưng chẳng phải vì vậy mà chúng dày cộm, rậm rạp. Và đấy chính là chủ nghĩa thực dụng áp dụng vào lĩnh vực viết văn. Trong cuốn tiểu thuyết ta đang đọc đây Steinbeck theo dõi những nhân vật từ đời cha đến đời con. Ông chú ý đến từng chi tiết rất nhỏ, nhiều khi người đọc phải ngạc nhiên không biết ông làm thế nào mà quan sát được tinh tế như thế. Nhưng ông lại bỏ qua rất nhiều hành động, lời nói, tình huống mà thường thường nhiều tiểu thuyết gia đưa vào tác phẩm. Nghĩa là ông chọn chi tiết trên hiệu quả thực tiễn mà nó mang lại. Sự chọn lọc này thật khe khắt. Đọc sách, người ta thấy ông trình bày rất khách quan. Người ta không thấy có dụng ý gì muốn lái độc giả theo hướng này hướng khác. Đôi khi ông cũng phát biểu ngoài lề những ý kiến của ông. Nhưng những ý kiến ấy cũng thật khách quan, đúng là cuộc sống như vậy, ông chỉ phiên dịch lại trung gian. Nhưng Steinbeckkhách quanmà khôngkhách quan chủ nghĩa. Tôi muốn nói: người ta không thấy ở ông sự vô tình, thái độ trối kệ. Tôi phải so sánh cho rõ ý: ĐọcCuốn theo chiều giótôi thấy tác giả miêu tả rất trung thực, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngòi bút hiện thực ấy hơi tàn nhẫn. Thuyền trưởng Butler có cái đầu óc thực tế rất hay, nhưng đối với Scarlett quả là ông đối xử quá tàn nhẫn. Tác giảNhững kẻ trần truồngvànhững người chếtcũng rất hiện thực, tôi không trách gì ông, nhưng ông cố ý phơi bày những mảng hiện thực kinh tởm quá. Vấn đề lànhìn hiện thực một cách hiện thực, nếu có thể nói như vậy. Cái hiện thực mà John Steinbeck trình bày, không bị tàn phế, uốn nắn chút nào, đầy những trầm luân khổ ải, nhưng nó không dọa nạt khủng bố người đọc mà làm cho người ta chấp nhận được. Chẳng phải là trong thực tế người ta vẫn sốngđượcvới đau khổ đó sao. Ta hãy nhớ lại bài thơ ngụ ngôn của La Phông-TenTử thần và tiều phu. Những người Mỹ đứng đắn thường bày tỏ thành thực cái ý muốn của họlàm cho cuộc sống có thể chịu đựng được. Nói thế nghĩa là: cuộc sống không chỉ có hoa thơm trái ngọt đâu, rất nhiều cay đắng nhưngcó thể chịu đựng được. Và người Mỹ thường có một phương châm, coi như một cách ngôn:Hãy giữ nụ cười. Cuộc sống là cuộc sống. Nó như thế. Vậy thì nhăn nhó cau có cũng chẳng thay đổi được gì. Tốt hơn là hãy giữ lấy nụ cười. Đó là chủ nghĩa thực dụng. Nó không phải dở, hay là khác. John Steinbeck chọn hai nhân vật để thuyết minh cho tư tưởng của ông. Hai con người bình thường. Một là ông Samuel Hamilton nguồn gốc Ái Nhĩ Lan nông dân, có nghề lò rèn và kiêm nghề đào giếng. Một là Lee nguồn gốc Trung Hoa, nấu bếp. Dường như John Steinbeck gửi gắm một ý nghĩ vào trong sự chọn lựa của mình: một người đơn giản hồn nhiên kiểu trẻ thơ, và một người đã được thừa kế, một gia tài khôn ngoan của một nền văn hóa lâu đời vào bậc nhất trên hành tinh này. Hai người gặp nhau thống nhất với nhau trong một quan niệm: chỉ có thực tiễn là chân lý. Thêm vào đó, tác giả lại viện dẫn Sáng thế ký của Kinh Thánh mà ông cho là người Trung Hoa đã tìm ra nghĩa đúng nhất. Đó là đem chúa Trời nói với Cain “Nếu người làm lành há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành thì tội lỗi rình đợi trước cửa thềm người lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó.” Phải quản trị nó trong nguyên văn hê-brơ, là Timshel. Theo LeeTimsheldịch làquản trịhaykiềm chếđều không đúng mà, phải dịch làngươi có thể chế ngự nó. Steinbeck dùng chi tiết này không phải do yêu cầu của nghĩa chữ mà chính là để nêu lên một quan niệm xử thế như bàn dưới đây. Hơn một thế kỉ nay, từ lúc các nước phương Tây đi chiếm các thuộc địa ở các nước phương Đông, có những triết gia, chính trị gia, nhà văn đặt câu hỏi: Phương Tây và phương Đông có thể gặp được nhau không? Trên thực tế, họ cũng gặp nhau rồi, đúng hơn là phương Tây đã gặp phương Đông bằng thế mạnh 1 Câu hỏi đặt ra là muốn có sự gặp gỡ tự nguyện kia. Nhiều câu trả lời khác nhau. Về phía phương Tây có người bảo có thể được. Có người bảo Tây là Tây, Đông là Đông không thể gặp nhau. Có người đề xuất công thức: Phương Tây là thầy, phương Đông là trò. Với nhân vật Lee, Steinbeck có câu trả lời độc đáo: Lee làđầy tớ trung thànhvà là thầy dạy khôn cho chủ. Không rõ nhà văn có đọc các truyện xưa của Trung Hoa không mà ông đã xây dựng nhân vật Lee như một quân sư, một mưu sĩ, một môn khách? Steinbeck tỏ ra rất hiểu phương Đông, rất hiểu cái thâm thúy của triết học, văn hóa Trung Hoa mà ông khâm phục. Nhân vật Lee, nhà văn xây dựng thật hay. Tim shel – ngươi có thể chế ngự nó: ấy là tư tưởng chỉ đạo của cuốn tiểu thuyết. Mỹ châu vốn là nơi tao ngộ của tứ hải anh hùng. Nói nôm na hơn và đúng với sự thực: tìm đến lập nghiệp ở nước Mỹ là những người thuộc nhiều quốc gia, nhiều màu da, có chung một cảnh ngộ bị thất cơ lỡ vận, không còn sống ở quê hương xứ sở mình. Cái cảnh ngộ chung ấy dạy họ nên biết chấp nhận những dị biệt của nhau, có khi những sự đối chọi nhau nữa, để chịu đựng, để sống chung với nhau trên miếng đất có thừa điều kiện để nuôi tất cả. Các nhà văn Mỹ thường có cái nhìn thực tế, nói là thực dụng cũng được đối với con người. Con người rất đa dạng, bao nhiêu người là bấy nhiêu mô hình, không ai có quyền áp đặt cái mô hình của mình cho người khác. Con người không phải làthầncũng không phải làquỷ, có cả xấu lẫn tốt, xấu hay tốt đều là tương Steinbeck cố ý đưa vào trong tiểu thuyết câu truyện trong Kinh Thánh về hai anh em sinh đôi Abel và Cain một tốt, một xấu và đặt cho hai nhân vật của ông là Aron và Cal cùng là anh em sinh đôi, hai cái tên gần giống như trong Kinh Thánh. Phải chăng tác giả muốn nói Abel cũng là con người, và Cain cũng là con người. Con người là cả Abel lẫn Cain, cái nghiệp dĩ là như vậy, phải chấp nhận thôi. Hơn thế, nhà văn lại có ý dành tấm lòng ưu ái của mình cho những người bị coi là xấu. Trong tiểu thuyết có hai tuyến nhân vật: Tốt, xấu. Adam, Aron được mô tả như những con người tốt. Họ muốn làm những việc tốt, họ nuôi trong tâm trí một lý tưởng. Nhưng họ chỉ thu hoạch được những thất bại mà chính khuynh hướng lý tưởng hóa là nguyên nhân. Còn những nhân vật bị coi là xấu thì lại thành công trong mọi việc làm. Bên cạnh Adam rất tốt là Cathy, vợ chàng, cực xấu. Cô lừa dối tất cả mọi người và ai cũng bị lừa. Bên cạnh Aron luôn luôn hướng về mục đích thánh thiện là người em Cal luôn luôn bị những ý tưởng xấu điều khiển và Cal bao giờ cũng đạt kết quả. Nhưng ta chớ vội tưởng Steinbeck chủ trươngác thắng thiện. Cuốn tiểu thuyết cho ta thấy những thành công của Cathy, Cal đem lại cho họ không phải sự sung sướng mà là sự đau khổ. Nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: Cuộc sống là cuộc sống, nó không uốn theo những ý tốt của chúng ta đâu, đừng lý tưởng hóa. Bởi vì ta lý tưởng hóa cho nên ta liệt người này người khác vào loại xấu. Thực ra họ chỉ là sản phẩm khách quan của cuộc sống. Nếu ta biết nhìn họ một cách thực tế, không định kiến thì ta sẽ thấy họ đều có khả năng chế ngự cái phần xấu ở họ. Nhà văn đã nhờ người bếp Trung Hoa làm phát ngôn nhân cho ông. Lee nói với Cal: “Chú đã nhận ra rằng những điều thiêng liêng đễ bị tiêu diệt, trong khi điều ác lại cứ tồn tại và phát triển. Chú nghĩ rằng cơn thịnh nộ của Thượng đế đã trút lửa từ nồi kim loại nấu lỏng xuống hủy diệt hết để làm cho thanh khiết công trình nhỏ bé bằng bụi đất do ngài đã nặn ra... Mỗi người trong mỗi thế hệ đều được tầy uể bằng lửa... Không một người nào trên đời này tránh khỏi nguyên tắc đó nếu muốn trở nên một người hoàn toàn.” Mỗi người trong mỗi thế hệ đều cần được tẩy uế... cho nên cuộc sống yêu cầu mỗi người phải khoan dung, độ lượng với đồng loại của mình. Sự khoan dung độ lượng ấy là cần thiết, là yếu tố quyết định để mỗi người có thề vượt qua thử thách và hoàn thiện mình. Lee cầu xin ông Adam: “Ông Adam, xin ông hãy tha thứ cho Cal. Đừng để nó cô độc vì mặc cảm tội lỗi... Xin ông hãy giúp nó. Hãy cho nó một cơ hội. Hãy giải tỏa mặc cảm cho nó. Nhờ đó nó sẽ vượt được mọi thử thách, hãy giải thoát cho nó. Hãy tha thứ cho nó.” Đó là mấu chốt của vấn đề. Nhà văn bày tỏ một quan niệm sống rất nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo không phải trên lý thuyết xa vời, đẹp thì có đẹp nhưng vô ích vì không thể vươn tới được, mà một chủnghĩa nhân đạothực tiễn, nói là thực đụng cũng được, phù hợp với kích thước, hoàn cảnh của con người. Phía đông vườn địa đànglà câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỉ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình. Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kì chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp. Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện vềcon người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. Trong phong trào đổi mới của ta hiện nayPhía đông vườn Địa đànglà cuốn sách nên đọc. 9-1988 Tuy xuất bản rất nhiều tác phẩm từ xã hội đến hoạt kê qua tình cảm, John Steinbeck tuyên bố rằng “Phía đông vườn Địa đàng”, là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Quan điểm đó cũng được nhiều nhà phê bình đồng ý. Sau ngày xuất bản “East of Eden” cho đến khi ông được trao tặng giải Nobel về Văn Chương năm 1962, không có tác phẩm nào quan trọng hơn tác phẩm này. “East of Eden” sau khi xuất bản, đã được đạo diễn kiêm văn sĩ Elia Kazan quay thành phim và do James Dean, nam tài tử lừng danh quốc tế đóng vai chính cùng nữ tài tử Pier Angeli, mối thất vọng lớn của James Dean, khiến anh phóng xe đua hết tốc lực đến ngộ nạn tử thương; gây thương tiếc cho giới trẻ mộ điệu một dạo. Ở Mỹ, “East of Eden”, đã được tái bản gần bốn mươi lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.   Mời các bạn đón đọc Phía Đông Vườn Địa Đàng của tác giả John Steinbeck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bù Khú Tiên Sinh
Nếu như tự truyện LẠC ĐƯỜNG kể lại hành trình của một trí thức trẻ lên rừng theo Việt cộng để rồi vỡ mộng khi biết minh lạc đường, thì BÙ KHÚ TIÊN SINH là cuộc chia tay đầy bi kịch của gã Việt cộng ấy với cái guồng máy quái đản mà hắn từng tham dự. Sau ngày 30/4/75 anh ta ở Rừng về nhưng không muốn chen chân vào chốn quan trường mà trở về với quần chúng, sống chung với những người cùng khổ trong xã hội. Đây là một hình thức phản kháng của người trí thức. Sư thức tỉnh của hắn đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. TỰA KHÔNG CHỜ NGÀY MAI Năm 1949 Samuel Beckett viết vở kịch nổi tiếng “En Attendant Godot” với những nhân vật cứ loay hoay làm những việc vô nghĩa trong khi chờ Godot đến để cứu rỗi, để đổi thay. Nhưng Godot đã không bao giờ đến. Vở kịch, thoạt tiên không ai xem vì quá đơn điệu, nhưng rồi sau đó khán giả châu Âu ùn ùn đến rạp vì cho rằng nó là một ẩn dụ về sự vô vọng của Chủ nghĩa Xã hội. Nhân vật chính trong tác phẩm “Bù Khú Tiên Sinh” này là một trí thức Sài Gòn lên rừng theo kháng chiến. Gã biết Godot không bao giờ đến nên không chờ. Gã chọn con đường riêng. Gã sống như một nhà tiểu thuyết của đời mình, một kẻ sáng tạo ra bản thân, một bánh răng tự nhảy ra khỏi guồng máy. Lúc ở chiến khu làm Việt cộng, lúc ở tù, hay lăn lộn vào thế tục… đâu cũng thế, vẫn cứ là gã. Sống thực, sống đầy, sống như triều dâng, sống hoang dã và sống tận tình, sống lặng lẽ và sống bất bình. Gã có thể bù khú hay im lặng, cười hay khóc, phóng đãng hay thánh thiện. Sao cũng được. Gã đem cuộc đời mình ra mà bù khú, mà chơi, mà sáng tạo và hủy diệt. Đó là dốc hết tinh anh ra mà sống, không cần ai tán thưởng. Như một dòng sông háo hức băng vào đại dương bao la, gã phóng mình đi. Gã chỉ có một dịp để sống. Gã rất vội. Nên không chờ ngày mai. NHẬT CHIÊU (Nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, dịch giả. Sinh 1951 tại Sài Gòn. Hiện là giảng viên của nhiều chuyên đề văn học và văn hoá tại ĐH KHXH & NV TP. HCM, và nhiều đại học khác.) *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Bù Khú Tiên Sinh của tác giả Đào Hiếu.
Bến Không Chồng
Cuốn tiểu thuyết trong bộ ba giải thưởng Hội Nhà văn 1991, Bến không chồng đã đứng được với thời gian nhờ một vẻ đẹp trong khuôn hình cổ điển: mộc mạc và chân phương trong cốt truyện, trong cách dẫn dắt và ngôn từ; như nhận xét của giáo sư Phong Lê - “một ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà giản dị, tự nhiên, và với ưu thế đó, Bến không chồng là tác phẩm khẳng định được ngay vị trí của nó trong lòng độc giả mà không hề gây tranh cãi”. Cốt truyện xung quanh cuộc trở về của Vạn - người lính Điện Biên - ở làng Đông quê hương anh. Người lính dũng cảm trong chiến đấu trở về trong thời bình nhưng không hòa nhập được vào nhịp sống bình thường, vẫn giữ nguyên tác phong trận mạc để chỉ huy cộng đồng làng xã. Anh không dám vượt qua rào cản tâm lý để đến với chị Nhân, nhưng rồi cuộc sống xô đẩy anh cùng hai người phụ nữ trong đời anh đến những lựa chọn quyết liệt. Những người phụ nữ ở làng Đông mỗi người đi tìm hạnh phúc theo cách của mình, nhưng thời cuộc và chiến tranh cùng biết bao sai lầm trong tư duy một thời đã ám ảnh họ mãi ở một “bến Không Chồng” vừa hữu hình vừa dai dẳng trong tiềm thức. Bến không chồng, ở thời điểm mở đầu 90, quả đã góp được một cái nhìn mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến; với gánh nặng không phải chỉ là chiến tranh, về phía khách quan; mà còn là những lầm lạc của con người, trong một bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả những ai “do lịch sử để lại” đã không đủ tầm và sức để vượt qua. Những nhận xét này đã khẳng định được vị trí của cuốn tiểu thuyết, và còn lan tỏa hơn khi đã được dịch ra tiếng Pháp, Ý cũng như được chuyển thể thành phim truyện cùng tên. *** Khi lựa chọn đề tài về chiến tranh, về thân phận người lính hoặc về cuộc sống làng xã Việt Nam sau chiến tranh để viết, nhiều nhà văn kì cựu phải thực sự am hiểu về vấn đề này hoặc có thể họ chính là những người đã trải qua một thời bom đạn cùng với đất nước. Có một nhà văn đã vẽ lên được bức tranh toàn cảnh làng quê Việt Nam trong những năm sau chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ về chuyện đời, chuyện người thông qua cuốn tiểu thuyết dầy 400 trang.  Tiểu thuyết "Bến không chồng" của nhà văn Dương Hướng gồm 25 chương – một tác phẩm xuất sắc viết về đề tài chiến tranh không hề có tiếng súng đã gây tiếng vang trên văn đàn, được dịch ra nhiều ngôn ngữ quốc tế, nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, giải thưởng Nhà nước năm 2016. Và được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên, gần đây nhất là bộ phim truyền hình “Thương nhớ ở ai”. Một tác phẩm rất nổi tiếng, có ý nghĩa vô cùng đặc biệt bởi tác giả chính là người con của quê hương Thụy Liên, tác phẩm ấy cũng được lấy chất liệu từ chính mảnh đất Thụy Liên - vùng lập điền lấn biển, ruộng đồng chua mặn, dân thưa. Thập kỷ 60, xã chỉ có khoảng trên dưới một nghìn nóc nhà, mà chi viện cho tiền tuyến một lực lượng khổng lồ sức người, sức của với trên 1.500 thanh niên trai tráng. Ở quê nhà, gái thay chồng “Tay cày, tay cuốc đảm đang”, tạo ra cánh đồng 5 tấn thóc/ha đầu tiên ở miền Bắc. Nhưng chiến tranh đã để lại cho vùng đất này nhiều đau thương mất mát, 230 trai làng ra đi mãi mãi không về, để lại bao góa phụ, 31 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tiểu thuyết “Bến không chồng” của nhà văn Dương Hướng như một thiên dã sử, được quê hương Thụy Liên tôn vinh dựng bia đá lưu danh chuyện và đời.         Bến không chồng- nhà văn Dương Hướng đã đi sâu khai thác bi kịch của người lính hậu chiến tranh mà nhân vật trung tâm là Nguyễn Vạn, là Nghĩa, là Thành. Những người lính trở về từ chiến trường Điện Biên với chiến tích lẫy lừng. Nơi chiến trường họ oai hùng, khí khái bao nhiêu thì trở về cuộc sống đời thường họ lạc lõng, cô độc bấy nhiêu. Họ dù cố gắng nhưng không thể hòa nhập được với cuộc sống mới. Họ lạc lõng ngay trong chính gia đình, giữa những người thân yêu nhất của mình. Những người lính còn chịu nhiều di chứng khi bước ra từ chiến trường. Chiến tranh đã để lại di chứng trên cơ thể  mà họ nào có biết. Chiến tranh đồng nghĩa với những đau thương mất mát, những cuộc chia li kẻ ở người đi. Trong Bến không chồng của Dương Hướng, những hy sinh mất mát là vô cùng to lớn. Từ bi kịch của những người trực tiếp chiến đấu nơi hòn tên mũi đạn cho đến nỗi khắc khoải chờ mong của những người mẹ, người vợ nơi quê nhà. Trong Bến không chồng còn nhiều cảnh ngộ bất hạnh. Những nỗi niềm, tâm trạng ảo não của  Thủy, Dâu, Thắm, Cúc, cô Thao, mụ Hơn,…hay chính xác hơn đó là những người phụ nữ làng Đông. Chung quy lại, có thể thấy rằng bi kịch của những người phụ nữ trong Bến không chồng là sau chiến tranh không một người phụ nữ nào có chồng! “Bến không chồng” là địa danh có thật nó gắn với nhiều câu chuyện buồn vui của xã Thụy Liên...Bến sông ấy vốn chẳng có tên, cái bến sông có hai cây quéo cổ thụ gắn với bao vui buồn của người dân. Hai cây quéo xòe bóng mát khúc sông. Đến nay, bến sông ấy không còn hai cây quéo cổ thụ nữa. Trong một trận bão, hai cây cổ thụ cùng bị đánh tả tơi, bật gốc. Bến sông không tên nay đã được gọi là “Bến không chồng”, bởi nó được đặt tên trong tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Dương Hướng. Và lâu rồi, những câu chuyện huyền thoại cũng chỉ còn lại trong ký ức của những người dân quê. Nhưng một ký ức mới lại bồi đắp cho người dân quê nơi đây. Bởi nếu ai đó đọc “Bến không chồng” có dịp ngang qua làng quê này mà hỏi cầu Đá Bạc, hỏi về “Bến không chồng” thì ai cũng nhắc đến Dương Hướng. Hỏi đến ông, người làng lại nhắc đến "Bến không chồng". Ông viết truyện mà thật đến nỗi đọc tiểu thuyết, người làng nhận ra từng nhân vật ngoài đời được ông chọn làm nguyên mẫu. Sách là kho tàng tri thức của nhân loại. Cuốn sách "Bến không chồng" giúp người đọc hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn về chuyện đời, chuyện người làng quê Việt Nam trong những năm sau chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ. Hiện nay, sách đã có tại thư viện Trường THCS Thụy Liên. Các thầy cô giáo, các bạn học sinh chúng ta hãy tới thư viện tìm đọc, để hiểu thêm mảnh đất, con người quê mình. *** Nhà văn Dương Hướng tên khai sinh là Dương Văn Hướng, quê ở thôn An Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.  Ông là Đảng viên Đảng CSVN; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Nhà văn Dương Hướng bắt đầu viết văn từ năm 1985, ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Hiện ông đang làm biên tập báo Hạ Long tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. * Giải thưởng và tặng thưởng:           Tặng thưởng truyện ngắn hay tạp chí Đất Quảng với truyện ngắn “Quãng đời còn lại”, năm 1987.           –Giải thưởng Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với truyện ngắn “Đêm trăng”.           –Giải thưởng văn học Hạ Long với tiểu thuyết “Dưới chín tầng trời”, năm 2012.           –Tặng thưởng truyện ngắn hay Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với tác phẩm “Người mắc bệnh tâm thần”, năm 1989.           –Giải A văn nghệ Hạ Long với tập truyện “Người đàn bà trên bãi tắm”.       –Tặng thưởng truyện ngắn hay Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với tác phẩm “Bến khách”, năm 2007.           –Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 với tiểu thuyết “Bến không chồng”. * Các tác phẩm tiêu biểu:           –Bến không chồng (tiểu thuyết – năm 1990)           –Người đàn bà trên bãi tắm (tập truyện ngắn)           –Dưới chín tầng trời (tiểu thuyết -năm 2007)           –Gót son (tập truyện ngắn – năm 1989)           –Trần gian đời người (tiểu thuyết -năm 1991)           –Tuyển chọn Dương Hướng (năm 1997)   Mời các bạn đón đọc Bến Không Chồng của tác giả Dương Hướng.
Ba Ngày Hạnh Phúc
Thật vô vọng khi thích một người không còn trên thế gian này. Xem ra từ nay về sau chẳng có một điều tốt lành nào đến với cuộc đời tôi. Chính vì thế mà mỗi năm sinh mệnh của tôi chỉ đáng giá 10.000 yên. Quá bi quan về tương lai, tôi đã bán đi gần hết sinh mệnh của mình. Dù có cố làm gì để được hạnh phúc trong quãng đời ngắn ngủi còn lại, thì tôi cũng chỉ nhận được kết quả trái ngược. Trong khi tôi đang tiếp tục sống vô định thì “người giám sát” Miyagi vẫn đăm đăm nhìn tôi với ánh mắt điềm tĩnh. Tôi đã mất thêm hai tháng cuộc đời để nhận ra rằng tôi hạnh phúc nhất khi sống vì cô ấy. Tập truyện nổi tiếng trên web này, cuối cùng cũng được xuất bản! (Tên ban đầu của nó là Tôi đã bán sinh mệnh của mình. Mỗi năm 10.000 yên.) *** Hành trình kiếm tìm hạnh phúc của những kẻ chạy trốn thực tại. Hello đồng bào, vậy là cũng được 3 tuần kể từ bài gần nhất của tôi rồi nhỉ. Hãy dẹp bỏ cái suy nghĩ thằng homu bị deadline dí đến chết và phải out page đi. Hôm nay, tôi sẽ gửi đến độc giả một tác phẩm “lạ mà quen”. Cái “lạ” ở đây là khi tôi hỏi hầu hết các ad trong page có biết đến bộ manga này không thì chỉ có đúng lão #rika biết. Điều này khiến tôi khá ngạc nhiên vì đây là 1 con hàng được vinh dự chế hẳn mấy cái meme và được spam khắp các page anime hay manga lớn trên facebook do đó chắc cũng khá nhiều người biết đến nó bằng cách này (trong đó có tôi). Link đọc cho ai cần: 16 chap: http://www.nettruyen.com/.../three-days-of-happiness-17641 2 extra: http://vgperson.com/other/mangaviewer.php?m=3 (cái extra thì chưa ai dịch) Nguyên tác của bộ này đã được IPM mua bản quyền và xuất bản vào năm ngoái nhưng giờ muốn kiếm 1 quyển hoàn toàn không dễ đâu, tôi có tham khảo một số trang lớn như là TIKI, FAHASA, SHOPEE nhưng đều hết hàng, thế nên ông nào đang có quyển này thì nhớ giữ gìn thật cẩn thận vào, về sau mua lại khó lắm đấy. Ok, giờ chuyển cách xưng hô thôi. CẢNH BÁO SPOIL-ĐỪNG CHẾT VÌ THIẾU HIỂU BIẾT. Thật vô vọng khi thích một người không còn trên thế gian này. Xem ra từ nay về sau chẳng có một điều tốt lành nào đến với cuộc đời tôi. Chính vì thế mà mỗi năm sinh mệnh của tôi chỉ đáng giá 10.000 yên. Quá bi quan về tương lai, tôi đã bán đi gần hết sinh mệnh của mình. Dù có cố làm gì để được hạnh phúc trong quãng đời ngắn ngủi còn lại, thì tôi cũng chỉ nhận được kết quả trái ngược. Trong khi tôi đang tiếp tục sống vô định thì “người giám sát” Miyagi vẫn đăm đăm nhìn tôi với ánh mắt điềm tĩnh. Tôi đã mất thêm hai tháng cuộc đời để nhận ra rằng tôi hạnh phúc nhất khi sống vì cô ấy. Đó là tất cả thông tin cơ bản nhất về truyện, ngoài ra, nếu bạn nào có hứng thú và muốn tìm đọc thêm các tác phẩm của tác giả và họa sĩ này thì có thể tìm ở web này. Điểm cộng rất lớn của web là giao diện rất dễ làm quen, cùng với lượng thông tin kèm theo đầy đủ từ A đến B nên đề cử web này thay Myanimelist nếu không tìm được truyện trên đấy nhé. Tác giả nguyên tác: https://www.mangaupdates.com/authors.html?id=32112 Họa sĩ: https://www.mangaupdates.com/authors.html?id=13698 Giờ đến chuyên mục nhạc nghe khi đọc truyện, theo mình thì vì đây là một bộ truyện ngắn có nội dung nhẹ nhàng và ấm áp nên nó sẽ rất hợp để thưởng thúc cùng với những ca khúc da diết và hơi buồn như là Kimi Wo Matsu của Aimer, Zurui yo và 4℃ của Chihiro, hay là bản nightcore Kanawanai Koi Demo của KG và Yumi Shizukusa. Còn các lựa chọn khác biệt một chút thì sao nhỉ ? Hmm, hãy nghe thử bài STYX HELIX của MYTH và ROID và Ano Yume Wo Nazotte của YOASOBI nhé, chúc các bạn có 1 trải nhiệm đọc truyện và nghe nhạc khó quên. Link nhạc cho bạn nào cần: Kimi Wo Matsu: https://www.youtube.com/watch?v=w6hFEFzemKE Zurui yo: https://www.youtube.com/watch?v=z5o1YsxaNbs 4℃: https://www.youtube.com/watch?v=PRKOQo0FRV0 Kanawanai Koi Demo: https://www.youtube.com/watch?v=3ZNEeLxhqHs STYX HELIX: https://www.youtube.com/watch?v=HdQCWXh3XXU Ano Yume Wo Nazotte: https://www.youtube.com/watch?v=sAuEeM_6zpk “Ta cũng chả hơi đâu quan tâm đến việc chú mày nghèo ra sao. Hay là nguyên do đâu dẫn đến kết cục như vậy. Ta không cần biết mấy việc đó. Ta chỉ muốn hỏi chú mày một chuyện khác… Chú mày có muốn bán bớt đi tuổi thọ của mình không ?” Để mở đầu thì cho phép mình hỏi mọi người một câu nhé: Theo các bạn, thứ gì là quý giá nhất đối với mỗi con người ? Sức khỏe ? Tiền bạc ? Danh vọng ? Tình cảm ? Hay tất cả các điều trên ? Câu trả lời là tất cả những yếu tố mình vừa nêu đều cần thiết nhưng không phải là quan trọng nhất. Chỉ có đúng một thứ mà hầu hết những người trả lời câu hỏi này đã vô tình bỏ qua, tuy nhiên, không có nó thì tất cả yếu tố trên đều là vô nghĩa, đó chính là “tuổi thọ”. Bạn khỏe. Bạn có nhiều tiền. Bạn đứng trên đỉnh cao danh vọng và có rất nhiều mối quan hệ mọi người xung quanh. Hẳn là bạn đã mãn nguyện với cuộc sống hiện tại và cho rằng mình chả thiếu cái gì. Đột nhiên, vào một ngày đẹp trời, bạn bị ám sát hay mắc phải một căn bệnh nan y và thời gian còn lại chỉ tính bằng vài tháng ngắn ngủi. Lúc đó, liệu những yếu tố trên có giúp bạn được không hay chỉ có “tuổi thọ” mới có thể ? Tuy nhiên, trong 3 days of happiness (mình gọi tắt là 3ds), yếu tố tưởng chừng như quan trọng nhất lại có thể được định giá bằng tiền ? Tin mình đi, bạn không nghe nhầm đâu. Sở hữu một cốt truyện độc đáo cùng với rất nhiều bình luận tích cực xoay quanh truyện, mình đã kì vọng rất nhiều vào 3ds và truyện thực sự không làm mình thất vọng. Lấy bối cảnh là một thế giới nơi tuổi thọ, sức khỏe và thời gian của con người có thể được định giá bằng nhiều công cụ, hay thậm chí là có thể đem ra mua bán bằng tiền mặt. Điểm cộng rất lớn của truyện nằm ở tâm lý của những kẻ trực tiếp thực hiện công việc mua bán này được khắc họa một cách rất tự nhiên, mình hoàn toàn chưa thấy một chi tiết nào bị gượng ép hay phi logic trong cốt truyện. Nhịp truyện diễn ra không quá nhanh nhưng cũng không quá chậm, tuy vậy vẫn có những tình tiết khiến người đọc rùng mình ớn lạnh bởi sự đen tối của nó, điển hình là tương lai 30 năm của Kusunoki hay quãng đời 10 năm của Himeno qua lời kể của Miyagi. VÌ vậy, đây không phải là câu truyện mà bạn có thể tự tin đoán trước diễn biến của nó. Nếu để dùng một cụm từ để miêu tả cái kết của truyện thì đó chính là “cực kì thỏa mãn”. Nó mang lại cho mình rất nhiều cung bậc cảm xúc, từ ngạc nhiên cho tới cay đắng xen lẫn sự tiếc nuối, nhưng hơn hết vẫn là mãn nguyện. Chắc hẳn là rất nhiều bạn sẽ thắc mắc rằng tại sao tác giả đặt tên truyện là 3 days of happiness nhưng lại chả thấy ba ngày ở đâu. Mình xin trả lời là đây không phải một tác phẩm viết về ba ngày hạnh phúc của hai nhân vật chính mà là hành trình ngắn ngủi kiếm tìm ba ngày đó. Họ chắc chắn sẽ chết, chết cùng với nhau sau ba ngày hạnh phúc, đó chính là kết thúc hoàn hảo nhất, chắc chắn nó sẽ để lại ấn tượng và dư vị khó quên trong lòng mỗi độc giả để rồi sau này, chúng ta sẽ nhớ mãi về câu truyện tình yêu của họ, một truyện tình có thể sưởi ấm bất kì trái tim lạnh lẽo, họ đã sống hết mình, còn chúng ta, liệu chúng ta có thể như hai người họ, đó phụ thuộc hoàn toàn vào hành động và cách suy nghĩ của các bạn sau khi đọc truyện. Những ý nghĩa nhân văn trong cốt truyện như là hạnh phúc, giá trị của con người hay là cách họ đối xử với nhau đều được truyền tải theo hướng hiện đại và dễ tiếp thu với tất cả mọi người, đặc biệt là những bạn nào không có nhiều thời gian đọc nhưng vẫn muốn tìm kiếm một tác phẩm giàu ý nghĩa. Một điểm nữa mà mình muốn chia sẻ thêm về cốt truyện của 3ds đó chính là sự hài hòa giữa yếu tố romance và drama, bên cạnh nhiều chi tiết đen tối và tâm lý, những khoảnh khắc lãng mạn của 2 nhân vật chính chắc chắn sẽ làm hài lòng những tín đồ của tiểu thuyết lãng mạn bởi sự hồn nhiên và trong sáng của nó. Hai con người cùng chạy trốn số phận nghiệt ngã tìm được sự đồng cảm lẫn nhau, để rồi họ bù đắp cho những khoảng trống nơi trái tim của người còn lại. VIệc chuyển đổi sắc thái từ buồn bã sang ấm áp cũng rất đỗi tự nhiên, hoàn toàn không có bất kìa chi tiết gượng ép. Tóm lại, 3ds có rất nhiều điểm cộng, vượt xa kìa vọng của mình về cốt truyện của một bộ manga ngắn và đến giờ mình vẫn chưa tìm được điểm nào đủ lớn để phàn nàn về cốt truyện của nó. Nếu bạn đang muốn tìm kiếm một bộ truyện có art đẹp, gái nuột, và background được chăm chút kĩ lưỡng, tỉ mỉ thì chắc chắn đây không phải lựa chọn mà các bạn nên thử. Theo mình đánh giá tổng thể thì 3ds có nét vẽ rất phù hợp với truyện. Nét vẽ thực tế, không quá đẹp nhưng cũng không quá cẩu thả. Những chi tiết nhỏ cũng như background tuy không được đầu tư một cách kĩ lưỡng nhưng nó sẽ tạo cho bạn những khoảng lặng để suy ngẫm về cuộc đời thông qua những chi tiết truyện. Thậm chí, những khung tranh chỉ có chữ trên nền đen cũng xuất hiện kha khá trong truyện. Nếu các bạn muốn một chút gì đó bình lặng để thư giãn và quên đi những ồn ào ở ngoài xã hội thì xin chúc mừng, đây chính là tác phẩm dành cho bạn. 3ds xoay quanh cuộc sống của nhân vật Kusunoki, một con người đáng thương nhưng cũng vô cùng đáng trách. Anh ta là đại diện cho một tầng lớp giới trẻ Nhật Bản sống buông thả, không mục đích. Ngày ngày lang thang trong vô định, cố níu giữ lấy chút gì đó từ quá khứ. Những con người đó tưởng chừng như vẫn sống, vẫn hít thở nhưng bên trong đã hoàn toàn mục nát và trống rỗng. Tâm hồn của họ đã chết từ lâu bởi chính những hành động của họ. Không bạn bè, không tiền bạc, không mục đích. Quá khứ có thể là động lực nhưng cũng có thể là thứ kìm chân chúng ta bước tiếp. Điều này có thể được lí giải cụ thể hơn qua một ví dụ đơn giản: Bạn đi xe không cẩn thận và bị ngã xe, sau đó bị thương. Những vết thương có thể cho những ai đủ mạnh mẽ để vượt qua đau đớn nhiều kinh nghiệm quý báu khi đi xe, cũng có thể tạo động lực giúp chúng ta nghiên cứu ra cách làm thế nào để giảm thiểu tối đa thiệt hại lên cơ thể. Nếu không thể vượt qua nỗi đau đó, bạn sẽ mãi mãi ám ảnh về vụ tai nạn dẫn tới không thể đi xe được nữa, qua đó đánh mất rất nhiều điều thú vị mà chỉ có thể có được khi đi xe. Không may, Kusunoki rơi vào trường hợp xấu hơn, chính vì sự níu kéo quá khứ đến mù quáng đã khiến cho anh ta quên đi mất một điều rằng mình đang ở hiện tại và quá khứ chỉ là quá khứ. Bất ngờ thay, một cơ hội đến với Kusunoki khi anh ta phải bán đi tuổi thọ của mình và trải qua ba tháng bên người giám sát là Miyagi, qua đó Kusunoki nhận ra rằng mình đã đánh mất những thứ gì, từ đó, cuộc sống của anh ta trở nên thú vị hơn, ý nghĩa hơn. Một điểm mình rất hài lòng ở cách xây dựng nhân vật này của tác giả đó chính là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thông qua rất nhiều đoạn độc thoại nội tâm. Nó khiến cho bất kì ai khi đọc đều có thể dễ dàng đồng cảm và nhìn thấy một phần nào đó của chính mình trong nhân vật này. Người góp phần không nhỏ vào việc thay đổi suy nghĩ của Kusunoki về cuộc sống chính là Miyagi. Ấn tượng của mình về nhân vật này khá tốt bởi những chi tiết đỏ mặt hay cười của Miyagi đều được tác giả vẽ rất tự nhiên, nó mang cảm giác giống với người thật hơn là một nhân vật trong truyện. Là giám sát viên của Kusunogi trong ba tháng cuối, cũng chính là người thẩm định giá trị tuổi thọ của Kusunogi, Miyagi đã chuyển đến sống cùng với Kusunogi ngay sau khi anh chàng bán đi tuổi thọ của mình. Nhiệm vụ hằng ngày của Miyagi chỉ là đi theo và quan sát hành động của Kusunogi. Với vai trò giám sát viên, chỉ Kusunogi mới có thể nhìn thấy sự tồn tại của cô. Để trả khoản nợ khổng lồ của người mẹ mình, Miyagi đã chấp nhận bán đi thời gian 30 năm của mình, đó cũng có nghĩa là cô đã phải đánh đổi toàn bộ tuổi thanh xuân của mình. Khác với Kusunogi, Miyagi có suy nghĩ lạc quan hơn về cuộc sống, cô coi công việc giám sát viên như một cơ hội để hiểu hơn về tính cách mọi người cũng như giá trị của cuộc sống, hy vọng vào một điều tốt đẹp sẽ đến với mình để rồi sống một cách vô nghĩa đến khi gặp được Kusunogi. Gặp được anh, biết được cảm giác được yêu thương, được lắng nghe, giãi bày tâm sự, đó cũng là lần đầu tiên trong cuộc đời cô cảm thấy đau đớn khi mình vẫn tiếp tục phải sống. Quyết định bán đi chính tuổi thọ của mình để đưa 300 nghìn yên cho Kusunogi, nói dối anh về giá trị thực sự của tuổi thọ, về những luật lệ của giám sát viên nhưng để rồi bán toàn bộ tuổi thọ còn lại của mình để được ở bên anh mãi mãi. Tất cả điều đó làm nên một Miyagi rất cá tính, rất nhân hậu và cũng vô cùng có hồn. Nội tâm của cô được khắc họa rất rõ nét trong ngoại truyện. Qua đó, sự cô đơn, cảm giác trống rỗng, buồn bã khi trên thế giới này chỉ có duy nhất người được giám sát có thể nhìn thấy, sự nuối tiếc khi thanh xuân của mình sẽ trôi qua trong cô đơn để rồi đến khi trả hết nợ, cô nhận ra mình đã đánh mất quá nhiều thứ được bộc lộ một cách trần trụi nhất, cảm xúc nhất, không chút màu mè hay phô trương. Chắc chắn sẽ phải rất lâu nữa thì mình mới có thể tìm được một nhân vật nữ gây ấn tượng mạnh như Miyagi. Một câu truyện nếu thiếu đi ý nghĩa nhân văn sẽ không thể chạm đến trái tim của người đọc và việc tìm ra sự nhân văn trong nó là công việc mà mình hứng thú nhất. Với một tác phẩm mang nhiều ý nghĩa nhân văn như 3ds thì để truyền tải được hết cần rất nhiều kiến thức khác nhau, đặc biệt là triết học, việc đó đã vượt quá mục đích của một bài review nên mình hứa sẽ có một bài viết khác phân tích những ý nghĩa nhân văn của tác phẩm trong một ngày rảnh rỗi và không bị deadline dí. Quay trở lại với, nhân vật chính, có hai thứ mà mình nghĩ rằng hầu hết các bạn khi đọc sẽ đều nghĩ đến, đó chính là “hạnh phúc” và “giá trị con người”, hai yếu tố trên tưởng chừng không liên quan gì đến nhau, tuy nhiên sau một hồi suy nghĩ thì mình nhận ra có khá nhiều điểm tương đồng giữa chúng và sau đây sẽ là quan điểm về cách tác giả gửi gắm hai ý nghĩa trên trong tác phẩm và bài học rút ra sau khi đọc của mình. Theo các bạn, thứ gì làm nên giá trị của con người ? Tiền bạc ? Danh vọng ? Cống hiến cho xã hội ? Các mối quan hệ ? Câu trả lời của mình là “hạnh phúc”, tại sao ư ? Bởi vì nó là tổng hợp của tất cả các yếu tố trên. Bạn có nhiều tiền nhưng chưa chắc đã hạnh phúc. Bạn được nhiều người quý mến nhưng không thể tìm được một người thực sự thấu hiểu để trò chuyện và tâm sự, bạn không hạnh phúc. Bạn có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội nhưng vẫn luôn cô đơn vì không ai thực sự gắn bó với bạn, bạn không hạnh phúc. Bạn cống hiến hết mình cho xã hội nhưng không được công nhận, bạn không hạnh phúc. Vậy thế nào mới là “hạnh phúc”, câu trả lời rất đơn giản, hạnh phúc chính là sự lan tỏa cảm xúc tích cực của mình đến với mọi người xung quanh. Hãy thử tưởng tượng bạn được điểm cao, lúc đó thầy cô, bố mẹ, họ hàng đều sẽ tự hào về bạn, lúc đó bạn cảm thấy hạnh phúc. Bạn tìm được một nửa của mình và tình cảm của bạn chạm đến trái tim của những ai biết đến nó, bạn sẽ hạnh phúc. Đừng suy nghĩ quá phức tạp về vấn đề này, hãy cứ suy nghĩ theo hướng tích cực, hạnh phúc không phải là thứ cao xa, đôi khi, nó đơn giản chỉ đến từ những hành động nhỏ nhất như là được tặng một món quà nhỏ hay tự mình làm được một điều gì đó. Không quan trọng điều bạn làm lớn lao hay cao cả thế nào, quan trọng là cách bạn lan tỏa niềm hạnh phúc đến với mọi người xung quanh. Ok, vậy thì nó có liên quan gì đến “giá trị con người”, bạn có công nhận với mình tất cả yếu tố trên đều sẽ không tồn tại vĩnh cửu không. Tiền rồi sẽ có lúc mất giá, bạn bè rồi sẽ có lúc chia xa, đỉnh cao danh vọng không bao giờ chỉ dành cho một người, sẽ có lúc một người khác xứng đáng hơn bước lên đó, những cống hiến rồi sẽ bị lãng quên theo thời gian. Chỉ có đúng “hạnh phúc” và “hy vọng” sẽ mãi mãi tồn tại trong trái tim của mỗi người, đó mới chính là giá trị thực sự của một con người. Nếu vậy thì chẳng phải giá trị của con người là vô hạn hay sao, đúng vậy. Tương lai là thứ không bao giờ có thể được dự đoán trước và sẽ chẳng có thứ gì có thể đoán chính xác xem trong tương lai bạn sẽ làm những gì. Qua đây thì mình muốn nhắn nhủ đến tất cả các bạn và cả chính bản thân nữa rằng đừng bao giờ từ bỏ, hãy nỗ lực, cố gắng lan tỏa sự tích cực đến với tất cả mọi người xung quanh vì tiềm năng của con người là vô hạn. Đừng bó buộc mình theo một lối mòn suy nghĩ mà hãy liên tục cải tiến để hoàn thành bản thân, đến cả Kusunoki cũng không thể ngờ rằng một kẻ thất bại như anh ta có thể tạo nên một tác phẩm vĩ đại chỉ trong thời gian ngắn ngủi đó, vậy thì tại sao chúng ta- thế hệ tương lai của đất nước không cố gắng từng ngày để khẳng định giá trị của mình nhỉ ? TỔNG KẾT: 3 days of happiness là một bộ manga rất hay, mình nghĩ tất cả mọi người đều nên đọc qua nó ít nhất 1 lần để cảm nhận được cái hay, cái độc đáo của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và những ý nghĩa sâu săc được gửi gắm trong cốt truyện một cách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuối cùng, mình xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn đã bỏ thời gian quý báu ra để đọc hết mấy dòng xàm xí này. Tạm biệt và hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết tiếp theo. #homuhomu PS: vì một số lỗi ngáo ngơ nên ad Homu lỡ xoá hết ảnh bài này, tạm thời t để ảnh này đây thế vào để chống trôi, chờ Homu sửa lại cho đàng hoàng nhé #Lamp PS: Tôi, homu ăn hại xin chân thành cảm ơn và xin lỗi anh #Lamp vì đã gây ra cái sự ngu c*k không kiểm soát được này. Tôi rất ăn năn và hối lỗi vì đã làm mất thời gian và công sức của anh ấy, xin cam kết từ nay nếu còn tái phạm nữa thì tôi sẽ chịu mọi hình thức kỉ luật dù có nặng đến đâu đi chăng nữa Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Hạnh Phúc của tác giả Sugaru Miaki.
Từ Điển Khazar
Nếu có những cuốn sách đáng gọi “kỳ thư”, Từ điển Khazar là một trong số đó. Kể từ khi ra đời nó đã gây cảm hứng lớn lao cho nhiều thế hệ người đọc, và từ khi bản tiếng Việt được in lần đầu, nó đã là cánh cửa mở ra một thế giới mới mẻ và hấp dẫn khôn cùng của tiểu thuyết hiện đại. Với người đọc bình thường, cuốn sách cho ta một trải nghiệm khác lạ, “đọc theo cách nào cũng được” song đồng thời đầy thử thách, đòi hỏi ta tích cực tham gia vào việc tái dựng chỉnh thể, một cách tưởng tượng và sáng tạo. Với người viết văn, nó là minh chứng cho thấy những khả năng của tiểu thuyết là vô hạn và những chân trời chưa ai chạm tới của văn chương là kỳ vĩ, thu hút khôn cưỡng như thế nào. Không chỉ là “tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ 21” như một số người tán tụng, Từ điển Khazar còn giống như một cuốn sách xưa, lạ lùng, mà tác giả khai quật được từ bụi bặm lãng quên và đưa ra ánh sáng cho chúng ta, cuốn sách mà, dẫu nằm kia dưới ánh ban ngày, vẫn nguyên vẹn bóng tối âm hiểm, u trầm của nó. *** Cùng với "Từ điển Khazar", Milorad Pavic đi vào văn chương thế giới như một trong những nhà văn tìm lối đi riêng để làm mới thể loại tiểu thuyết Nhiều nhà phê bình gọi tiểu thuyết "Từ điển Khazar" (Trần Tiễn Cao Đăng dịch) của nhà văn Milorad Pavic là "tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ XXI" dẫu tác phẩm này được xuất bản từ năm 1984. "Kỳ thư" của thế kỷ XXI "Từ điển Khazar" như tên gọi của nó, là cuốn từ điển viết về dân tộc Khazar, được cấu trúc như một từ điển theo thứ tự của bảng chữ cái, là "tiểu thuyết - từ điển gồm 100.000 từ". Chính vì thế, trong mỗi ngôn ngữ khác nhau, người đọc của mỗi bản dịch sẽ có trình tự đọc "Từ điển Khazar" khác nhau như Milorad Pavic từng chia sẻ: "Bản gốc "Từ điển Khazar" in bằng chữ Cyrillic kết thúc bằng đoạn trích tiếng Latin: "sed venit ut illa impleam et confirmem, Mettheus". Bản dịch tiếng Hy Lạp kết thúc bằng câu: "Tôi đã nhận ra ngay rằng có đến ba nỗi sợ trong tôi chứ không chỉ một". Bản tiếng Anh, Do Thái, Tây Ban Nha và Đan Mạch "Từ điển Khazar" kết thúc bằng câu: "Khi người đọc quay trở lại, mọi thứ diễn ra theo thứ tự ngược lại và Tibon tiến hành sửa chữa bản dịch dựa trên ấn tượng khi nghe kẻ khác vừa đi vừa đọc to bản dịch ấy…". Không những thế, vì là "tiểu thuyết - từ điển" nên người đọc có thể chọn mục từ mình muốn đọc, đọc nhảy cóc, đọc xuôi hay đọc ngược, thậm chí "đọc chéo" theo lời khuyên của tác giả mà vẫn không thay đổi nội dung của tác phẩm. Bìa cuốn tiểu thuyết “Từ điển Khazar” xuất bản tại Việt Nam Làm được như thế là bởi "Từ điển Khazar" được xây dựng dựa trên cấu trúc mở, với những văn bản phân mảnh và kết hợp lại dựa trên sự chủ quan của độc giả, cũng như những dị biệt của từng ngôn ngữ. Khái niệm về đoạn đầu và đoạn cuối tác phẩm không còn cố định theo nghĩa thông thường nữa mà thay đổi, khiến cho tiểu thuyết này trở thành vòng tròn bất tận, không có đầu và không có kết trong chừng ấy trang sách. Nghĩa là trong cái hạn hữu của vật chất là trang giấy chứa đựng cái vô hạn của câu chuyện. Cách đọc này cho phép người đọc dự phần nhiều hơn vào một tác phẩm văn học. Thay vì chỉ duy nhất một cách đọc văn bản, tiểu thuyết hậu hiện đại cho phép người đọc được chọn lựa cách thức đọc một tác phẩm hay nói như nhà văn Raymond Queneau là "một truyện kể theo cách riêng của bạn". Bằng cách đó, con đường của tiểu thuyết không còn bó hẹp trong một lối đi mà có hàng ngàn dự phóng khác nhau, gây hứng thú cho cả người đọc lẫn người viết. Được sinh ra như đứa trẻ Sức hấp dẫn của "Từ điển Khazar" không chỉ đến từ cấu trúc đặc biệt của nó mà còn bởi câu chuyện hoang đường mà Milorad Pavic kể lại về cách cuốn "Từ điển Khazar" được hình thành qua hàng ngàn năm. Biến tiểu thuyết này thoát khỏi cái kỹ thuật nặng nề, khô cứng mà trở nên bay bổng, đầy thơ mộng bởi sức hấp dẫn của những truyện kể, gợi nhắc đến bộ kỳ thư của nhân loại "Ngàn lẻ một đêm" và Milorad Pavic không khác chi nàng Seherazat, mê hoặc người đi qua từ câu chuyện này đến câu chuyện khác hay ở đây là từ mục từ này qua mục từ khác. Được cấu tạo từ 3 quyển sách: "sách đỏ", "sách xanh" và "sách vàng" viết bởi 3 tôn giáo khác nhau (Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo) xung quanh sự kiện được gọi là "luận chiến Khazar". Tại sự kiện lịch sử đó, từng cuốn sách kể lại câu chuyện của mỗi tôn giáo về cách họ thuyết phục quốc vương cho phép dân Khazar cải đạo theo tôn giáo của mình. Chính ở đây, Milorad Pavic đẩy người đọc tiến xa hơn, không còn tiếp thu văn bản một cách thụ động mà buộc họ phải dự phần vào việc suy luận, tùy theo mỗi độc giả sẽ có một đáp án riêng của mình. Thậm chí, nếu hỏi Milorad Pavic, rốt cuộc người Khazar đã cải đạo nào thì chắc ông cũng lắc đầu nói không biết. Điều này khiến ta nhớ đến tác phẩm "Trong rừng trúc" của Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) hay "Cô dâu hay con hổ" của Frank R. Stockton (1834-1902) ở chỗ truyện không chỉ có một kết thúc mà quan trọng người đọc quyết định tin vào lời chứng nào và chọn kết thúc mà mình thấy hài lòng nhất. Milorad Pavic biến tiểu thuyết trở thành một sinh thể sống động chứ không còn là một văn bản chết của giấy và mực. Như chính ông từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn: "Tiểu thuyết được sinh ra hệt như một đứa trẻ". Câu nói này, không chỉ ví von cách nhà văn "thai nghén" ra tác phẩm mà còn ở chỗ "đứa trẻ" đó có một sinh mệnh riêng, những dự phóng riêng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của "cha mẹ", những tác giả không có nhiệm vụ quyết định thay độc giả tương lai của tác phẩm. Tiêu biểu cho văn chương hậu hiện đại Milorad Pavic sinh năm 1929, nhà văn người Serbia. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông từng được nhiều lần dự đoán là ứng cử viên sáng giá của Serbia cho giải Nobel Văn chương. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các nhà phê bình trên thế giới đánh giá cao bởi những sáng tạo độc đáo, kích thích độc giả. Ngoài "Tiểu thuyết - từ điển gồm 100.000 từ", "Từ điển Khazar", Milorad Pavic còn có các tiểu thuyết độc đáo khác: "Tiểu thuyết ô chữ", "Phong cảnh vẽ bằng trà" (1988); "Tiểu thuyết - đồng hồ cát", "Mặt trong của gió"(1991) và "Tiểu thuyết - bài tarot", "Mối tình cuối ở Constantinople" (1994). Cũng giống như nhà văn Italo Calvino của Ý hay Jorge Luis Borges của Argentina, ông được xem là nhà văn tiêu biểu cho văn chương hậu hiện đại. Huỳnh Trọng Khang Mời các bạn đón đọc Từ Điển Khazar của tác giả Milorad Pavic.