Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Đông Vườn Địa Đàng

Phía đông vườn địa đàng là câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỷ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình.  Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp.  Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện về con người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Cách đây mấy năm, tôi có dịp nói chuyện với một giáo sư người Mỹ. Ông được giới thiệu là một nhà Việt Nam học. Trong lúc trò chuyện, tôi đặt một câu hỏi: “Tôi không hiểu tại sao nhà văn John Steinbeck lại ngồi trên phi cơ bay trên trời Việt Nam và ca ngợi những phi công ném bom nhân dân nước tôi?” Ông trả lời: “Đừng nói đến John Steinbeck nữa. Bây giờ thanh niên Mỹ không ai đọc ông ta nữa. Ông ta lẩm cẩm rồi.” Nói thế, không biết vì muốn làm vui lòng tôi, hay vì là nhà Việt Nam học, tự nhiên ông đứng về phía Việt Nam. Tôi chắc lý do thứ hai đúng hơn, ông tỏ ra là một người thẳng thắn. Nhưng câu trả lời không khiến tôi vui, mà làm tôi suy nghĩ. Tôi hiểu rằng thanh niên Mỹ bây giờ không đọc John Steinbeck nữa không phải vì họ bất bình về việc nhà văn ủng hộ ném bom Việt Nam. Chính ông giáo sư Việt Nam học ấy đã nói thanh niên Mỹ thuộc thế hệ sau chiến tranh Việt Nam hầu như không ai biết Việt Nam là gì. Vậy thì, không đọc John Steinbeck nữa, ấy là vì họ cho rằng nhà văn đã cổ lỗ rồi, không hợp thời nữa. Thanh niên Mỹ ưa chạy theo “mốt”. Nếu đúng như thế, thật đáng buồn. Vì tác giả củaChùm nho uất hận,Chuột và ngườivàPhía đông vườn Địa đàngmà chúng ta đang đọc đây là một nhà văn nhân văn chủ nghĩa. Các tác phẩm vừa kể mang giá trị nhân đạo cao cả. Đó là những tác phẩm làm vinh dự cho dân tộc Mỹ. Nếu thanh niên Mỹ bây giờ thấy những tư tưởng ấy là “lẩm cẩm” thì thật đó là một điều không hay. Nhưng tôi không tin là có điều ấy. Tôi vẫn thấy tác giảChùm nho uất hậnlà đáng kính mến. Bây giờ nói vềPhía đông vườn Địa đàng. Nghĩ về người Mỹ, người ta nghĩ ngay đếnchủ nghĩa thực dụng. Phương Tây cho là như thế. Đích thân người Mỹ cũng tự cho mình như thế. Tất nhiên là có nhiều cách hiểuchủ nghĩa thực dụngkhác nhau. Ta thì nói:chủ nghĩa thực dụng Mỹ, với ý phê phán. Đại khái như thế này: người Mỹ cái gì cũng tính toán bằng tiền. Ngồi với nhau, ai có thuốc lá thì lấy ra hút, không mời người khác. Bàn việc, hỏi ngay phần tôi bao nhiêu, phần anh bao nhiêu. Bố con mượn tiền nhau cũng là vay trả sòng phẳng. Đến những việc lớn hơn, Mỹ sản xuất vũ khí, buôn bán vũ khí, chỉ nhằm thu lợi nhuận, bất cần nhân nghĩa, đạo lý “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi.” Đối với Mỹ chẳng có gì thiêng liêng hết, họ đem tất cả ra làm quảng cáo, để bán hàng v.v... Ta nhìn nhận Mỹ như vậy là có lý do. Ta thù ghét Mỹ. Ta và Mỹ đã gặp gỡ nhau trong những trường hợp không có gì vui vẻ. Những người Việt Nam ở miền bắc, ở các vùng kháng chiến miền nam đã bị bom đạn Mỹ gây cho biết bao nhiêu đau thương tang tóc. Những người trong các vùng đô thị thì căm giận các cuộc bố ráp, những cuộc tra khảo, những tai nạn lính Mỹ gây ra trên đường phố, những phụ nữ bị lính Mỹ xúc phạm đến nhân phẩm, những thanh niên hư hỏng vì “lối sống Mỹ”. Tất cả những cái đó ta quy tội chochủ nghĩa thực dụng Mỹ. Nó đồng nghĩa vớibần tiện, tham lợi, tàn nhẫn, phi nhân. Cũng có thể đó là những biểu hiện sai xấu củachủ nghĩa thực dụngnhưng không nên hiểuchủ nghĩa thực dụng chỉ là như vậy. Nói một cách cô đúc thì nội dung căn bản củachủ nghĩa thực dụnglà ở điểm, chỉ thừa nhận các chân lý của một lý thuyết sau khi đã thể nghiệm nó trong ứng dụng vào thực tế. Nguyên lý này được dùng cho cả khoa, triết lý, đạo đức, tôn giáo. Chỉ được coi là chân lý, một nền triết lý, một nền đạo đức, một tôn giáo có tác dụng cải thiện cuộc sống. Như vậy chủ nghĩa thực dụng là mộttriết học vị nhân sinh. Nước Mỹ là một nước mới, lịch sử chỉ có hơn hai trăm năm. Những người dân ở Âu châu, Á châu, Úc châu đến đây tổ chức một xã hội mới. Ở xứ sở của họ, họ sống trong những khuôn khổ đã định hình từ bao nhiêu đời trước. Họ suy nghĩ phán đoán theo những nếp cũ, theo truyền thống. Đến vùng đất mới này, mọi cái đều mới mẻ. Những người đến đầu tiên tập mình làm trọng tài cho mình. Họ không có cách nào khác là lấy hiệu quả để đánh giá những chủ trương, những việc làm của mình và điều này trở thành một lối tư duy của người Mỹ. Rõ ràng là trong tiểu thuyếtPhía đông vườn Địa đàng John Steinbeck đã chấp nhận lối tư duy ấy và khẳng định nó. Tác phẩm của ông đầy sức thuyết phục. Giả sử ông là triết gia và trình bày chủ nghĩa thực dụng bằng triết học chưa chắc ông thuyết phục được mạnh mẽ. Nhưng ông là nhà văn, và tiểu thuyết chính là bức tranh phản ánh cuộc sống cho nên chính cuộc sống chứng minh và như thế không ai chối cãi được. Tuy nhiên, để điều vừa nói không bị nghi ngờ, tôi cần phải nói về bút pháp của Steinbeck. Tiểu thuyết Mỹ, chí ít là tác phẩm của tiểu thuyết gia tiêu biểu, thể hiện một tính hiện thực rất trội. Có những cuốn có giá trị như một công trình nghiên cứu xã hội học, nhân chủng học (tất nhiên là bằng văn chương cho nên có thể còn rõ ràng hơn là khoa học nữa vì sinh động hơn, cụ thể hơn, tỉ mỉ hơn). Chúng không chỉ khảo sát một quãng đời mà cả cuộc đời, có khi từ đời nọ sang đời kia. Nhưng chẳng phải vì vậy mà chúng dày cộm, rậm rạp. Và đấy chính là chủ nghĩa thực dụng áp dụng vào lĩnh vực viết văn. Trong cuốn tiểu thuyết ta đang đọc đây Steinbeck theo dõi những nhân vật từ đời cha đến đời con. Ông chú ý đến từng chi tiết rất nhỏ, nhiều khi người đọc phải ngạc nhiên không biết ông làm thế nào mà quan sát được tinh tế như thế. Nhưng ông lại bỏ qua rất nhiều hành động, lời nói, tình huống mà thường thường nhiều tiểu thuyết gia đưa vào tác phẩm. Nghĩa là ông chọn chi tiết trên hiệu quả thực tiễn mà nó mang lại. Sự chọn lọc này thật khe khắt. Đọc sách, người ta thấy ông trình bày rất khách quan. Người ta không thấy có dụng ý gì muốn lái độc giả theo hướng này hướng khác. Đôi khi ông cũng phát biểu ngoài lề những ý kiến của ông. Nhưng những ý kiến ấy cũng thật khách quan, đúng là cuộc sống như vậy, ông chỉ phiên dịch lại trung gian. Nhưng Steinbeckkhách quanmà khôngkhách quan chủ nghĩa. Tôi muốn nói: người ta không thấy ở ông sự vô tình, thái độ trối kệ. Tôi phải so sánh cho rõ ý: ĐọcCuốn theo chiều giótôi thấy tác giả miêu tả rất trung thực, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngòi bút hiện thực ấy hơi tàn nhẫn. Thuyền trưởng Butler có cái đầu óc thực tế rất hay, nhưng đối với Scarlett quả là ông đối xử quá tàn nhẫn. Tác giảNhững kẻ trần truồngvànhững người chếtcũng rất hiện thực, tôi không trách gì ông, nhưng ông cố ý phơi bày những mảng hiện thực kinh tởm quá. Vấn đề lànhìn hiện thực một cách hiện thực, nếu có thể nói như vậy. Cái hiện thực mà John Steinbeck trình bày, không bị tàn phế, uốn nắn chút nào, đầy những trầm luân khổ ải, nhưng nó không dọa nạt khủng bố người đọc mà làm cho người ta chấp nhận được. Chẳng phải là trong thực tế người ta vẫn sốngđượcvới đau khổ đó sao. Ta hãy nhớ lại bài thơ ngụ ngôn của La Phông-TenTử thần và tiều phu. Những người Mỹ đứng đắn thường bày tỏ thành thực cái ý muốn của họlàm cho cuộc sống có thể chịu đựng được. Nói thế nghĩa là: cuộc sống không chỉ có hoa thơm trái ngọt đâu, rất nhiều cay đắng nhưngcó thể chịu đựng được. Và người Mỹ thường có một phương châm, coi như một cách ngôn:Hãy giữ nụ cười. Cuộc sống là cuộc sống. Nó như thế. Vậy thì nhăn nhó cau có cũng chẳng thay đổi được gì. Tốt hơn là hãy giữ lấy nụ cười. Đó là chủ nghĩa thực dụng. Nó không phải dở, hay là khác. John Steinbeck chọn hai nhân vật để thuyết minh cho tư tưởng của ông. Hai con người bình thường. Một là ông Samuel Hamilton nguồn gốc Ái Nhĩ Lan nông dân, có nghề lò rèn và kiêm nghề đào giếng. Một là Lee nguồn gốc Trung Hoa, nấu bếp. Dường như John Steinbeck gửi gắm một ý nghĩ vào trong sự chọn lựa của mình: một người đơn giản hồn nhiên kiểu trẻ thơ, và một người đã được thừa kế, một gia tài khôn ngoan của một nền văn hóa lâu đời vào bậc nhất trên hành tinh này. Hai người gặp nhau thống nhất với nhau trong một quan niệm: chỉ có thực tiễn là chân lý. Thêm vào đó, tác giả lại viện dẫn Sáng thế ký của Kinh Thánh mà ông cho là người Trung Hoa đã tìm ra nghĩa đúng nhất. Đó là đem chúa Trời nói với Cain “Nếu người làm lành há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành thì tội lỗi rình đợi trước cửa thềm người lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó.” Phải quản trị nó trong nguyên văn hê-brơ, là Timshel. Theo LeeTimsheldịch làquản trịhaykiềm chếđều không đúng mà, phải dịch làngươi có thể chế ngự nó. Steinbeck dùng chi tiết này không phải do yêu cầu của nghĩa chữ mà chính là để nêu lên một quan niệm xử thế như bàn dưới đây. Hơn một thế kỉ nay, từ lúc các nước phương Tây đi chiếm các thuộc địa ở các nước phương Đông, có những triết gia, chính trị gia, nhà văn đặt câu hỏi: Phương Tây và phương Đông có thể gặp được nhau không? Trên thực tế, họ cũng gặp nhau rồi, đúng hơn là phương Tây đã gặp phương Đông bằng thế mạnh 1 Câu hỏi đặt ra là muốn có sự gặp gỡ tự nguyện kia. Nhiều câu trả lời khác nhau. Về phía phương Tây có người bảo có thể được. Có người bảo Tây là Tây, Đông là Đông không thể gặp nhau. Có người đề xuất công thức: Phương Tây là thầy, phương Đông là trò. Với nhân vật Lee, Steinbeck có câu trả lời độc đáo: Lee làđầy tớ trung thànhvà là thầy dạy khôn cho chủ. Không rõ nhà văn có đọc các truyện xưa của Trung Hoa không mà ông đã xây dựng nhân vật Lee như một quân sư, một mưu sĩ, một môn khách? Steinbeck tỏ ra rất hiểu phương Đông, rất hiểu cái thâm thúy của triết học, văn hóa Trung Hoa mà ông khâm phục. Nhân vật Lee, nhà văn xây dựng thật hay. Tim shel – ngươi có thể chế ngự nó: ấy là tư tưởng chỉ đạo của cuốn tiểu thuyết. Mỹ châu vốn là nơi tao ngộ của tứ hải anh hùng. Nói nôm na hơn và đúng với sự thực: tìm đến lập nghiệp ở nước Mỹ là những người thuộc nhiều quốc gia, nhiều màu da, có chung một cảnh ngộ bị thất cơ lỡ vận, không còn sống ở quê hương xứ sở mình. Cái cảnh ngộ chung ấy dạy họ nên biết chấp nhận những dị biệt của nhau, có khi những sự đối chọi nhau nữa, để chịu đựng, để sống chung với nhau trên miếng đất có thừa điều kiện để nuôi tất cả. Các nhà văn Mỹ thường có cái nhìn thực tế, nói là thực dụng cũng được đối với con người. Con người rất đa dạng, bao nhiêu người là bấy nhiêu mô hình, không ai có quyền áp đặt cái mô hình của mình cho người khác. Con người không phải làthầncũng không phải làquỷ, có cả xấu lẫn tốt, xấu hay tốt đều là tương Steinbeck cố ý đưa vào trong tiểu thuyết câu truyện trong Kinh Thánh về hai anh em sinh đôi Abel và Cain một tốt, một xấu và đặt cho hai nhân vật của ông là Aron và Cal cùng là anh em sinh đôi, hai cái tên gần giống như trong Kinh Thánh. Phải chăng tác giả muốn nói Abel cũng là con người, và Cain cũng là con người. Con người là cả Abel lẫn Cain, cái nghiệp dĩ là như vậy, phải chấp nhận thôi. Hơn thế, nhà văn lại có ý dành tấm lòng ưu ái của mình cho những người bị coi là xấu. Trong tiểu thuyết có hai tuyến nhân vật: Tốt, xấu. Adam, Aron được mô tả như những con người tốt. Họ muốn làm những việc tốt, họ nuôi trong tâm trí một lý tưởng. Nhưng họ chỉ thu hoạch được những thất bại mà chính khuynh hướng lý tưởng hóa là nguyên nhân. Còn những nhân vật bị coi là xấu thì lại thành công trong mọi việc làm. Bên cạnh Adam rất tốt là Cathy, vợ chàng, cực xấu. Cô lừa dối tất cả mọi người và ai cũng bị lừa. Bên cạnh Aron luôn luôn hướng về mục đích thánh thiện là người em Cal luôn luôn bị những ý tưởng xấu điều khiển và Cal bao giờ cũng đạt kết quả. Nhưng ta chớ vội tưởng Steinbeck chủ trươngác thắng thiện. Cuốn tiểu thuyết cho ta thấy những thành công của Cathy, Cal đem lại cho họ không phải sự sung sướng mà là sự đau khổ. Nhà văn muốn nói với chúng ta rằng: Cuộc sống là cuộc sống, nó không uốn theo những ý tốt của chúng ta đâu, đừng lý tưởng hóa. Bởi vì ta lý tưởng hóa cho nên ta liệt người này người khác vào loại xấu. Thực ra họ chỉ là sản phẩm khách quan của cuộc sống. Nếu ta biết nhìn họ một cách thực tế, không định kiến thì ta sẽ thấy họ đều có khả năng chế ngự cái phần xấu ở họ. Nhà văn đã nhờ người bếp Trung Hoa làm phát ngôn nhân cho ông. Lee nói với Cal: “Chú đã nhận ra rằng những điều thiêng liêng đễ bị tiêu diệt, trong khi điều ác lại cứ tồn tại và phát triển. Chú nghĩ rằng cơn thịnh nộ của Thượng đế đã trút lửa từ nồi kim loại nấu lỏng xuống hủy diệt hết để làm cho thanh khiết công trình nhỏ bé bằng bụi đất do ngài đã nặn ra... Mỗi người trong mỗi thế hệ đều được tầy uể bằng lửa... Không một người nào trên đời này tránh khỏi nguyên tắc đó nếu muốn trở nên một người hoàn toàn.” Mỗi người trong mỗi thế hệ đều cần được tẩy uế... cho nên cuộc sống yêu cầu mỗi người phải khoan dung, độ lượng với đồng loại của mình. Sự khoan dung độ lượng ấy là cần thiết, là yếu tố quyết định để mỗi người có thề vượt qua thử thách và hoàn thiện mình. Lee cầu xin ông Adam: “Ông Adam, xin ông hãy tha thứ cho Cal. Đừng để nó cô độc vì mặc cảm tội lỗi... Xin ông hãy giúp nó. Hãy cho nó một cơ hội. Hãy giải tỏa mặc cảm cho nó. Nhờ đó nó sẽ vượt được mọi thử thách, hãy giải thoát cho nó. Hãy tha thứ cho nó.” Đó là mấu chốt của vấn đề. Nhà văn bày tỏ một quan niệm sống rất nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo không phải trên lý thuyết xa vời, đẹp thì có đẹp nhưng vô ích vì không thể vươn tới được, mà một chủnghĩa nhân đạothực tiễn, nói là thực đụng cũng được, phù hợp với kích thước, hoàn cảnh của con người. Phía đông vườn địa đànglà câu truyện của những người Mỹ, khoảng những năm từ nửa cuối thế kỉ trước đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác giả cho nó diễn ra ở chính quê hương mình. Tiểu thuyết được xuất bản năm 1952. Có thể là nhà văn đã thai nghén nó trong thời kì chiến tranh thế giới lần thứ hai. Phải chăng cuộc “người tàn sát người” khủng khiếp ấy đã làm cho Steinbeck băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất của con người và cố tìm ra lời đáp. Phía đông vườn Địa đàng, đây là cuốn truyện vềcon người. Nhận vật trung tâm mang cái tên Adam, con người đầu tiên của nhân loại. Với nó nhà văn muốn đặt cơ sở cho một chủ nghĩa nhân đạo hữu hiệu. Steinbeck khẳng định niềm tin vào con người, vào cuộc sống, nhưng không phải một niềm tin lý tưởng hóa. Niềm tin ấy phải là cái cây đứng chắc, bắt rễ sâu vào miếng đất thực tế có cả đất màu mỡ lẫn sỏi đá, biết tránh sỏi đá, hút màu mỡ mà sinh trái ngọt. Trong phong trào đổi mới của ta hiện nayPhía đông vườn Địa đànglà cuốn sách nên đọc. 9-1988 Tuy xuất bản rất nhiều tác phẩm từ xã hội đến hoạt kê qua tình cảm, John Steinbeck tuyên bố rằng “Phía đông vườn Địa đàng”, là tác phẩm quan trọng nhất của ông. Quan điểm đó cũng được nhiều nhà phê bình đồng ý. Sau ngày xuất bản “East of Eden” cho đến khi ông được trao tặng giải Nobel về Văn Chương năm 1962, không có tác phẩm nào quan trọng hơn tác phẩm này. “East of Eden” sau khi xuất bản, đã được đạo diễn kiêm văn sĩ Elia Kazan quay thành phim và do James Dean, nam tài tử lừng danh quốc tế đóng vai chính cùng nữ tài tử Pier Angeli, mối thất vọng lớn của James Dean, khiến anh phóng xe đua hết tốc lực đến ngộ nạn tử thương; gây thương tiếc cho giới trẻ mộ điệu một dạo. Ở Mỹ, “East of Eden”, đã được tái bản gần bốn mươi lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.   Mời các bạn đón đọc Phía Đông Vườn Địa Đàng của tác giả John Steinbeck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Yêu Của BuBe - Carlo Cassola
Tiểu thuyết Người yêu của Bube (La ragazza di Bube) ngay khi ra mắt độc giả vào năm 1960 đã gây một tiếng vang lớn trong làng văn học Ý, và đoạt giải thưởng văn học Premio Strega, một trong những giải thưởng văn học lớn của Ý. Tiểu thuyết được nhà văn Carlo Cassola (1917-1987) viết trong khoảng những năm 1958-1959 dựa trên một câu chuyện có thật xảy ra ngay sau khi cuộc kháng chiến giải phóng nước Ý khỏi ách phát xít của Mussolini và Hitler vừa chấm dứt (1945). Câu chuyện lấy bối cảnh làng Val d’Elsa ở vùng Toscana thuộc miền Trung nước Ý, tại thời điểm Thế chiến thứ hai vừa kết thúc. Các nhân vật trong truyện còn đang sống trong dư âm của bầu không khí hào hùng và cũng đầy đam mê tuổi trẻ, của cuộc kháng chiến chống phát xít Ý và Đức. Bube, một chiến sĩ du kích cộng sản chống phát xít, từ chiến khu trở về và đến thăm gia đình người đồng chí đã hy sinh trong Người yêu của Bube kháng chiến. Anh gặp Mara, em gái của người đồng chí, và hai người yêu nhau. Giữa lúc tình yêu của Bube và Mara vừa chớm nở với tất cả những khao khát và say đắm của tình yêu đầu đời thì một biến cố đã xảy ra: trong một cuộc xô xát, khi tay cảnh sát trưởng bắn chết một đồng chí trong nhóm, Bube và một người bạn khác đã bắn chết hắn và con trai hắn. Đột nhiên, đôi tình nhân đứng trước một thử thách lớn của tình yêu: Bube phải chạy trốn sang Pháp để tránh bị truy lùng, trong khi Mara ở lại quê nhà vắng bặt tin anh. Đêm trước khi Bube lên đường chạy trốn ra khỏi nước Ý, anh và Mara đã lần đầu thực sự yêu nhau với những tình cảm trong trắng và hồn nhiên của những người lần đầu biết yêu. Nổi bật trong truyện là hình tượng “người yêu của Bube.” Sách đã khắc họa rất sinh động quá trình biến đổi của Mara: trước những sóng gió bão táp của cuộc đời, từ một cô gái mới lớn mười sáu tuổi quê mùa và hồn nhiên, rất thông minh sắc sảo nhưng cũng rất trẻ con, Mara dần trở thành một người phụ nữ đầm tính, sâu sắc và tự chủ ở tuổi hai mươi lăm. Lúc đầu, Mara chỉ chấp nhận Bube để có bạn trai đem khoe với bạn bè, cô đồng ý sang ra mắt gia đình Bube cũng để được ra tỉnh mua giày cao gót và túi xách. Nhưng rồi tình yêu đến và cô đã dần trưởng thành. Một chi tiết gây xúc động: đêm trước khi Bube ra đi, Mara đã từ chối nhận số tiền anh cho cô mua túi xách, để anh đem theo phòng thân. Sau đó là những tháng năm đằng đẵng cô chờ đợi người yêu trong bặt vô âm tín, khi tuổi xuân dần qua đi. Trong thời gian cô đơn chờ đợi, Mara quen với Stefano, một anh công nhân, cũng là đảng viên cộng sản, có nhân cách đáng quý, và trong lòng cô cũng không khỏi xao động, và hai người yêu nhau. Xung đột lên đến đỉnh điểm trong chính nội tâm của Mara, đó là sự đấu tranh giữa một tình cảm đã có lúc muốn buông xuôi để chạy theo một tương lai có chồng con yên ấm với Stefano và một lý trí mách bảo rằng cô là điểm tựa duy nhất cho Bube, rằng anh chịu đựng được vì nghĩ rằng ở quê nhà vẫn còn cô chờ đợi mình. Nhưng chính ngay lúc ấy, nút thắt đã được gỡ khi Bube bị bắt và sau đó bị tuyên án mười bốn năm tù. Tại thời điểm bước ngoặt đó, Mara đã quyết định cuộc đời mình phải ở bên cạnh Bube, nhất là trong tình cảnh khó khăn về mặt tinh thần của anh lúc đó. Mara xem đó là một “bổn phận,” một giá trị đạo đức mà cô không thể từ chối. Mara cắt đứt quan hệ tình cảm với Stefano, và tiếp tục chờ đợi mười bốn năm, thăm nuôi Bube và chờ ngày anh mãn hạn tù để cùng nhau xây dựng tương lai. Thoạt đầu tác giả đã lồng nhân vật Bube trong nhiều bối cảnh quan trọng, nhưng càng đọc, qua các biến cố dẫn dắt mạch truyện, người ta sẽ nhận thấy tác giả đã dần đưa Mara lên thành nhân vật chính và Bube chỉ còn là một điều kiện tác động lên các quyết định của Mara. Dù có bản tính nông nổi, thiếu suy nghĩ thấu đáo, dễ bị khích động đi dến các hành động thô bạo vũ lực, nhưng Bube cũng thể hiện một nhân cách đáng quý, sống hết mình trong tình yêu, và luôn thể hiện thái độ nâng niu, tôn trọng, giữ gìn cho người yêu. Trong tiểu thuyết còn có một đoạn tả rất rõ về tình cảm nhân bản của Bube với cha xứ Ciolfi - vốn là một tay phát Người yêu của Bube xít, nhưng chiếm được những tình cảm ấu thơ của Bube. Bube đã cố tình làm lơ như không thấy cha xứ Ciolfi, và cũng chính Bube sau đó đã phải đứng ra tìm cách bảo vệ cha xứ khi ông này bị người dân trong làng phát hiện và đòi hành hung. Tuy nhiên, chính Bube cuối cùng lại phải hành hung cha xứ trước áp lực của người dân căm thù phát xít. Điều này cho thấy Bube cũng chưa thoát khỏi tâm thức của thời chiến và đã sử dụng vũ lực để giải quyết các xung đột. Những suy nghĩ của Bube phần nào phản ánh sự giận dữ, thất vọng của những người cộng sản Ý khi cảm thấy bị phản bội: họ đã chiến đấu, hy sinh xương máu nhưng cuối cùng cũng không làm được cách mạng như họ mong muốn, và chính quyền lại thuộc về tay những lực lượng bảo thủ hữu khuynh, thậm chí thân phát xít hay cựu phát xít được hưởng ân xá. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh nước Ý sau Thế chiến thứ hai, mô tả những người cộng sản Ý, theo cái nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Để rộng đường tham khảo của bạn đọc, Nhà xuất bản Trẻ xin giới thiệu đến các bạn tiểu thuyết Người yêu của Bube. Mời các bạn đón đọc Người Yêu Của BuBe của tác giả Carlo Cassola.
Chuyện Tình - Erich Segal
Chuyện tình là câu chuyện tình yêu trong sáng, chân thật nhưng không kém phần lãng mạn của Jenny -  cô sinh viên trường nhạc, nhà nghèo nhưng luôn lạc quan và yêu đời, với Olvier - chàng công tử trường luật Havard, con một triệu phú danh tiếng và là nhà tài trợ chính cho ngôi trường này. Tình yêu đã giúp họ đi qua sự phản đối từ phía người cha Oliver - vì rằng gia đình Jenny nghèo, để tiến tới hôn nhân khi họ còn đang là sinh viên. Khởi đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng, cả hai cùng hạ quyết tâm phải cùng nhau làm việc cật lực và chi tiêu “chắt bóp” để hoàn tất việc học. Nhưng không vì thế mà tình yêu của họ vơi đi sự thi vị và lãng mạn.  Những khó khăn tưởng chừng như đang khép lại khi cả hai tốt nghiệp đại học và mỗi người đã tìm cho mình một công việc riêng; khi cuộc sống của họ dần ổn định, họ tính đến chuyện có con thì bất ngờ phát hiện Jenny mắc bệnh hiểm nghèo. Lần đầu tiên trong đời chạm phải nỗi đau lớn, Oliver tưởng chừng như đang rơi xuống vực sâu thăm thẳm… Thế nhưng tình yêu đã giúp Oliver cất giấu nỗi đau để tiếp tục đến bên Jenny bằng chính Oliver của mọi ngày để Jenny không dự cảm được nỗi đau sắp đến với cô. Chuyện tình đẹp của họ được kết thúc bằng sự ra đi nhẹ nhàng của Jenny, và câu nói của cô trong cuốn tiểu thuyết đã trở thành tuyên ngôn kinh điển của tình yêu: "Yêu có nghĩa là không bao giờ nói lời hối tiếc". *** Ông Cavilleri đang ở ngoài hành lang hút thuốc không biết đến điếu thứ bao nhiêu khi tôi đến cạnh ông. Tôi nhẹ nhàng gọi: Bố! Ông ngẩng đầu lên và tôi chắc ông đã hiểu. Rõ ràng ông cần được an ủi. Tôi bước lại đặt tay lên vai ông. Tôi sợ Ông òa khóc còn tôi gần như chắc chắn là không khóc. Tôi muốn nói là tôi không khóc được nữa, tôi đã vượt qua chặng đó rồi. Ông lại úp bàn tay lên tay tôi, lẩm bẩm: – Giá bố. Giá bố… Ông nín bặt và tôi chờ đợi. Còn có gì vội nữa đâu. Giá bố đừng hứa với Jenny sẽ tỏ ra cứng cỏi để khuây khỏa con. Rồi để giữ đúng lời hứa, ông âu yếm vỗ nhẹ lên tay tôi. Nhưng tôi muốn được một mình, muốn thở khí trời, muốn đi bộ một lúc, có lẽ thế. *** Erich Segal là một nhà viết tiểu thuyết, kịch bản phim người Mỹ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Erich Segal là tác phẩm Chuyện Tình (Love Story.).   Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình của tác giả Erich Segal.
Chân Ngắn, Sao Phải Xoắn - Huyền Lê
“ Chân ngắn, sao phải xoắn!” là câu chuyện hài hước, dí dỏm về một cô nàng chân ngắn điển hình.  Đỗ Tiến Phương  - nhân vật chính của truyện là cô gái thông minh, cá tính và đặc biệt, cô có sự tự tin vô đối về bản thân. Nhan sắc của Tiến Phương  thuộc dạng “ khó cải tạo”  với đôi mắt híp như sợi chỉ cùng cặp chân đo đến ngang eo cũng chỉ vẻn vẹn được tám mươi chín phân.  Không những thế, Tiến Phương còn có một tuổi thơ không mấy êm đềm vì bố cô bỏ đi khi cô còn trong bụng mẹ. Mặc dù vậy, cô vẫn luôn tự tin thậm chí là tự hào về nhan sắc cũng như hoàn cảnh xuất thân của mình, cô chưa từng nghĩ rằng mình là người thiếu may mắn. Đỗ Tiến Phương với tính cách “tưng tửng” đã gây ra đủ các chuyện dở khóc, dở cười trong cuộc sống của chính mình và cả những người xung quanh cô. Bắt đầu là cuộc đụng độ giữa cô và “oan gia” Hoành Tá Tràng  khi cô “trót” vượt đèn đỏ trên phố. Sau đó, liên tục là những rắc rối khác có “dính líu” đến Hoành Tá Tràng khiến cô và anh chàng cảnh sát giao thông trẻ trung này trở thành “ kẻ thù không đội trời chung” của nhau. Cũng như rất nhiều cô gái khác, Tiến Phương có một thói xấu mà dù chết vạn lần vẫn không thể bỏ được, đó là mê trai đẹp. Dù bất cứ nơi đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hễ cứ thấy trai đẹp là cô ngay lập tức “đứng hình” … Vì thế mà khi vừa bước chân vào lớp cao học, Tiến Phương đã mê tít Lãng Tử - là chàng trai đẹp trai nhất lớp mình. Nhưng, mối tình đó chỉ là tình yêu âm thầm, mặc dù đã rất nhiều lần cô cố gắng tiếp cận Lãng Tử nhưng đều vô ích. Tiến Phương vẫn kiên trì “bám trụ” và yêu thầm Lãng Tử mặc cho anh chàng đã có người yêu. Cho đến khi, Lãng Tử cưới vợ, Tiến Phương mới nghĩ rằng mình thực sự hết cơ hội. Cô thất tình, nhưng không buồn bã, chán nản như bao cô gái khác, cái kiểu thất tình của Tiến Phương khá đặc biệt, cô mở chiến dịch “Lạnh lùng và kiêu hãnh” để chứng minh cho Lãng Tử thấy anh ta sai lầm vì đã không chọn cô. Và cô đã thành công ngoài mong đợi. Sau rất nhiều nỗ lực, Tiến Phương và Lãng Tử cũng đã đến được với nhau. Nhưng tình yêu của họ không được bao lâu thì tan vỡ. Tiến Phương lại trở về với con người thật của mình, vui vẻ, ương ngạnh, tưng tửng nhưng đã có nhiều suy tư hơn. Bên cạnh cô, “oan gia” Hoành Tá Tràng vẫn không ngừng gây rắc rối và anh chàng xấu trai “ Hăng-rô” Nguyễn  thì không ngừng tán tỉnh làm cô nhiều phen đau đầu nhức óc. Tiến Phương cuối cùng cũng tìm thấy tình yêu của mình bên một người xứng đáng. Không những thế, cô đã khiến cho Cục Kẹo – một cô gái yếu đuối, người luôn theo đuổi Hoành Tá Tràng có cái nhìn khác đi về cuộc sống, cô đã bồi đắp cho Cục Kẹo lòng yêu cuộc sống, sức mạnh để vượt qua nỗi buồn để tiến lên. Bên cạnh đó, việc bước vào một công ty truyền thông nhờ vào mối quan hệ của mẹ cô đã giúp cô khám phá ra bí mật động trời mà bao năm qua mẹ cô che giấu. Cô tìm thấy bố sau rất nhiều năm đinh ninh rằng ông đã bỏ mẹ con cô ra nước ngoài với nhân tình từ khi cô còn tượng hình trong bụng mẹ. *** Từ khi chính thức nhận bố, tôi vui đến nỗi mọi thứ xung quanh tôi bỗng nhiên dễ thương hết sức. Tôi ca hát, nhảy múa rồi “hẹn hò” đi chơi với bố suốt ngày… Mẹ tôi chắc cũng ghen tỵ với tôi nên mới cảnh báo tôi đừng vui quá hóa rồ con nhá. Rồ là rồ thế nào được, tôi luôn là người biết mình có gì và đang đứng ở vị trí nào chứ, mặc dù, thi thoảng tôi vẫn hơi… tự đề cao mình quá!!! Nhưng bố tôi nói, đó là nét dễ thương rất riêng của tôi, đấy, chỉ có bố mới nhận ra vè đẹp tiềm ẩn của tôi mà thôi. Bố mẹ tôi tái hợp, mà thực ra, nói là tái hợp cũng không đúng. Họ bắt đầu tình yêu thì đúng hơn, non nửa cuộc đời, họ mới chính thức thừa nhận tình cảm dành cho nhau, dẫu có hơi muộn màng nhưng đó mới là thứ tình cảm đáng trân trọng. Vì thế, đừng bao giờ nhìn tuổi tác mà đánh giá tình yêu, bởi tình yêu không bao giờ có tuổi. Mẹ chăm sóc bố rất chu đáo, tôi thấy mẹ cười nhiều hơn, dáng đi nhẹ nhõm và mẹ dường như trẻ lại. Bố tôi cũng vậy, ông nói suốt ngày và chăm chỉ, tỉ mẩn sửa soạn những thứ bề bộn trong nhà, những thứ mà trước đây, vì nhà không có đàn ông nên mẹ và tôi bỏ mặc hoặc lắp ghép qua loa. Tôi ngồi giúp bố đóng lại cái giá sách, mẹ lăng xăng bên cạnh để chỉ đạo, bất chợt tôi nói. “Sao bố mẹ không cưới nhau nhỉ?” Bố nhìn sang mẹ mỉm cười, mẹ tôi lúng túng. “Già thế này rồi, cưới xin gì nữa, ở vậy cũng được rồi.” “Làm sao có chuyện đó được, con không thể ‘gả’ mẹ cho bố theo kiểu không kèn không trống như thế này được.” Bố tôi cười ngất, loạng choạng tụt xuống, mẹ tôi lại lườm tôi như thường lệ… Mẹ tôi phẩy tay. “Bố con anh thôi đi, có phải trẻ con đâu.” “Chính vì không phải trẻ con mới phải cưới, chứ chẳng lẽ em để mọi người nghĩ anh ở nhờ nhà em mãi à?” Tôi vỗ tay đôm đốp, mẹ tôi xoa xoa lá lắc đầu vẻ bất lực trước hai bố con. Thế là cuộc chạy đua bắt đầu, tôi hăng hái chọn váy cưới cho mẹ, may vest cho bố, xem tổ chức đám cưới ở đâu… Tôi chạy hồng hộc lo chu tất mọi thứ, bố mẹ có vẻ hãnh diện vì tôi, nhưng mẹ cứ liên mồm nhắc nhở: “Làm nho nhỏ thôi, đừng rùm beng quá”. Sao lại không rùm beng nhỉ? Cưới bố mẹ tôi cơ mà! Tôi còn muốn cho cả thế giới này biết là bố mẹ tôi cưới nhau cơ đấy, thế mà mẹ nói không rùm beng thì còn gì là hay ho gì nữa? Cuối cùng, dưới sự trợ giúp của tôi, bố mẹ cũng đã tổ chức thành công một đám cưới ấm cúng và cảm động. Tôi hăng hái lên giật mic để kể kể về chuyện tình cảm của bố mẹ mình, đương nhiên là tôi đã thêm mắm, dặm muối cho nó thêm phần ly kỳ và sinh động hơn. Ai cũng nước mắt ngắn dài, mẹ tôi thì khỏi nói, bà đã khóc ngay khi vừa mặc vào người chiếc váy cưới. Bố Tam Mao của tôi, thi thoảng lại lén lau những giọt nước mắt khi nghe tôi nói, ông nhìn tôi đầy tự hào. Tôi cũng thế, vừa kể chuyện của bố mẹ, nhưng mắt tôi lại cay sè vì hạnh phúc. ... Mời các bạn đón đọc Chân Ngắn, Sao Phải Xoắn của tác giả Huyền Lê.
Các Người Khắc Biết Tay Tôi! - Katarzyna Grochola
Judyta, người đàn bà từng tuyên bố “Xin cạch đàn ông!” bây giờ đã đính hôn, và chỉ một bước nữa thôi là giấc mơ về “chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng đến tận nhà” sẽ thành hiện thực. Nhưng trở ngại bỗng xuất hiện: Adam Xanh Lơ – vị hôn phu của cô – chuẩn bị đi Mỹ, đất nước của vô vàn cám dỗ, trong sáu tháng. Làm đám cưới ngay bây giờ hay đợi đến khi anh về là một bài toán khó giải cho cô. Còn Tosia – cô con gái yêu quý – chẳng mấy chốc là đến kỳ thi tốt nghiệp trung học. Cô bé ngây thơ ngày nào giờ sắp tròn mười tám, biết yêu say đắm, dám nghĩ dám liều, và là nguyên do của vô số hiểu lầm, rắc rối cho mẹ cô. Vẫn giọng văn khôi hài, dí dỏm, nhiều tự trào như trong Xin cạch đàn ông!, Katarzyna Grochola viết tiếp về những thách thức của số phận vẫn đang chờ đón Judyta, người đàn bà đại diện cho một tầng lớp phụ nữ vừa hiện đại vừa mơ mộng trong các thành phố Ba Lan. *** Với “Các người khắc biết tay tôi”, độc giả sẽ được gặp lại “gái già” Judyta, người đàn bà với phương châm “phải hôn nhiều ếch thì mới gặp được hoàng tử” trong một cuộc sống hoàn toàn mới. Không còn “Xin cạch đàn ông!” nữa, bởi Judyta đã tìm thấy chàng bạch mã hoàng tử của cuộc đời mình. Nhưng sau khi tìm được hoàng tử thì sao, có lẽ cuộc sống vẫn là vô số điều bất ngờ xen lẫn rắc rối luôn chờ đợi bạn ở phía trước. Không ai đoán được ngày mai sẽ ra sao… Có được tình yêu của chàng Adam Xanh Lơ, Judyta ngỡ mình là người đàn bà hạnh phúc nhất thế giới. Nhưng một biến cố nho nhỏ đã xảy ra, khi Adam có quyết định sang Mỹ công tác trong vòng 6 tháng. 6 tháng! Nửa năm! Một phần tám mươi cuộc đời (còn lại). Nhưng 6 tháng đâu phải là muôn đời, Judyta đã tự an ủi mình như thế để có thêm dũng khí chờ đợi. Thế nhưng chẳng ai ngờ được khoảng thời gian 6 tháng đó cũng đủ cho muôn vàn rắc rối ập đến. Người phụ nữ từng một thời tuyên bố “Xin cạch đàn ông!” lại tiếp tục lao vào một guồng quay mới tất bật của cuộc sống. Với một cô con gái tuổi ấm ương đang chuẩn bị bước vào kỳ thi tốt nghiệp trung học. Với một con chó già lười biếng thích ăn tranh thức ăn của mèo. Với hai con mèo ham chơi không chịu về nhà. Với anh chàng “Cựu chồng” đang cãi nhau với vợ mới. Với thằng cháu trai nghịch ngợm chẳng bao giờ nhớ được khăn tắm của mình màu gì. Với một gã sếp trái tính trái nết và những cô bạn đồng nghiệp hay ganh tỵ…   Judyta, một nữ nhà báo đảm nhiệm công việc giải đáp những thắc mắc và gỡ rối cho bạn đọc giờ lại đang bơi trong hàng tá những rắc rối của chính mình. Không còn cách nào khác, phải tự bơi vào bờ. Không còn cách nào khác, phải tự trả lời cho những câu hỏi của mình. Nếu như “Xin cạch đàn ông” cho chúng ta thấy một Judyta mạnh mẽ, kiên cường, một phụ nữ sẵn sàng tuyên bố mình có thể sống mà không cần đàn ông thì “Các nguời khắc biết tay tôi” lại cho thấy một người đàn bà đang yêu đằm thắm. Vẫn tự nhủ là sẽ mạnh mẽ đấy, nhưng nội tâm thì lại cực kỳ mong manh dễ vỡ. Có đôi lúc cố tỏ ra bất cần đấy, nhưng trái tim thì lại đang tan nát vì thương nhớ người đàn ông của cuộc đời mình. So với “Xin cạch đàn ông!”, “Các người khắc biết tay tôi” thể hiện một độ “đằm” hơn, sâu lắng hơn, rung động hơn. Đó cũng là một sự chuyển đổi logic với tâm lý người phụ nữ khi yêu. Và nếu như “Xin cạch đàn ông” tập trung miêu tả thế giới của người phụ nữ trong cuộc khủng hoảng “hậu hôn nhân” thì “Các người khắc biết tay tôi” lại xoáy sâu vào công cuộc “tái lập” lại hạnh phúc gia đình sau khủng hoảng. Những rắc rối thường gặp giữa “người mới” và “người cũ”, những bất đồng trong quan hệ “con anh con tôi”… lần lượt được khai thác. Đặc biệt, “Các người khắc biết tay tôi” một lần nữa đề cập đến vấn đề giáo dục con cái. Ở“Xin cạch đàn ông”, đó là việc nuôi dạy một đứa trẻ còn đang ở tuổi niên thiếu. Còn trong “Các người khắc biết tay tôi”, đó là việc giáo dục một đứa trẻ đang ngập ngừng trước ngưỡng cửa trưởng thành. Ngoài những bỡ ngỡ về sự biến đổi giới tính còn là hàng tá những rắc rối liên quan đến tâm sinh lý lứa tuổi. Đặc biệt, khi đứa trẻ ấy đã bắt đầu ý thức được sự tồn tại của cái Tôi cá thể, khi nó biết tự cho mình cái quyền quyết định và can thiệp vào các mối quan hệ gia đình. “Các người khắc biết tay tôi” vẫn viết về những điều bình dị như thế trong cuộc sống. Nhưng người đọc chắc chắn sẽ không thể rời mắt khỏi cuốn sách nếu chưa đọc đến trang cuối cùng. Bởi như có một năng lực đặc biệt, Katarzyna Grochola biết cách thổi vào trang viết của mình những nét hấp dẫn, dí dỏm đầy tươi mới. Người phụ nữ này rất biết cách tự đi tìm những niềm vui trong cuộc sống. Chị không ngần ngại cười cợt ngay cả những khó khăn rắc rối trong cuộc đời mình. Có lẽ bởi cũng giống như Judyta, Katarzyna Grochola luôn có một niềm tin vững chắc rằng: “Tất cả rồi lại sẽ ổn thôi!”. Phải chăng đó cũng là suy nghĩ mà nhà văn muốn hướng các độc giả của mình đi tới. Những người phụ nữ chưa yêu, những người phụ nữ đang yêu, những người đàn bà có chồng, những người đàn bà ly hôn, những người đàn bà đã tái hôn, hãy cứ tin rằng dù cuộc đời này giông bão thế nào thì cuối cùng “Tất cả rồi sẽ lại ổn thôi!”. Mời các bạn đón đọc Các Người Khắc Biết Tay Tôi! của tác giả Katarzyna Grochola