Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Từ Trên Trời - James H. Chase

Truyện hình sự với khá nhiều án mạng, hung thủ là một ông trùm xã hội đen. Nhân vật chính diện là cảnh sát Conrad, lần này không phải là một anh hùng hào hoa đẹp trai với các cô nàng vây quanh, cũng không phải là một tay thám tử cừ khôi bách trận bách thắng. Nữ chính là nạn nhân, được nam chính bảo vệ nhưng không yêu nam chính. Vì không phải nam chính bách trận bách thắng nên kết thúc là không bảo vệ được nữ chính. Nàng chết. Hung thủ không bị bắt. Và kẻ chiến thắng là một tên sát thủ cừ khôi. *** Tiếng chuông điện thoại réo gắt vào lúc Janey Conrad đang bước vội xuống cầu thang. Cô mặc chiếc áo dạ hội vừa may màu xanh da trời, kiểu mới nhất. Tiếng chuông khiến cô dừng phắt lại, nét mặt đang hân hoan vụt trở nên cau có, thay đổi thật đột ngột như khi ta bấm vào một nút điện. Cô cất giọng lạnh lùng và bình tĩnh thường có vào lúc nổi giận. — Paul, chớ có trả lời! Chồng cô từ phòng khách bước ra. Anh khoảng ba mươi lăm tuổi, cao lớn và rắn chắc, mặc bộ smoking, tay cầm chiếc mũ dạ mềm. Lúc Janey mới quen, cô ngạc nhiên thấy anh giống kép James Stewart quá chừng và chính vì thế mà cô đồng ý lấy anh. — Nhưng anh phải trả lời, biết đâu họ cần đến anh, - anh nói với giọng dịu dàng kéo dài. Paul bước về phía điện thoại và cầm ống lên. Anh mỉm cười với vợ và giơ tay ra dấu im lặng. — Alô! — Paul đấy à? Bardin đây! Câu nói của viên thanh tra vang lên trong tai Paul và vọng ra ngoài khoảng im vắng của phòng chờ. Vừa nghe được giọng nói đó, Janey nắm chặt tay lại. Bardin tiếp: — Anh phải nhập cuộc rồi. Một cái lò sát sinh nơi biệt thự “Ngõ Cụt” của June Arnot. Xác ngập đến cổ, trong đó có cả nàng tiên kiều diễm June. Trời ơi! Một vụ sôi động! Bao lâu thì anh đến được? Conrad nhăn mặt và liếc nhìn Janey. Anh thấy bước chân cô cứng nhắc tiến về phía phòng khách. Anh nói: — Được rồi, tôi đến ngay. — Tốt. Tôi sẽ không để ai đụng chạm gì trước khi anh đến. Tôi cần anh trước khi bọn nhà báo nhao nhao đến quấy rầy. — Tôi đi ngay, - Conrad nhắc lại rồi cúp máy. — Cứt! - Janey nói nhỏ. Cô đứng trước lò sưởi quay lưng về phía anh. — Xin lỗi Janey, anh phải đi ngay. — Cứt! Cứt! - Janey nói mà không lên giọng. - Lúc nào cũng chỉ có chừng ấy chuyện thôi, với mấy thằng khốn thám tử của anh. — Nào! Janey. Thật đáng tiếc nhưng biết làm sao. Anh hứa là tối mai sẽ đưa em đi. Janey nghiêng mình về phía trước và vung tay gạt văng mớ đồ đạc, ảnh lồng khung, cả cái đồng hồ trên mặt lò sưởi. Conrad nhào vào phòng. — Janey! Đủ rồi! — Anh đi đi! - Janey vẫn một giọng trầm lặng. (Cô nhìn hình Conrad trong gương, mắt sáng lên vẻ thù ghét). - Anh cứ chơi cái trò bắt cướp đi. Không cần phải lo đến tôi nhưng đừng hy vọng thấy tôi lúc trở về. Từ nay về sau, tôi sẽ đi chơi một mình. — Này Janey, June Arnot vừa bị ám sát đấy. Anh phải đến đó ngay. Em nghe đấy, mai anh sẽ dẫn em đi đến nhà hàng Quốc Tế. Chịu không? — Chừng nào mà còn cái điện thoại chết tiệt trong phòng thì chúng ta không thể nào còn đi chung với nhau được nữa, - Janey nói giọng chua chát. - Paul, tôi cần tiền. Anh nhìn cô: — Nhưng mà, Janey... — Tôi muốn lấy tiền ngay tức khắc! Nếu anh không đưa thì tôi mang đồ đi cầm và chắc chắn không phải là thứ của tôi đâu. Conrad nhún vai. Anh lấy tờ 10 đôla đưa ra. — Được rồi, Janey. Nếu em quyết định như thế thì... Sao em không gọi điện cho Beth? Đi chơi một mình thật là ngốc. Janey cất tiền, ngước mắt nhìn anh rồi quay lưng đi. Conrad hoảng kinh khi nhận ra ánh mắt của vợ thật dửng dưng. — Anh chớ lo cho tôi. Cứ việc lo tới cái vụ giết chóc quái quỉ này đi. Một mình tôi cũng đủ rồi. Conrad định nói nhưng kịp ngừng lại. Một khi cô tỏ thái độ như thế thì khó mà nói chuyện phải trái được. Anh bình tĩnh hỏi: — Em đi đâu, tiện đường xe anh... — Ồ! Đi cho khuất mắt, - Janey chận lại và bước ra phía cửa sổ. Conrad mím chặt môi, bước ra ngoài phòng chờ, đẩy cửa lớn và đi nhanh về phía xe. Trong lúc lướt mình ngồi vào sau tay lái, anh cảm thấy một mối lo âu đến nghẹn lời. Anh không chịu chấp nhận dẫu biết rằng giữa anh và Janey đang nảy sinh rạn nứt. Hai người lấy nhau bao lâu rồi? Anh nhíu mày và ấn vào nút phát động xe. Gần ba năm thôi. Năm thứ nhất thật êm đẹp. Nhưng vào lúc đó anh chưa phải là điều tra viên chính thức của phòng Biện lý. Anh làm việc theo giờ giấc và tối nào cũng có thể đi chơi với Janey được. Khi anh được lên chức, cô đã rất hân hoan. Chỉ một sớm một chiều, lương anh tăng gấp đôi và hai vợ chồng rời căn hộ ba gian ở đường Wentworth để dọn đến căn nhà xinh xắn bungalow ở đất Hayland trong một khu sang trọng. Nhưng rồi Janey không còn hài lòng khi nhận thấy anh có thể bị gọi đi bất cứ sớm tối. Cô nói: — Anh là điều tra viên chính thức mà cứ hùng hục làm như một tên cớm hạng bét. — Nhưng anh là thám tử, thám tử đặc biệt cho biện lý cục khi xảy ra vụ việc quan trọng, lẽ tất nhiên anh phải có mặt, - Conrad kiên nhẫn giải thích với vợ như thế. Lúc đầu thì Paul không cho những lời cằn nhằn ấy là quan trọng vì mấy cú điện thoại bất ngờ làm hỏng cuộc vui buổi tối, nếu cô giận thì cũng là tự nhiên thôi. Tuy thông cảm nhưng Conrad vẫn mong cô vợ biết điều hơn. Nhưng Janey không chịu. Các vụ cằn nhằn ấy chuyển dần qua cãi vã lớn tiếng làm anh đâm ngán. Nhưng đây là lần đầu tiên Janey đòi anh đưa tiền để đi chơi tối một mình. Hơn bao giờ hết, Conrad lo ngại về tình hình mới xuất hiện này, Janey nom ngon mắt quá, đi chơi một mình không được. Conrad biết tính vợ mình dễ nhẹ dạ sinh chuyện. Có nhiều lúc vô ý, cô thốt những lời lẽ khiến anh biết trước kia cô đã từng qua những thời kỳ sống buông thả. Anh đã quyết không coi quá khứ của cô là quan trọng nhưng bây giờ khi nhớ lại những lời vợ kể vanh vách những cuộc vui, tên một vài người bạn cũ mà cô vung ra trong những lúc tức giận, anh lại thấy hơi khó chịu và cứ tự hỏi không biết cô có lại tìm thú đi hoang nữa không. Janey chỉ mới 24 tuổi, luôn luôn đòi hỏi, mà anh thì cái việc chăn gối chỉ ở mức trung bình. Với đôi mắt lá răm, mái tóc vàng óng, làn da nõn nà, chiếc mũi thon dài, Janey có thể quyến rũ bất cứ gã đàn ông nào. — Thật cứt! - Conrad thở dài lặp lại lời của vợ mà không hay biết. Và anh mở máy. *** Ba năm nay, June Arnot là một ngôi sao màn bạc lừng danh và tiếng đồn cô ta là người giàu nhất Hollywood. Cô cho xây một tòa nhà lộng lẫy trên ngọn đồi, cách thành phố Pacific vài cây số và cách Hollywood khoảng mười lăm cây số. Đây là một dinh thự sang trọng, kiêu sa mà June Arnot với tính hài hước sẵn có, đặt tên nó là “Ngõ Cụt”. Conrad dừng xe trước ngôi nhà nhỏ của người gác cổng có dây nho chằng chịt. Khách đến thăm phải ghi tên ở đây trước khi bước trên một lối đi dài cả cây số mới tới biệt thự. Bóng hình to bè của thanh tra Sam Bardin thuộc đội hình sự vụt hiện lên giữa bóng tối. Thấy Conrad, ông nói: — À, ông tá! Chẳng cần phải nôn nóng như thế. Cả đời anh chỉ có mỗi việc này mà thôi. Conrad mỉm cười: — Tôi đang định đi chơi với bà xã. Rồi đây cả tuần nhà tôi biến thành địa ngục cho mà xem. McCann có ở đây không? — Rủi quá, anh ta đi San Francisco rồi, mai mới về. Chuyện lộn xộn lắm, may mà có anh, Paul ạ. Chúng tôi cần một tay thiện nghệ mới mong giải quyết được vụ này. — Ta bắt đầu ngay đi. Anh kể xem anh biết những gì. Rồi sau đó, ta đi liếc sơ qua một chút. Bardin lấy khăn tay thấm mồ hôi trên khuôn mặt to tướng đỏ bầm và hất chiếc mũ ra sau. Ông ta to con, nặng nề, lớn hơn Conrad 11 tuổi nghĩa là khoảng 45. — Lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi nhận được một cú điện thoại của Harrison Hedor, ông bạn của cô Arnot. Ông có hẹn làm việc với cô ta tối nay. Khi đến nơi, ông thấy cánh cổng sắt mở ra. Lạ đấy vì thường thường là cửa khóa kỹ. Ông bước vào nhà người gác cửa, thấy hắn lạnh tanh với một viên đạn bắn vào đầu. Ông bốc điện thoại ở đấy gọi vào nhà nhưng không thấy ai trả lời. Tôi đoán là ông ta đã hoảng lên. Nhưng ông nói với chúng tôi là không dám vào sâu trong nhà và vội gọi chúng tôi. — Bây giờ ông ta ở đâu? — Đang ngồi trong xe tìm cách lại hồn bằng whisky, - Bardin toét miệng cười. - Tôi không có thì giờ hỏi kỹ ông ta nên bảo ngồi yên đó. Tôi đi xem xét. Năm người giúp việc đều bị hạ sát bằng một viên đạn. Tôi tưởng cô Arnot ở đâu đó vì có hẹn nhưng cô ta không có mặt trong nhà. - Ông rút bao thuốc mời Conrad và lấy cho mình một điếu - Tôi thấy cô nơi hồ tắm. (Ông nhăn mặt) - Có kẻ nào đấy tò mò mổ bụng cô ta coi chơi và cắt béng cái đầu không biết dùng để làm gì. Conrad gừ gừ: — Đó là hành động của một kẻ mất trí. Bây giờ thì sao? — Nhân viên đang làm việc trong nhà và nơi hồ tắm. Nếu có gì tìm được thì họ sẽ tìm ra. Anh có muốn đi một vòng ngó qua không? — Có chứ! Anh chàng y sĩ có thể cho ta biết giờ chính xác không? — Lão đang lo vụ đó. Tôi đã dặn lão chớ xê dịch cái xác chết trước khi anh đến. Chắc lão sẽ cho ta biết ngay. Bây giờ ta vào nhà người gác. Conrad theo ông ta vào một căn nhà nhỏ có cái bàn, cái ghế, cái divan đệm và bàn điện thoại. Trên bàn có quyển sổ ghi chép người đến thăm đang được mở ra. Người gác mặc đồng phục xanh ôliu, giày bốt đánh vécni, nằm gập mình trên bàn, đầu loang trong một vũng máu đỏ bầm. Hắn bị bắn đúng giữa mặt. Conrad nhìn vào quyển sổ. Bardin nhạo: — Không chắc có ghi tên sát nhân trong đó. Với lại người gác biết mặt hắn nên mới mở cổng. Conrad nhìn trang giấy còn trắng một nửa: «15 giờ. Ông Jack Belling, đường Lennox số 3 Có hẹn. Cô Rita Strange, 14 Crown Court. Có hẹn. 19 giờ. Cô Frances Coleman. 145 đường Glendale.…» — Anh nghĩ sao? - Conrad hỏi. - Cô gái Coleman này có mặt ở đây sát với giờ xảy ra vụ tàn sát. Bardin nhún vai: — Chẳng biết. Lúc nào có thì giờ chúng ta sẽ dò hỏi. Nếu cô ta dính dấp gì đến vụ này thì đã xé ngay tờ giấy cho mất tang tích rồi. — Đúng vậy, trừ phi cô ta quên. Bardin phác một cử chỉ sốt ruột. — Được rồi, ta đi. Anh còn cả đống việc phải làm. Lên xe thôi. Đến khúc quanh thứ hai thì chậm lại. Người làm vườn bị giết ở đó. Conrad lái xe trên con đường viền những cây cọ khổng lồ và những cây nhỏ nở hoa. Khoảng 300 mét, Bardin báo trước: — Ngay chỗ quanh. Họ dừng bên một chiếc xe đậu sát đường. Bác sĩ Holmès và hai người nội trú mặc áo blu trắng cùng một cặp cảnh sát viên, vẻ mặt chán nản đang tụ tập trước xe, lưng quay phía đèn pha. Conrad và Bardin tấp vào nhóm, vây quanh một ông già Tàu mặt mày nhăn nheo nằm ngửa, các ngón tay màu vàng trông như các vuốt, co quắp người vì hấp hối. Phía trước chiếc áo blu xanh nhuộm một màu đỏ. Bác sĩ lên tiếng: — Chào Conrad. Anh đến xem trò tàn sát đấy à? — Chỉ thăm sơ qua thôi, - Conrad nói. - Lão chết bao lâu rồi? — Khoảng một tiếng rưỡi, không hơn. — Nghĩa là sau 7 giờ? — Gần gần như thế. — Cùng một vũ khí như với người gác? — Có thể. Tất cả đều bị giết bởi một khẩu 45. - Ông bác sĩ nhìn Bardin - Tôi thấy như là một công trình của một tay nhà nghề, ông thanh tra ạ. Tay đó thạo việc lắm. Bắn một phát là đủ rồi. Bardin thốt ra tiếng càu nhàu: — Như thế thì chẳng biết gì nhiều. Khẩu 45 mà bắn thì không ai thoát dù người bắn là dân nhà nghề hay tay mơ. — Ta lên nhà đi, - Coniad nói. Chiếc xe chở họ tới biệt thự sau ba phút. Đèn đã bật sáng khắp các phòng. Hai người cảnh sát gác cửa vào. Conrad và Bardin bước lên các bậc thềm vào khách sảnh nhỏ rồi bước xuống vào giữa nhà đến một sân trong lát gạch hoa. Các gian phòng quây ba mặt sân. Thanh tra O'Brien người cao nhưng gầy, mắt sắc, mặt đầy tàn nhang, từ phòng khách bước ra. Ông ta gật nhẹ đầu với Conrad, Bardin hỏi: — Anh tìm được gì không? — Chỉ có đầu đạn thôi, chẳng có dấu tay nào. Hình như kẻ sát nhân xộc vào giết hết rồi ra ngay không chạm vào vật gì cả. Conrad đến chân cầu thang ngước mắt nhìn lên. Ở các bậc cấp trên cao là xác một cô xẩm Trung Hoa. Cô mặc một áo ngắn trong nhà màu vàng, quần lụa có ren, màu xanh sẫm. Một vệt đỏ gớm ghiếc giữa hai bả vai. Bardin nói: — Hình như cô ta đang chạy trốn thì bị phơ. Anh muốn lại gần xem không? Conrad lắc đầu. Bardin nói tiếp: — Tang vật số 3 ở phòng khách. Ông dẫn Conrad vào một gian phòng bề thế, có bàn ghế, trường kỷ bọc da, đủ sức chứa từ ba mươi đến bốn mươi người. Gần cánh cửa ra vườn, người quản gia của June Arnot ngồi dưới đất, gập mình, lưng dựa vào thảm lót tường. Ông ta cũng bị một phát vào đầu. Bardin hỏi: — Anh muốn xem ở nhà bếp không? Còn hai người nữa ở đấy. Một đầu bếp Trung Hoa và một Philippines. Họ định chạy ra cửa nhưng không kịp. — Thôi đủ rồi, - Conrad nói. - Nếu có gì phải tìm thì nhân viên của anh sẽ thấy. — Ý kiến thâm thúy đấy. Ok! Ta xuống hồ tắm. Ông bước ra ngoài hành lang rộng. Trăng tròn đã lên tuôn làn sáng lạnh gắt xuống biển. Khu vườn thơm ngát hương hoa, một đài phun nước bóng loáng đằng xa tạo nên khung cảnh thần tiên. — Cô ta ưa thích ánh sáng và màu sắc phải không, - Bardin vừa nói vừa tiến về phía hồ tắm. - Nhưng cũng chẳng tới đâu. Kết quả cuộc đời phải nói là thê thảm: Đầu bị cắt, bụng bị phanh. *** Phía cầu nhảy cao 12 mét có mặt bác sĩ Holmès, hai người nội trú, một thợ ảnh và bốn cảnh sát viên. Họ đang nhìn về phía giữa hồ. Nước ở đó nhuộm màu đỏ tím, còn lại là một màu xanh tuyền. Khi Conrad và Bardin bước tới chỗ lát gạch xanh vây quanh hồ tắm, Bardin nói: — Tôi nhìn thấy một lần rồi và không muốn thấy lần thứ hai nữa. Họ họp với đám người kia dưới cầu nhảy. Bardin vung tay tiếp tục chỉ: — Trông kìa! Paul nhìn tấm thân trần truồng, bị cắt đầu, nổi bập bềnh. Bụng anh như thắt lại trước cảnh man rợ ấy. Anh quay mặt đi, hỏi: — Cái đầu ở đâu? — Tôi để nguyên chỗ đã tìm thấy. Trên bàn phòng mắc áo mũ. Anh muốn nhìn qua không? — Thôi cảm ơn. Có chắc là June Arnot không? — Chắc. Conrad quay sang bác sĩ Holmès. — Được rồi, ông thầy, tôi thấy đủ rồi. Ông bắt đầu công việc được đấy. Ông gửi bản sao báo cáo cho tôi chứ? Bác sĩ Holmès gật đầu. Bardin nói: — Này các bạn, móc cô ta lên. Chú ý nhẹ tay một chút. Ba người cảnh sát ngán ngẩm bước tới. Một người giơ cây sào tìm cách móc cái xác nổi. Conrad nói: — Trong lúc chờ đợi, ta đi nói chuyện với Fedor. Anh cho người gọi ông ta tới đây. Mọi người đi về phía ngôi nhà cùng với Conrad. Bardin hỏi: — Này, anh nghĩ thế nào? — Có vẻ như tay đó là khách quen nhà này. Đầu tiên là do người gác để hắn vào. Sau nữa hắn hạ sát tất cả gia nhân vì sợ bị nhận diện. — Trừ phi đó là một tên điên nổi cơn. — Nếu thế thì người gác không cho hắn vào. — Cũng có thể thế, tùy theo kẻ kia nói với người gác gì đó. Khi họ vào nhà, hai người cảnh sát vừa bước qua ngưỡng cửa, khiêng một cái cáng có phủ chăn lên xác người. Một anh cớm nói: — Hết rồi, sếp. Dọn sạch trơn. Bardin gừ gừ bước lên bậc cấp rồi xuống sân. — Theo anh thì Fedor không can gì vào đấy phải không? - Conrad ngồi xuống ghế hỏi. — Hắn không thuộc típ người làm nổi việc này. Cho dù đúng là hắn thì cũng phải có một cớ thật lạ. Vì cô ta là khách hàng duy nhất đã đem lại cho hắn một gia tài kha khá. — Một phụ nữ như cô ta tất phải có cả đống kẻ thù, - Conrad duỗi dài chân ra nói. - Kẻ nào làm cái cú này chắc phải nóng mũi lắm. — Hình như cô ta có liên hệ với khá nhiều kẻ không tốt, - Bardin đưa ra nhận xét. - Theo người ta nói, cô ta dính dấp với đủ thứ chuyện bê bối. Anh có nghe người ta đồn đại cô ta là bạn gái của Jack Maurer không? Conrad sững người chú ý. — Không, bạn gái là thế nào? Bardin mỉm cười: — Tôi nghĩ là anh nghe thì chú ý ngay. Tôi không có bằng cớ nhưng tiếng đồn thì nhiều. Cô ta không khoe nhưng người ta nói hai người là nhân tình nhân bánh của nhau. — Tôi muốn biết rõ chuyện này. Loại hành động như thế này đúng là gu của Maurer rồi. Hắn đủ sức tàn ác để xuống tay. Anh còn nhớ cú tàn sát hai năm trước đây không? Bảy người sắp hàng sát chân tường và thế là liên thanh bắn tằng tằng. — Chuyện đó không có gì chắc là của Maurer, - Bardin thận trọng nói. — Thế còn ai nữa? Bọn đó lấn quyền ông trùm, vậy là ông trùm xơi tái là có lý thôi. — Ông cảnh sát trưởng không tin. Ông ta nghĩ rằng đó là băng Jacobi đem trút tội cho Maurer. — Ông ta biết tôi nghĩ gì về cái luận cứ tồi tệ ấy rồi. Đúng là của Maurer và vụ này thì cũng có thể là của lão nữa... — Anh gầm gừ Maurer dữ quá, - Bardin nhún vai nói. - Chắc anh khoái thấy lão chui vô hộp lắm. — Không phải bị còng số 8 mà thôi đâu, - Conrad nói với vẻ hung dữ bất chợt. - Tôi muốn thấy lão lên ghế điện kia! Thằng chó chết ấy sống lâu quá rồi! Một cảnh sát viên bước vào sân. — Fedor đến rồi, sếp. Conrad và Bardin cùng đứng lên. Harrison Fedor, ông bầu của June Arnot đi tưng tưng bước vào sân. Đó là một con người mảnh dẻ, có cái nhìn sắc và trầm lặng, miệng như cái bẫy chuột chù và má hõm. Ông ta chộp lấy bàn tay Conrad lắc mạnh. — Ngọn gió lành nào đưa ông đến đấy? June có mạnh khỏe không? — Ngược lại thế kia, - Conrad bình thản trả lời - Cô ta bị giết rồi, cả đám gia nhân. — Trời! - Fedor nuốt nước miếng, mặt xịu xuống rồi gượng đến ngồi nơi chiếc ghế mây và nói tiếp. - Ông bảo cô ta chết rồi à? — Còn hơn là chết nữa! — Lạy Chúa! - Fedor giở nón ra và luồn các ngón tay vào mớ tóc lưa thưa. - Chết à? Khó tin quá! Ông ta nhìn sững Bardin rồi nhìn Paul. Cả hai không nhúc nhích, chờ đợi. — Lại bị giết! Yên lặng một chút, Fedor nói tiếp: — Chuyện chi lạ! Không biết tôi nên khóc hay nên cười đây? — Thế nghĩa là gì? - Bardin lầu bầu, mặt mày bất mãn. Fedor nhếch mép cười. — Ông không hiểu vì ông không làm việc với cô ta trong 5 năm như tôi. - Ông ta đứng lên, lấy ngón tay chỉ vào Bardin. - Tôi mà khóc được thì cứ treo cổ tôi lên. Có thể là tôi mất nồi cơm nhưng đỡ được gánh nặng. Con điếm ấy làm tôi đến mụ người. Có tôi thì không có nó, nó làm tôi nhức nhối vô cùng. Các ông không thể biết tôi phải chịu đựng như thế nào với con đĩ ấy. — Có ai đấy đã cắt đầu cô ta, - Conrad thong thả nói. - Rồi như chưa hả giận, hắn lại còn mổ bụng moi phèo ruột ra. Ông có biết ai có thể làm như thế không? — Cắt đầu! Trời ơi! Để làm gì vậy? — Cũng với lý do như mổ bụng: Kẻ đó thù hận cô ta. Ông có biết ai tức giận đến mức tàn ác như thế không? Fedor vụt ngoảnh mặt đi. — Không, tôi không biết. Trời! Báo chí biết chưa? — Không, họ chưa biết chừng nào mà tôi chưa tìm được gì chắc chắn để tiến hành công việc, - Bardin càu nhàu nói. - Này, nếu ông có biết ai có lý do làm như thế thì nên khai ra với chúng tôi. Hồ sơ sếp gọn nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy cho mọi người, kể cả ông đấy. Fedor lưỡng lự rồi nhún vai: — Ông nói có lý. Ralph Jordan là thằng bồ hiện nay của cô ta. Tuy nhiên gần đây họ lại gấu ó nhau dữ dội. Cuộn phim hắn quay với June là cuốn cuối cùng. Hãng điện ảnh Thái Bình Dương phải xé hợp đồng với hắn. Họ chịu không nổi hắn nữa. — Tại sao vậy? - Conrad đốt thuốc hỏi. — Hắn phi cần sa sáu tháng nay rồi. Một khi hắn phê thì không gì ngăn hắn quậy. — Sao thế? — Hắn nổi điên - Fedor rút khăn tay thấm mồ hôi mặt. - Khoảng hơn tuần nay, hắn nổi lửa đốt sạch một phim trường. Và tuần qua, khi Laird tổ chức dạ hội nơi hồ tắm của ông ta, hắn làm trò nho nhỏ khiến Laird phải mất sạch tiền để dập tắt chuyện này. Jordan kiếm đâu ra được một chai axít đem rẩy vào áo tắm của các cô, thế là cả hơn ba mươi minh tinh nổi danh cứ tô hô như nhộng. Ban đầu chúng tôi còn khoái cười chí tử và được dịp rửa mắt nhưng sau thấy rằng cái chất lơ mơ đó không chỉ làm cháy áo tắm mà còn làm phỏng da nữa. Năm cô nàng phải vào bệnh viện, tình trạng thật thê thảm. Sáng hôm sau Laird xé hợp đồng với hắn. Conrad và Bardin nhìn nhau. Bardin gợi ý: — Tôi nghĩ là ta phải gặp ông bạn thích đùa dai ấy mới được. — Nhưng xin ông đừng nói tôi khai ra, - Fedor nằn nì. - Tôi đã khốn khổ về mấy chuyện ấy lắm rồi. — Ngoài Jordan, ông còn thấy ai có thể làm vụ này không? - Conrad hỏi. Fedor lắc đầu. — Không, phần lớn bạn hữu của June chẳng tốt đẹp gì nhưng chơi cái mảng này thì còn rét lắm. — Có phải là cô ta và Jack Maurer ngủ với nhau không? Fedor vội cúi mặt nhìn hai bàn tay. — Tôi không biết chuyện này. Conrad nhìn Bardin. — Thật kỳ diệu phải không? Hễ nghe đến tên Maurer là ai cũng nín khe. Hình như thằng cha đó không có trên cõi đời này. — Xin ông chớ phiền, - Fedor vụt chen vào. - Nếu biết chuyện gì thì tôi nói ngay, về Maurer thì tôi chỉ đọc trên báo chí thôi. — Cứ ca cái điệu ấy mãi, - Conrad chán nản nói. - Lúc nào gặp may, không biết chừng tôi sẽ tìm được một tay gồng mình không sợ Maurer lắm và biết được một chút gì đó. Nhưng có cái chán là chẳng biết khi nào. — Chớ nóng. Ông ta nói không biết thì hẳn là không biết thôi. - Bardin nói. Thanh tra O’Brien bước xuống sân. — Sếp, tôi có chuyện muốn nói. Bardin nắm tay ông ta đi vào phòng khách. Paul nói với Fedor: — Ông cứ ở đấy đi, - rồi anh theo hai người kia. — O’Brien tìm được súng lục rồi, - Bardin nói, nét mặt u ám của ông lúc này có dáng hân hoan. Ông giơ lên một khẩu súng 45 tự động. - Xem này! Conrad quan sát khẩu súng. Trên báng có khắc hai chữ viết tắt R.J, anh hỏi O’Brien: — Anh tìm ra ở đâu vậy? — Giữa bụi cây, cách cổng sắt khoảng 30 mét. Cá với anh trăm bạc là đúng rồi. Hết đạn, mới tác xạ không lâu và là một khẩu 45. — Tốt hơn là nên đi kiểm chứng, Sam ạ. Bardin gật đầu đưa khẩu súng cho O’Brien. — Mang về sở và đối chiếu với các đầu đạn anh vừa tìm được. - Rồi ông quay sang Conrad. - Chuyện trẻ con phải không? Có vẻ dễ dàng quá mà. Jordan chắc phải có chuyện nói với cánh ta. Đi chứ? *** Theo Fedor thì Ralph Jordan có một căn hộ trong chung cư ở đường Roosevelt. Hắn ta ở đấy không lâu sau khi June Arnot tống hắn ra khỏi biệt thự ở Hollywood và dù hắn còn giữ ngôi nhà sang trọng ở Beverley Hills nhưng hiếm khi hắn sống ở đó. Conrad ghé xe đậu vào một góc tối. Anh chú ý đến một chiếc Cadillac đen chui nửa thân trong nhà để xe. — Lái xe bạt mạng thật! Anh bước tới có Bardin theo sau. Cánh trái của chiếc Cadillac đâm vào vách làm vỡ miếng đèn pha nát vụn. Bardin mở cửa xe nhìn vào tấm thẻ đồng. — Đúng rồi. Xe của Jordan. Hắn sắp chết một cửa tứ rồi. — Ít ra là ta cũng biết chắc hắn đang có ở nhà, - Conrad nói. Rồi anh bước vào cửa, đẩy cánh cửa xoay, theo sát là Bardin. Một nhân viên to mập, hồng hào trắng trẻo, đôi tay nhỏ, trắng đặt trên chiếc bàn tiếp khách, ngước mắt kênh kiệu nhìn. — Ông cần gì? Bardin chồm tới trước, nhíu mày, nói oang oang. Khi muốn gây khó dễ thì ông cũng đủ sức để trả đũa. Tiếng ông rít lên: — Thanh tra Bardin. Cảnh sát thành phố. Jordan có ở đấy không? Hai bàn tay nhỏ nhúc nhích. — Chắc ông muốn hỏi về Ralph Jordan? Vâng, ông ta có ở đấy. Các ông muốn gặp? — Hắn về nhà lúc nào? — Sau 8 giờ một chút. — Lúc đó hắn có bình thường không? — Tôi không lưu ý. — Hắn ra đi khi nào? — Khoảng sau 6 giờ. — Hắn ở trên lầu chót phải không? — Thưa phải. — Được rồi. Chúng tôi lên đó. Anh muốn giữ sức khỏe thì chớ mó vào điện thoại. Tôi đến thăm bất ngờ đấy. Trên đó có ai ở cùng với hắn không? — Tôi không biết. Bardin đi thẳng đến thang máy bước vào. — Như vậy là hắn ra đi lúc 6 giờ, trở về 8 giờ, thừa đủ thì giờ để đến “Ngõ Cụt” làm điều cần làm. — Nên coi chừng hắn, - Conrad nói khi cửa thang máy khép kín. - Nếu nó cần hận thù thì nguy hiểm đấy. — Hắn không phải là tên điên đầu tiên tôi va chạm và chắc cũng không phải là tên cuối cùng. Khốn thật! Bardin ngừng lại trước cửa căn hộ. — Kìa! Cửa mở. Ông bấm chuông, đợi một lát rồi lấy chân đá cánh cửa mở toang, liếc mắt nhìn vào phòng chờ. Trước mặt là một cánh cửa khép hờ. Bardin đẩy ra, bên trong là một phòng khách lớn, đèn sáng choang. Ông rống lên làm rung cửa kính. — Ê! Có ai ở trong nhà không? Sự im lặng trả lời thật nặng nề và ngột ngạt, lạnh tanh. Hai người nhìn nhau. Bardin nói: — Ồ, anh có nghĩ là hắn nấp ở đâu đó không? — Có thể hắn ra phố rồi. — Lão dưới kia không nói mà! — Ta ghé mắt vào một tí đi. Conrad bước vào một gian phòng, gõ cánh cửa phía trái. Anh xoay tay nắm thấy một gian phòng lớn. Cũng không có ai. Họ mở cửa phòng tắm. Chưa bao giờ họ trông thấy một cảnh bài trí sang trọng đến thế nhưng họ chỉ chú ý ngay đến cái bồn tắm. Ralph Jordan nằm dài ra đó, đầu gập xuống ngực, mình mặc chiếc áo choàng màu cặn rượu vang, khoác ngoài bộ đồ ngủ xanh nhạt. Trên bờ bồn tắm và phần trước áo hắn có loang màu đỏ. Hắn nắm trong tay một lưỡi dao cạo có cán, máu loang như vệt mực trên tranh vẽ. Bardin sờ tay Jordan. — Lạnh như một khúc thịt bò bỏ tủ đá. Ông nắm tóc Jordan lôi đầu hắn lên. Gonrad nhăn mặt khi nhìn thấy vết thương mở toác ra, sâu đến tận một động mạch bị cắt tiện đứt đôi. Bardin lùi lại. — Đấy, thật đúng như tôi nói: Một vụ việc quá đơn giản. Hắn đến đằng kia giết cô gái rồi trở về nhà tự cắt cổ. Hắn có ý tứ lắm. Càng dễ cho tôi làm việc. - Ông hút thuốc phà khói vào mặt người chết. — Tôi nghĩ là bác sĩ có việc làm suốt đêm đấy. Conrad loanh quanh trong phòng tắm, anh tìm thấy một con dao cạo điện. — Lạ là sao hắn lại có dao cạo tay. Đời bây giờ phải chạy quanh mới lùng kiếm được thứ này và tôi không nghĩ là Jordan lại có nó trong nhà. — Anh chớ làm rối lên. Có lẽ hắn dùng để cắt chai chân, lưỡi dao đa dụng mà. Ông đẩy một cánh cửa và thấy một tủ áo thật đầy đủ sang trọng. Conrad đang bước qua phòng bỗng ngừng lại. — Sam, cho anh xem cái này chắc anh phởn lắm - Anh chỉ một vật dính máu nằm trên đất. Bardin bước lại gần. — Trời đất! Con dao phạng. - Ông quì xuống gần con dao lưỡi nhọn. - Cam đoan đấy là vũ khí giết người. Đủ để cắt cổ ai đó và mổ bụng như anh kéo fermeture vậy. — Bộ anh không thấy làm lạ là một gã như Jordan lại có một con dao rừng Nam Mỹ như vậy sao? Bardin ngồi chồm hổm. — Có lẽ hắn mang về làm kỷ niệm. Cam đoan là hắn có đi Nam Mỹ hay Antilles, chắc là Antilles thôi. Nhất định đúng là tang vật và dám đưa đầu cá với anh là máu dính ở đấy đúng là máu của June Arnot. Conrad lật qua lại áo quần vắt trên ghế. — Quần áo không có vết máu. Tại sao cắt đầu người khác lại không dính máu. — Ui, được rồi, - Bardin nóng nảy kêu lên. - Anh đâu có cần vặn vẹo từng li từng tí như thế. Có thể hắn mang áo khoác hay một thứ gì tương tự như vậy. Đâu có gì là quan trọng. Đối với tôi như thế là đủ rồi. Anh không chịu sao? — Tôi không biết, - Conrad nhíu mày. - Mọi sự gọn ghẽ quá nên tôi ngờ là một cuộc xếp đặt. Khẩu súng lục có chữ đầu tên Jordan, cái xe bị bẹp dúm, Jordan tự vẫn và bây giờ là vũ khí giết người được tìm thấy. Đẹp quá nên khó tin là thực. Theo tôi thì có chuyện gì đó xộc xệch trong này. — Chuyện không ăn khớp là vì anh tận tâm quá, - Bardin nhún vai trả lời. - Thôi hết chuyện rồi. Tôi tin thì Cảnh sát trưởng cũng tin. Anh cũng sẽ đồng ý như thế nếu trong đầu không bị ám ảnh bởi ý muốn đưa Maurer lên ghế điện. Phải không? Conrad trầm ngâm gãi gãi cánh mũi. — Có lẽ thế. Ok! Chắc là tôi xong việc rồi. Anh muốn tôi đưa anh về Sở không? — Tôi ở đây để gọi họ tới. Tôi muốn nhân viên lục lọi hết trong nhà này. Ngay sau khi cắt đặt xong công việc, tôi sẽ trở về “Ngõ Cụt” rồi thông báo cho báo chí. Anh về nhà à? Conrad gật đầu. — Hên thật! Không làm việc đêm, một căn nhà ấm cúng, nàng tiên bên cạnh. Sao, bà Conrad mạnh khỏe chứ? — Ồ, chắc là mạnh thôi, - Conrad trả lời mà buồn bã nhận ra rằng mình không thấy có hứng khởi. *** Conrad len qua các đường nhỏ để tránh các rạp cinema vừa vãn xuất hát. Anh lo lắng không biết Janey có thực hiện lời dọa đi chơi một mình và đã về chưa. Anh tấp xe để đốt thuốc. Khi ném que diêm qua cửa kính, anh đọc thấy tên bảng đường: Thông lộ Glendale. Mãi tới khi đến đầu đường, anh mới nhớ là cô gái có tên Frances Coleman đến thăm June Arnot lúc 7 giờ tối đã ghi địa chỉ số 145 Thông lộ Glendale. Anh vụt ghé sát lề và ngồi một lúc nhìn qua kính che gió con đường vắng và buồn. Bác sĩ Holmès đã nói June Arnot chết khoảng 7 giờ. Cô gái này có thể thấy được gì không? Anh bước xuống xe tiến đến số 145. Đây là một chung cư tồi tàn. Có vài cửa sổ còn sáng ánh đèn. Qua cánh cửa kính lối ra vào, Conrad nhìn thấy một tiền sảnh đèn mờ và một cầu thang tối thui. Đủ thứ mùi vị xông lên: Mùi tỏi phi, nước đái mèo và rác rưởi phân hủy. Anh hất ngược mũ, nhíu mày bước vào đến trước dãy hộp thư đặt sát tường. Hộp thư của cô Coleman sếp hàng thứ ba, cô ở lầu 3. Conrad lội bộ lên thang gác. Một tấm thiếp trắng ghi tên cô ghim vào cửa. Conrad định gõ cửa nhưng nhận thấy cửa mở hé. Anh gõ cửa, đợi một lúc rồi lùi lại, thủ thế. Tối hôm nay anh đã trông thấy sáu xác chết thê thảm, ghê gớm rồi. Gáy anh lạnh ngắt. Anh đốt thuốc nhưng nhận thấy tay mình không run. Anh mỉm cười, nghiêng mình tới, đẩy cửa nhìn vào bóng tối. — Có ai đấy không? Không có tiếng trả lời. Một sự yên lặng chập chờn cùng với một mùi hoa thuốc phiện California. Conrad bước tới mò mẫm tìm công tắc. Anh nín thở bật đèn và cứ tưởng nhìn thấy điều tồi tệ: nhưng thật ra không có xác chết, không có máu, không có thứ vũ khí giết người nào hết... đấy chỉ là một căn phòng nhỏ với chiếc giường sắt, tủ commos, vài cái ghế và chiếc tủ lớn. Trông thật sơ sài như chiếc giường đóng đinh của ông fakir Ấn Độ. Conrad đứng yên một lát rồi mở cửa tủ: không có gì hết. Anh gãi gáy rồi bước ra. Trên tường nơi tiền sảnh có bảng: Gác dan ở tầng hầm. “Nào có mất mát gì!” Anh nghĩ. Anh bước xuống một thang gác dơ bẩn tối om. — Có ai không? Cửa mở và ánh đèn làm anh chói mắt. Một giọng nói êm dịu, mơn trớn phát ra: — Không có phòng cho thuê đâu. Conrad nhìn vào. Một người to béo mặc áo ngắn, ngồi sau bàn. — Anh có một căn hộ trống trên lầu 3 phải không. Cô Coleman vừa dọn đi à? — Ai nói với ông thế? — Tôi vừa mới lên trên ấy. Phòng trống trơn. — Ông là ai? Conrad lên giọng: — Cảnh sát! Ông to béo nhăn mặt. — Cô ta đi vào lúc nào? - Conrad nghiêm giọng hỏi. — Tôi không biết cô ta đã dọn đi. Buổi sáng vẫn còn. Thế là may, tôi đỡ phải trục xuất cô ta vào sáng mai này. — Tại sao? — Thì cũng bấy nhiêu chuyện đó. Chưa trả tiền thuê ba tuần. — Anh biết gì về cô ta? Cô ta ở đấy từ bao giờ? — Độ một tháng nay. Hình như là một diễn viên phụ cinema. Cô ta không tìm được việc ở Hollywood. Cô thật ngoan. Tôi mà có con gái thì mong nó được như cô ta. Ăn nói mềm mỏng, người xinh, tính tình trầm lặng, thật là có giáo dục. - Ông nhún vai. - Nhưng lại không có tiền. Mấy con người khá thì lại không kiếm ra tiền. Tôi đã khuyên về quê đi nhưng cô ta không nghe. Cô ta nói rằng sáng nay trả tiền cho tôi. Chắc lại không kiếm ra chứ gì. — Chắc vậy, - Conrad nói. Anh bỗng cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Một cô phụ diễn đang thất nghiệp lại đến thăm June Arnot thì có mục đích nào khác hơn là hỏi vay tiền. Loại cô ta chắc không qua được nhà người gác. Khó tin rằng June Arnot chịu tiếp cô ta. Anh nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. — Cảm ơn. Tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Ông to béo hỏi: — Sao? Cô ta không gặp lôi thôi gì phải không? — Không đâu. Conrad quay trở ra. Bardin đã nói rằng chính Jordan làm cú đó. Sáng mai ông sẽ nói chuyện với ông Biện lý. Giá như anh biết rõ June và Maurer có cặp bồ với nhau nhỉ! Nếu họ đã ngủ với nhau thì có nhiều khả năng Maurer đã tổ chức cuộc tàn sát, mà cũng có thể chính Maurer ra tay. “Ui, kệ mẹ Maurer!”, Conrad nghĩ trên đường vào cổng nhà. “Mình không quên hắn được lấy 5 phút. Thật cực hơn là cảnh một gã si tình trồng cây si trước nhà người yêu”. Anh mở khóa bước vào phòng chờ tối thui. Khung cảnh vắng lặng. Anh mở cửa phòng ngủ và bật đèn: Chiếc giường đôi nằm trơ vơ. Janey quả đã đi hoang chưa về.   Mời các bạn đón đọc Cái Chết Từ Trên Trời của tác giả James H. Chase.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ve Sầu Mười Bảy Năm
Một nhà nghiên cứu lịch sử chết trong thư phòng bên bài thơ kỳ lạ. Một cô gái khao khát “kết án đàn ông” gục trên biển giấy với vô số dòng chữ “Chết đi!”. Một cựu nữ cảnh sát tử vong vì khí thải trong ô tô bị bịt kín. “Tự sát” hay “bị giết”. Điều tra viên Kuraishi Yoshio thuộc đội điều tra số 1 chuyên phụ trách những cái chết bất thường, là người sẽ nhìn ra. Vì từ hoa trong chậu hay tiếng hót của chim trong lồng, ông có thể đọc được thông tin liên quan đến tử thi. Tác phẩm được đề cử Giải Honkaku Mystery lần thứ 5 và được chuyển thể thành các phiên bản phim truyền hình, phim điện ảnh và manga. *** Sợi dây thừng thắt ngang cái cổ trắng muốt. Cơ thể người phụ nữ mềm oặt như không còn chút sức sống. Chỉ cần gã đàn ông nới lỏng cánh tay đang ôm quanh eo cô thôi, là cơ thể ấy sẽ lập tức ngã ập từ trên cái kệ xuống sàn. Người phụ nữ đang chìm sâu trong cõi mộng. Cô cảm thấy có gì đó kỳ lạ quanh cổ, hai hàng lông mày khẽ nhíu lại, “hức hức hức”, mũi cô phát ra tiếng thở khó nhọc. Đó chính là dấu hiệu. Gã đàn ông buông cơ thể người phụ nữ, mũi chân cô đạp vào cái kệ. Sợi dây phơi đồ duỗi căng ngay dưới xà ngang của thiết bị thể dục đa năng, nghiến sâu vào dưới cái cằm mảnh mai. Móng chân sơn màu loáng lên giữa khoảng không cách sàn nhà mười lăm xen-ti-mét, đung đưa tạo thành những vòng cung nhỏ. Sự dao động đó khiến nút thắt của dây thừng phát ra âm thanh “kẹt… kẹt…” vang vọng khắp phòng. Nước mũi quyện với máu chảy ra từ lỗ mũi, kéo thành vệt xuống môi trên. Cơn co giật nhanh chóng kéo đến. Phần bụng dưới co thắt, chất dịch như thấm ra từ chiếc váy màu vàng nhạt chạy dọc hai bên đùi. Chất lỏng ấy tránh qua đầu gối, lượn vòng quanh bắp chân, chảy xuống đọng lại trên sàn nhà, bốc mùi hôi thối. Người đàn ông cáu bẳn nhìn chòng chọc, sau đó đưa mắt sang chiếc đồng hồ treo tường. Không giờ mười lăm phút sáng. Mạch ở cổ người phụ nữ đã ngừng đập. Gã xoay gót, băng ngang qua phòng. Đầu ngón tay đeo găng sập công tắc trên tường. Cả căn phòng rơi vào màn đêm sâu thẳm. Gã mò mẫm mở cửa kéo, bước ra ngoài hành lang. Quay lại nhìn người phụ nữ lần nữa, gã thản nhiên đóng cửa lại rồi tiến về phía lối ra vào. *** “Hiện trường 70%, tử thi 30%” – Kuraishi Yoshio Ve sầu 17 năm là 1 tuyển tập truyện ngắn có yếu tố trinh thám kể về công việc của “điều tra viên chung thân” Kuraishi – người được ví như hiệu trưởng, hay huyền thoại sống của sở cảnh sát 1 tỉnh nào đó ở Nhật Bản….truyện gồm 8 phần truyện nhỏ, mỗi phần truyện là 1 vụ riêng biệt…. Sở dĩ mình nói đây là truyện “có yếu tố trinh thám” vì các đặc điểm của 1 tiểu thuyết trinh thám như: điều tra, khám nghiệm, suy luận, đuổi bắt hay phá án đều chỉ như lướt qua, ko có điểm gì đào sâu, ko có điểm nào được làm rõ ràng cả….1 phần vì mỗi phần truyện ko quá dài, nên ko đủ thời lượng nhồi nhét những yếu tố trên vào, và phần khác (chủ yếu) có lẽ là dụng ý của tác giả, chỉ muốn mượn câu chuyện về những ng cảnh sát, những điều tra viên, những vụ án mạng để kể những câu chuyện khác sâu hơn về xã hội Nhật Bản…. Trong 8 phần truyện thì phần truyện “món quà chia tay” gây ấn tượng với mình nhất, ấn tượng hơn cả phần cuối cùng – vốn đc chọn để đặt tên cho cả tập truyện….có lẽ vì đó là phần truyện mà mình cảm thấy có thể hiểu đc rõ nhất tâm lý từng nhân vật cũng như câu chuyện ẩn đằng sau….(mấy phần khác cũng ko quá khó hiểu đâu, chỉ là mình ấn tượng với phần này nhất, thế thôi  Về nhân vật Kuraishi, đây có lẽ là kiểu nhân vật tài năng có tính cách điển hình: thích tự do hành động, ko quan tâm đến chức quyền, ko ngại bật sếp, sống kiểu mặc kệ đời, ngoài lạnh trong nóng blah blah….và nếu nói về tài năng của ông này thì có lẽ phải xếp hàng thiên tài mất!!!….kiểu như chỉ nhìn qua hiện trường là ông ý phục dựng đc nguyên trạng quá trình gây án/tự sát xảy ra trc đó, xong còn biết cả nguyên nhân sâu xa của tội ác/hành vi tự sát, các kiểu các kiểu….thế nên phần điều tra phá án của Kuraishi thường vô cùng ngắn gọn, thậm chí chóng vánh!….chính bởi lẽ đó nên cái yếu tố trinh thám càng bị giảm hấp dẫn và ko đủ sức thuyết phục!…. Tóm lại, đây như 1 truyện trinh thám nhẹ nhàng đọc giải trí giết thời gian mùa dịch vậy ….đc cái bìa đẹp, gáy sách chắc chắn, lại có đánh dấu sách hình con ve sầu bao ngầu luôn! Đánh giá cá nhân: 7/10 Nguyễn Thành Tiến *** Ve sầu mười bảy nămVE SẦU MƯỜI BẢY NĂM Đánh giá: 4/5 “Sợi dây thừng thắt ngang cái cổ trắng muốt. Cơ thể người phụ nữ mềm oặt như không còn chút sức sống. Chỉ cần gã đàn ông nới lỏng cánh tay đang ôm quanh eo cô thôi, là cơ thể ấy sẽ lập tức ngã từ trên kệ xuống sàn” Đây là một đoạn trong phần mở đầu của mẩu truyện “danh thiếp đỏ” trong quyển “Ve sầu 17 năm”. Nếu như với những cuốn tiểu thuyết tôi đã đọc qua, đa phần họ sẽ đều xoay quanh cảnh sát điều tra suy luận và phá án. Mở đầu mỗi chương là đôi khi là một cảnh tượng gây án của hung thủ, đôi khi là một câu chuyện xoay quanh nạn nhân. Nếu như đã biết trước là án mạng hay tự sát. Thì chắc hầu ai cũng nghĩ là còn gì thú vị để đọc nữa?Tuy vậy ở quyển “ve sầu mười bảy năm” thay vì độc giả đi theo mạch suy luận của chuyên viên điều tra Kurashi hay được gọi là “điều tra viên chung thân” với óc phán đoán nhạy bén và không bỏ qua bất kì những chứ cứ nào. Ông ấy không hề bỏ qua những chứng cứ nhỏ nhất như làm sáng tỏ vụ việc, độc giả sẽ đi theo dòng suy nghĩ của những người điều tra đi cùng với Kuraishi để xem cách ông ấy hành động và đưa ra kết luận. Truyện dài khoảng gần 400 trang, gồm 8 chương, mỗi chương về một vụ án khác nhau. Mỗi vụ án đều có những điểm hấp dẫn nhất định. “Một vụ án giết người trong phòng kín đã xảy ra ngay trước mắt chúng ta, ngay khi chúng ta đang theo dõi nó” hay một cô gái luôn thù ghét đàn ông, cô có nguyện vọng trở thành một thẩm phán, quyết chí “kết án đàn ông” được tìm thấy đã chết trên vô số đống giấy được trải khắp sàn được gửi từ máy fax với cỡ chữ giống nhau đều ghi chữ “chết đi” Tình tiết truyện được giải thích khá cặn kẽ và hợp logic, một số cái kết trong các chương chuyện gây bất ngờ, bản dịch khá tốt. Bìa truyện và bookmark được trình bày khá đẹp. ‎Trần Huy‎    Mời các bạn mượn đọc sách Ve Sầu Mười Bảy Năm của tác giả Hideo Yokoyama & Khánh Trang, Miki (dịch).
Ellie Yêu Dấu
Những tháng ngày trước khi Ellie mất tích là quãng thời gian đẹp đẽ nhất của gia đình cô bé. Tuổi mười lăm, tình yêu mới chớm, kết quả học tập ngày càng tốt hơn, cô bé có một gia đình tràn ngập yêu thương và sống trong sự bao bọc từ bố mẹ, anh chị của mình. Cho đến một buổi sáng, cô bé rời nhà với ba lô đầy sách để đến học tại thư viện chỉ cách nhà mười lăm phút đi bộ và rồi không bao giờ quay về nữa! Mười năm qua đi, vụ án Ellie Mack mất tích rơi vào vô vọng, kéo theo bao sự suy sụp, tan vỡ trong gia đình. Mất mười năm, sau vài tháng chấp nhận manh mối cuối cùng về con gái, người mẹ vừa tìm lại được niềm vui cuộc sống khi rơi vào lưới tình với Floyd, người đàn ông quyến rũ mà bà tình cờ gặp trong quán café, thì mọi chuyện kỳ lạ mới thực sự bắt đầu: Floyd có một cô con gái chín tuổi, giống hệt Ellie của bà từ nhiều năm trước, tên là Poppy! Với cốt truyện phức tạp, ám ảnh, nhưng vẫn cực kỳ hấp dẫn, lôi cuốn cùng cái kết gây sốc, Ellie yêu dấu xứng đáng là tiểu thuyết trinh thám bán chạy số 1 theo tờ New York Times *** Mình bắt đầu năm mới bằng cuốn Ellie yêu dấu, và dù đây là một cuốn sách vừa buồn bã, vừa ám ảnh, nhưng mình có thể mãn nguyện vì đã đọc được tác phẩm hay đến thế. Ellie yêu dấu mở đầu bằng một dự báo chẳng lành: “Tất cả đều mất đi, mãi mãi. Phải chi Ellie có thể quay ngược thời gian, tháo gỡ nút thắt ấy và đẩy mọi chuyện theo chiều hướng ngược lại, cô bé sẽ nhìn ra các đầu mối, nhận biết được các dấu hiệu cảnh báo. Nhìn lại quá khứ thì bao giờ cũng dễ dàng hơn. Nhưng lúc đó, làm sao cô bé biết được chuyện gì sắp xảy ra. Cô bé ngây thơ cứ mở to mắt mà bước thẳng về phía bi kịch.” Ellie – một cô bé 16 tuổi với tương lai phía trước bỗng nhiên bị mất tích trong một buổi sáng đi đến thư viện. 10 năm sau, hài cốt của Ellie được tìm thấy đã thối rữa ở sâu trong một khu rừng. Gia đình của cô, đặc biệt là người mẹ, sau 10 năm dành tất cả công sức để tìm kiếm cô trong vô vọng, cuối cùng đã đành chấp nhận buông xuôi mọi thứ. Nhưng đúng giây phút mẹ cô quyết tâm từ bỏ quá khứ để hướng tới tương lai, thì một sự sắp đặt cố tình đã khiến bà dần dần hé mở ra những âm mưu khủng khiếp đằng sau sự mất tích và cái chết của Ellie. Là ai đã gây ra sự biến mất của Ellie? Là ai đã quyết định vén bức màn bí mật đã được chôn giấu 10 năm qua và vì lý do gì? Mình đánh giá Lisa Jewell là một tác giả đầy khéo léo trong cách dẫn dắt câu chuyện. Các nhân vật trong cuốn sách dù không được miêu tả dài dòng quá nhiều, vẫn toát lên được tính cách rõ rệt và những cảm xúc sống động. Cô nắm bắt được không khí của câu chuyện và rải rác trong đó nhiều gợi ý khiến người đọc không giây phút nào thôi tò mò. Nhưng điều đặc biệt trong các cuốn sách của Lisa Jewell là ngay cả khi bạn bắt đầu hình dung được kẻ gây án, thì bạn vẫn bị lôi cuốn đến tận phút cuối cùng. Bất ngờ, hồi hộp, ngoạn mục, choáng ngợp, rợn người, khủng khiếp, một cuốn sách trinh thám có đầy đủ tính chất khiến bạn say đắm. Và như mình đã nhấn mạnh phía trên, dù đây là tiểu thuyết trinh thám nhưng Lisa Jewell bằng sự tinh tế và nhạy bén trong ngôn ngữ đã biến Ellie yêu dấu trở nên đầy chất thơ và xúc cảm. Bạn sẽ cảm nhận được nỗi đau, sự tê tái, sự xót xa, sự cảm thông dành cho những con người mang trong mình đầy vết sẹo từ ngày Ellie biến mất, đó là bố mẹ và anh chị của Ellie. “Ellie như nguồn sáng rực rỡ trong nhà. Rồi nguồn sáng ấy đột ngột tắt đi, khiến cả gia đình tàn lụi như những ngôi sao chết rơi khỏi quỹ đạo mặt trời.” Một cuốn sách không chỉ tập trung vào việc tìm ra sự thật, mà còn nhấn mạnh vào nỗi đau của người ở lại. Những con người sẽ mãi mãi đau đớn. Những con người phải dần dần học cách chấp nhận, buông bỏ và tha thứ cho quá khứ. Những con người phải vật lộn để tìm nguồn sáng ở phía trước cho mình. Với mình, Ellie yêu dấu xứng đáng nằm trong top 10 những cuốn trinh thám hay nhất mà mình từng đọc. Lisa Jewell chưa có nhiều cuốn sách được xuất bản ở Việt Nam, nhưng mình tin sau Ellie yêu dấu, vị thế của cô sẽ được nâng lên rất nhiều. Đánh giá: 4.75/5 Hồng Diệp *** Ghi chú về tên nhân vật “Sara-Jade Virtue”: Tên gọi “Sara-Jade Virtue” được tôi lấy cảm hứng từ một người có thật. Đó là cô Sarajade Virtue, người thắng cuộc trong buổi đấu giá Get In Character hồi năm 2016 để quyên tiền cho quỹ từ thiện CLIC Sargent của Anh. Một điều tình cờ, Sara-Jade là một trong những nhân vật giỏi giang, nhiệt tình, có ảnh hưởng bậc nhất ngành xuất bản Anh và tôi cực kỳ lấy làm vinh hạnh được mượn tên của cô ấy. Sứ mệnh của CLIC Sargent là hỗ trợ trẻ em và người trẻ tuổi mắc phải căn bệnh ung thư. Họ tin rằng những người này có quyền được điều trị, chăm sóc và hỗ trợ - không chỉ xuyên suốt hành trình chiến đấu với ung thư mà còn tương lai sau đó. Và họ xứng đáng có cơ hội tốt nhất để tiếp tục cuộc sống sau khi việc điều trị ung thư kết thúc. http://www.clicsargent.org.uk/ *** Những tháng ngày trước khi cô bé mất tích là quãng thời gian đẹp đẽ nhất. Thật sự là đẹp nhất! Mỗi khoảnh khắc cô bé trải qua là một món quà tặng khác biệt. Nó đến và nói: Tôi đây, một khoảnh khắc hoàn hảo nữa đây này. Nhìn tôi xem, cậu có thể tin được là tôi đẹp tới vậy không? Buổi sáng nào cũng là bản hòa ca rộn ràng của mascara, tâm trạng hồi hộp và mạch đập liên hồi khi cô bé đến gần cổng trường. Niềm vui vỡ òa khi cô nhìn thấy chàng trai ấy. Từ lúc nào trường học không còn là cái lồng bó buộc mà trở thành phim trường đầy sống động và cuốn hút cho câu chuyện tình ái của cô. Ellie Mack không thể tin được là Theo Goodman muốn đi chơi với mình. Đó là anh chàng đẹp trai nhất khối mười một. Không có gì phải bàn cãi! Hồi lớp mười, cậu ta đã đẹp trai nhất rồi, lớp chín và tám cũng vậy. Lớp bảy thì không cần nhắc đến bởi chẳng có cậu trai lớp bảy nào nhìn được mắt cả. Bọn con trai lớp bảy chỉ là một lũ bé tí, mắt thô lố chuyên xỏ những đôi giày to sụ và lọt thỏm trong chiếc áo khoác quá khổ. Theo Goodman chưa từng có bạn gái nên ai cũng nghĩ cậu ta đồng tính. Theo chuẩn dành cho bọn con trai thì Theo xinh trai, rất gầy và cực kỳ, cực kỳ dễ thương. Bất kể Theo có đồng tính hay không thì Ellie đã mơ mộng về cậu ta nhiều năm liền. Chỉ cần được làm bạn với Theo là Ellie vui rồi. Ngày nào Theo cũng đi bộ tới trường cùng người mẹ trẻ trung, xinh đẹp của mình. Mẹ Theo mặc đồ thể thao, buộc tóc đuôi ngựa và thường dẫn theo một con chó bé xíu. Trước khi thong thả bước qua cổng trường, Theo bế chú chó lên, hôn má nó rồi nhẹ nhàng thả xuống vỉa hè; tiếp đó cậu hôn mẹ. Theo chẳng thèm để tâm đến cái nhìn của những người xung quanh. Cậu vốn _tự tin_ mà. Rồi vào một ngày năm ngoái, ngay sau kỳ nghỉ hè, Theo bắt chuyện với Ellie. Chỉ có thế. Trong giờ ăn trưa, họ nói chuyện với nhau về mấy chủ đề tương tự như bài tập về nhà. Và Ellie, dù lơ ngơ hết cỡ về mọi thứ nhưng lập tức nhận ra Theo là trai “thẳng”. Chưa hết, lý do cậu chàng bắt chuyện là vì thích cô bé. Rõ như ban ngày! Thế là hai người trở thành một cặp. Vậy mà cô bé từng nghĩ mọi chuyện phải phức tạp hơn nhiều chứ. Nhưng chỉ cần một bước đi sai lầm, một nút thắt nhỏ xíu trong cuộc đời cũng đủ đặt dấu chấm hết cho mọi chuyện - không chỉ chuyện tình của hai người, mà là tất cả. Thanh xuân. Cuộc sống. Ellie Mack. Tất cả đều mất đi, mãi mãi. Phải chi Ellie có thể quay ngược thời gian, tháo gỡ nút thắt ấy và đẩy mọi chuyện theo chiều hướng ngược lại, cô bé sẽ nhìn ra các đầu mối, nhận biết được các dấu hiệu cảnh báo. Nhìn lại quá khứ thì bao giờ cũng dễ dàng hơn. Nhưng lúc đó, làm sao cô bé biết được chuyện gì sắp xảy ra. Cô bé ngây thơ cứ mở to mắt mà bước thẳng về phía bi kịch. Mời các bạn mượn đọc sách Ellie Yêu Dấu của tác giả Lisa Jewell & Thanh Yên (dịch).
Con Rồng Trong Bể Kính
Một chàng trai trẻ bị đâm đến chết vì những con cá quý giá của mình. Một ông trùm châu Á mua con cá rồng độc nhất vô nhị với giá 150.000 đô la. Một thám tử đuổi theo những kẻ buôn lậu thú cưng qua đường phố New York... Cuốn sách Con rồng sau bể kính kể chuyện lại những câu chuyện phi thường về nỗi ám ảnh, sự hoang tưởng và những tên tội phạm liên quan đến một loài cá không giống bất kì loài vật nào khác: một động vật ăn thịt hung dữ xuất hiện từ thời kỳ khủng long còn tồn tại trên trái đất.  "Một cuốn sách có tính khai mở lạ kì." - The New York Times  "Mang màu sắc căng thẳng của một tiểu thuyết trinh thám, Voigt đã vẽ nên một thế giới sống động của những vụ giết người, buôn bán chợ đen và việc hủy hoại môi trường sinh tồn của một loài cá mà trớ trêu thay, nó lại được coi là biểu tượng của may mắn và sức cuốn hút." - Discover "Một câu chuyện vô cùng ấn tượng, đầy bất ngờ và hồi hộp... Mọi thứ bỗng trở nên kì dị." - The Wall Street Journal (Con rồng sau bể kính kể về hành trình nữ nhà báo Emily Voigt đi tìm cá rồng hoang dã - loài cá cảnh đắt nhất thế giới. Hành trình này đã đưa cô đi khắp toàn cầu, theo chân những người nuôi cá cảnh kì lạ đến các khu rừng xa xôi nhất hành tinh để lần theo dấu vết của cá rồng tự nhiên.)  *** Một pho kiến thức sâu rộng và đồ sộ đến đáng sợ! Tác giả Emily Voigt đã phải tham khảo và tìm tòi rất lâu để có tư liệu viết lên cuốn sách này, chỉ nhìn vào phần Lời kết và Lưu ý tham khảo cuối sách là đủ thuyết phục người đọc, đặc biệt là những người thích tìm hiểu một thế giới nửa thực nửa hư - săn tìm loài cá còn tồn tại từ thời khủng long với "chức năng" mà người châu Á vẫn hay nói - gánh "hạn" cho chủ nhân, điều truyền tai nhau này đã đẩy giá cá rồng lên cao và kéo theo đó là những tay thợ săn bậc nhất. Điều đặc biệt là Emily đã viết truyện này theo hơi hướng trinh thám, nghĩa là các chương truyện được đặt tên và triển khai như một cuốn trinh thám bí ẩn thực thụ. Từng bước tìm kiếm loài cá này đều rất cuốn hút người đọc không kém gì theo đuổi những vụ án của Sherlock Holmes! *** Thực ra chúng ta chưa bao giờ chinh phục được thế giới, chưa bao giờ hiểu rõ; chỉ là chúng ta nghĩ chúng ta có quyền kiểm soát thế giới. Thậm chí ta còn không biết vì sao mình lại phản ứng theo một cách nhất định trước các tổ chức sinh vật khác, và tha thiết cần chúng theo nhiều cách khác nhau đến thế. - Edward O. Wilson, Biophilia* Nhà sinh vật học, tác giả cuốn sách BIOPHILIA xuất bản năm 1984. Thuật ngữ biophilia được ông giới thiệu mang ý nghĩa “thúc đẩy mối liên kết với các dạng sống khác.” *** TAIPING, MALAYSIA, THÁNG 11 NĂM 2004 Chan Kok Kuan vẫn chưa về. Lo lắng đến mất ngủ, cha anh - ông Chan Ah Chai - đứng bên cửa sổ nhìn đăm đăm ra bên ngoài, mong thấy một dấu hiệu của cậu con trai qua màn mưa trắng xóa. Cơn mưa bắt đầu từ lúc nửa đêm và đến bốn giờ sáng vẫn còn đang trút ào ào xuống mặt đất - làm nước ngập hết đường phố và tràn ngập các hồ trong các vườn hoa công cộng, nơi những cây còng* trăm tuổi tỏa tán lá khổng lồ trên đường Residency. Còn gọi là cây muồng tím, muồng ngủ, me tây…, ở các nước khác được biết đến là cây saman, rain tree, monkey pod.v.v… Chàng thanh niên Chan ba mươi mốt tuổi, thân hình dẻo dai và tính tình cởi mở vốn không phải kiểu người ra ngoài lúc tối muộn mà không gọi về. Anh đã về nhà ăn tối như thường lệ sau khi làm việc cả ngày ở cửa hàng cá cảnh do anh tự mở từ mấy năm trước. Ngay từ khi còn nhỏ anh đã luôn yêu thích những thứ có vây. Giờ thì anh đã trở thành chuyên gia về một giống loài cụ thể: cá rồng châu Á, loài cá nhiệt đới đắt đỏ nhất thế giới. Ở Trung Quốc sinh vật này được gọi là long ngư - cá rồng, vì thân hình dài uốn lượn với những cái vẩy lớn lấp lánh và tròn như đồng xu của nó. Vào độ trưởng thành, loài cá ăn thịt này có thể dài bằng một thanh gươm của samurai, khoảng sáu mươi đến chín mươi centimet, với đủ loại ánh màu. Cặp râu mọc ra từ môi dưới và hai cái vây ngực mỏng tang khỏa nước từ hai bên thân gợi dáng hình của một chú rồng đang bay lượn. Sự tương đồng này khiến người ta tin tưởng rằng loài cá này sẽ mang lại thịnh vượng và may mắn, đồng thời đóng vai trò như một thứ bùa bảo vệ để xua đuổi tà ma và tai ương. Tiếng tăm của giống cá này nổi lên vào cùng khoảng thời gian Chan Kok Kuan từ bỏ công việc thợ hàn để theo đuổi ước mơ bán cá cảnh của mình. Thiên hạ đồn rằng một chú cá rồng quý hiếm đã được người mua Nhật Bản trả tới 150 ngàn đô la. Tuy Chan không phục vụ nhóm khách quý tộc đó, nhưng anh có tài chọn những con cá khỏe mạnh không bệnh tật, với màu ánh kim được yêu thích và dữ tướng. Cửa hàng của anh lúc nào cũng duy trì tới năm mươi cá thể, được nhốt trong những cái bể riêng để ngăn chúng khỏi đánh nhau đến chết. Hầu hết chúng là cá non, chỉ to bằng cỡ lòng bàn tay hay đế giày của Chan là cùng, và được bán với giá tới 1.500 đô một con cho những tay chơi ở địa phương và các đại lý phân phối sẽ mang chúng đi khắp thế giới. Một trong những doanh nhân kiểu đó đã gọi tới đây hồi chiều nay, hỏi mua hết chỗ cá còn lại trong cửa hàng. Cha anh, lúc đó cũng đang phụ giúp ở cửa hàng như mọi ngày, đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện và cảnh báo con trai chỉ nên chấp nhận tiền mặt. Bây giờ, trong lúc nhìn ra ngoài cửa sổ vào màn mưa như thác đổ, ông già Chan tự hỏi có phải con trai mình đã trở lại cửa hàng sau bữa tối để gặp người mua này và quyết định ở lại tránh bão luôn hay không. Khoảng gần sáu giờ sáng, ngay khi cơn mưa tạnh hẳn, người cha liền trèo lên chiếc xe máy và lái vào thị trấn. Sáng hôm ấy trời rất đẹp. Bầu không khí mang mùi đất ẩm và đường phố đều đen bóng và trơn trượt, những vũng nước nhỏ lấp lóa ánh vầng dương vừa nhô ra khỏi các đám mây. Vẻ bình yên của thị trấn làm ông Chan Ah Chai trấn tĩnh lại. Ông đã sống ở Taiping suốt sáu mươi tư năm cuộc đời mình, quê hương ông trước đây từng là một điểm nghỉ dưỡng trong chế độ thực dân còn ngày nay nổi tiếng trong giới những người về hưu muốn tìm kiếm một cuộc sống bình lặng. Sau ba thập kỉ làm việc quần quật trong một nhà máy cao su, giờ đây ông dành hết những tháng ngày còn lại của cuộc đời với việc cho cá ăn, thay nước và đóng gói các đơn hàng cùng con trai. Rẽ vào một dãy các cửa hàng quen thuộc trên Jalan Medan Bersatu, ông trông thấy ngay cửa hàng cá cảnh Kuan vẫn còn đang đóng cửa. Nhưng ngay khi xuống khỏi xe máy và tiến lại gần cửa, ông phát hiện ổ khóa đã biến mất. Nâng tấm phên cửa lên, ông thận trọng bước vào không gian nhỏ hẹp, tối om với nhiều bể cá đang hắt ra ánh sáng mờ mờ từ những ngọn đèn neon. Khi mắt đã làm quen với bóng tối, ông trông thấy cửa hàng vẫn gọn gàng ngăn nắp, cá vàng và cá bảy màu vẫn lờ lững bơi trong bể của chúng. Thế nhưng khi bước tiếp, giày của ông giẫm lên lớp kính vỡ lạo xạo. Ông nhìn xuống và trông thấy một vệt thẫm đỏ trên sàn bê tông. Vệt máu này lại dẫn tới những vệt máu to hơn, dường như có một con thú bị thương đang cố trốn thoát bằng cả bốn chi. Điều mà người cha này tìm thấy ở cuối con đường ghê sợ này sẽ in dấu trong tâm trí ông và làm ông giật mình tỉnh giấc giữa đêm trong suốt phần đời còn lại: Cậu con trai yêu quý của ông đang nằm nát bấy trên mặt đất, bị đâm đến mười nhát. Anh đã chết - do bị chém một cách tàn bạo, cổ anh bị cứa đứt sâu đến nỗi đầu gần lìa hẳn ra. Ông già bắt đầu run rẩy không kiểm soát nổi trong lúc lảo đảo lao ra ngoài cầu cứu. Nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cảnh sát chẳng tìm thấy hung khí hay một dấu vân tay nào. Ví của nạn nhân vẫn còn nguyên trong túi quần, không mảy may mất gì. Chỉ duy nhất một thứ đã bị mất. Phía trên thân thể vô hồn của Chan Kok Kuan, những bể cá rồng trống trơn. Hơn hai mươi con cá rồng đã biến mất. Mời các bạn mượn đọc sách Con Rồng Trong Bể Kính của tác giả Emily Voigt & Orkid (dịch).
Bạc Mệnh
Lần đầu tiên sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville – tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize – giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm của một bệnh viện ngay trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh “cột chèo” của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân… *** Christine Falls (Bạc mệnh) là một cuốn tiểu thuyết pha trộn các thể loại: trinh thám, hình sự, phân tâm học... với những án mạng, ma túy, tình dục... Nhưng đó chỉ là bề mặt, mạch ngầm của tác phẩm là nỗi ưu tư, suy tưởng trước sự xô dạt của thời đại và sự lạnh lùng của con người. Cô y tá Brenad Ruttledge đang chuẩn bị lên đường tới Boston làm việc, một công việc hứa hẹn khiến cho túi tiền của cô rủng rỉnh thì đột nhiên nhận được lời đề nghị hết sức kỳ quái nhưng không thể từ chối từ bà y tá trưởng Moran đáng sợ. Bà ta muốn cô mang theo một đứa trể lên tàu cùng tất cả giấy tờ liên quan đến nó và giao lại cho viên quản lý tàu khi cô tới Southampton. Nhưng ngay cả Brenda cũng không ngờ rằng, cái gật đầu đó đã khiến cô phải sống trong sợ hãi suốt cuộc hành trình. Trong khi đó, tại khoa nghiên cứu bệnh học của Quirket nằm ở tầng hầm một bệnh viện ngay trung tâm thành phố, lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông. Cho đến một ngày, bữa tiệc chia tay y tá Breanda đã khiến Quirke ghé thăm phòng làm việc của mình giữa đêm hôm khuya khoắt. Tại đó, Quirke tình cờ bắt gặp ông anh cột chèo, người làm việc cùng khoa với ông, đang ở đó với một xác chết lạ, xác chết với bệnh án mang tên Christine Falls. Hơn thế nữa, chính người anh này đang cố tình xuyên tạc và giấu diếm nguyên nhân tử vong của nạn nhân. Sự tò mò đã thôi thúc nhà nghiên cứu bệnh học Quirke tìm hiểu và vô tình bị đẩy vào một thế giới ngầm của ma túy, tình dục, những sự sống bị coi rẻ... thế giới khác xa với thế giới ông đang sống. Có thể nói, Bạc Mệnh là cuốn tiểu thuyết trinh thám đầy tham vọng, mô tả cõi u ám của những bí ẩn và tính cách con người. *** Tài năng của tiểu thuyết gia Benjamin Black trong tiểu thuyết trinh thám 'Bạc mệnh' lại một lần nữa được giới chuyên môn đánh giá là đã phơi bày tội ác đến tận cùng, có thể sánh với mọi bi kịch cổ điển Hy Lạp. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Quirke. Ông làm việc tại Khoa nghiên cứu bệnh học nằm ở tầng hầm của một bệnh viện ngay trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn và tưởng như quá đỗi thân quen và chưa bao giờ vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày ông bắt gặp một xác chết lạ có tên Christine Falls, một xác chết có nhiều dấu hiệu bất thường ngay trong khoa của mình. Nhưng điều khiến Quirke bất bình hơn khi Mal (Malachy) - người anh em "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân bằng cách kết luận vào biên bản khám nghiệm tử thi: "Chết do tắc mạch phổi". Quirke là người làm việc trong ngành y nhiều năm, ông thừa biết rằng đây là căn bệnh rất khó xảy ra ở những người trẻ. Vậy cái chết này rõ ràng có nhiều uẩn khúc. Cuối cùng, Quirke đã hoá thân thành thám tử bất đắc dĩ. Cũng tại thời điểm Quirke đang đau đầu truy tìm thủ phạm thì bà Mogan đã bị sát hại. Thủ phạm muốn giết người bịt đầu mối? Câu chuyện với những "nút thắt" bất ngờ làm cho cuộc truy tìm trở nên hấp dẫn. Khả năng phơi bày đến chân tơ kẽ tóc động cơ u ám và sự bí ẩn của kẻ phạm tội không chỉ cho người đọc thấy tài viết văn trinh thám của Benjamin mà còn cho độc giả thấy tội ác đến tận cùng của kẻ thủ ác. Bạc mệnh là câu chuyện trinh thám viết cuộc sống của con người ở Dublin vào thập niên 1950, nhờ cách xây dựng và cảm thụ cốt truyện thông minh, sâu sắc mà Benjamin đã tái hiện đời sống con người ở cùng đất này với những trải nghiệm và cảm xúc sôi nổi, dữ dội và đầy tham vọng. Nhờ đó, tấn bi kịch trong cuốn tiểu thuyết này đã được bạn đọc... giải mã và đón nhận như một tác phẩm mang tầm cao mới trong văn chương. *** Tác giả Benjamin Black là bút danh của John Banville, nhà văn nổi tiếng người Ailen. Các tác phẩm của ông đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Man Booker Prize 2005 cho cuốn Biển Cả (The Sea). Hiện ông sống ở Dublin. Bộ 3 tác phẩm: Bạc Mệnh, Thiên Nga Bạc, Vượn Cáo *** Bạc Mệnh Lần đầu sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville - tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize - giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm một bệnh viện giữa trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ xuất hiện ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân... *** Thiên Nga Bạc Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng mổ xác khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Cũng như mọi khi, ông nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân bất ổn ấy. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, của tống tiền vài chết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. *** Vượn cáo John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mulholland hay còn gọi là Bill Lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mulholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ quãng đời trước, nhưng nói chung Glass hài lòng với hiện tại. Để có được thông tin về người bố vợ, Glass đã thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là "Vượn Cáo". Từ lúc ấy, cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, "Vượn Cáo" bị sát hại, Glass quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** May mà cô đi tàu chở thư lúc chập tối. Với cô, khởi hành lúc sáng sớm chẳng khác cực hình. Trong bữa tiệc tối qua, khi tìm thấy hũ rượu nặng, một sinh viên trường y bèn pha với nước cam ép. Vì uống hai ly nước ấy nên giờ miệng cô khô đắng, đầu nhức như búa bổ. Suốt buổi sáng, cô nằm bẹp trên giường, người vẫn còn ngầy ngật. Cô chỉ muốn thiếp đi một lát nhưng không được, chỉ nằm khóc với chiếc khăn tay nhét đầy miệng ngăn tiếng nức nở vang xa. Nghĩ đến việc buộc phải làm hôm nay, cô run sợ. Không, phải nói là khiếp đảm mới đúng. Đến cầu tàu ở Dun Laoghaire, cô quá kích động, không thể đứng yên một chỗ nên cứ đi tới đi lui hoài. Nghe lời họ dặn, cô cất hành lý trên khoang tàu thủy rồi trở xuống bến tàu đứng đợi. Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà cô lại nhận lời đề nghị của người ta. Trước đó, cô đã nhận được lời mời đến Boston làm việc và bây giờ thêm cả viễn cảnh sẽ có tiền tiêu rủng rỉnh. Tuy nhiên, cô biết trên tất cả là vì cô sợ bà y tá trưởng nên đã không dám chối từ khi bà đề nghị cô mang theo đứa bé. Kiểu nói chuyện của bà khiến người ta phải khiếp hãi, thậm chí ngay cả lúc tiếng bà khẽ khàng nhất. Hôm đó, bà trợn cặp mắt lồi nhìn cô và bảo: - Brenda này, ta muốn cô cân nhắc thật kỹ vì đây là một trọng trách to lớn. Cô gái như lạc vào một thế giới khác: lòng dạ nôn nao, mồm miệng khô đắng... Còn nữa, thứ cô đang mặc không phải bộ đồng phục y tá mà là bộ váy áo bằng len màu hồng cô mua để dành cho chuyến đi xa đặc biệt này. Bộ quần áo mặc lúc khởi hành, nhưng không phải để mặc sau đám cưới. Đồng thời, thay vì đi hưởng tuần trăng mật, cô sẽ dành hẳn một tuần chăm sóc hài nhi, trong lúc bên cạnh không hề có bóng dáng đức lang quân. Nghe cô nhận lời, nữ y tá trưởng cười nửa miệng trông còn kinh khiếp hơn cả cặp mắt như sắp nhảy khỏi tròng của bà. - Cô thật tốt bụng, Brenda ạ. Cầu Chúa phù hộ cho cô. Phải, cô chỉ còn biết cầu khẩn Đấng Tối Cao che chở. Cô thiểu não nhủ thầm: Tối nay, cô cùng đứa bé lênh đênh trên thuyền. Suốt ngày mai, họ sẽ rong ruổi đường trường, đi xe lửa đến tận Southampton. Tiếp theo là năm ngày vượt biển và sau đó, có trời biết còn những gì nữa. Cô chưa bao giờ xa nơi chôn nhau cắt rốn, đến một xứ sở hoàn toàn xa lạ, ngoại trừ có một lần, hồi cô còn bé tí, cha cô có đưa cả nhà đi chơi một ngày tại đảo Man. Chiếc xe hơi đen bóng loáng nhích từng chút giữa đám đông hành khách đang chuẩn bị xuống con tàu nhỏ. Khi còn cách chỗ cô đứng khoảng mười bước chân, xe dừng bánh. Cánh cửa hàng ghế sau bật mở. Một bà tay xách túi bằng vải bạt, tay kia ôm một bọc cuốn chăn kín. Bà không còn trẻ, khoảng sáu mươi tuổi nhưng ăn mặc như người bằng nửa tuổi bà: bộ vest xám bó sát, váy ôm chỉ dài ngang ống chân, chiếc thắt lưng siết chặt ngang eo khiến mỡ bụng phồng lên ngay phía dưới bản rộng của dây lưng. Bà đội chiếc nón nhỏ xíu có mạng màu xanh dương sẫm buông ngang sống mũi. Ngất ngưởng đi ngang qua vỉa hè lát đá trên đôi giày gót nhọn hoắt, bà mím cặp môi tô son đỏ choét trông như đang cố nặn một nụ cười. Cặp mắt đen của người này nhỏ xíu, ánh mắt sắc như dao. Bà mở lời: - Cô là Ruttledge phải không? Tôi là Moran đây. Giọng nói ỏn ẻn cũng giả tạo, y hệt mọi thứ còn lại thuộc về bà. Bà ta trao túi cho cô và nói: - Trong này có đầy đủ tã lót và vật dụng cho đứa nhỏ, kèm cả giấy tờ của nó. Khi lên tàu ở Southampton, cô hãy đưa cho viên quản lý tàu. Ông ta sẽ biết ngay thôi. Bà nheo mắt soi mới nhìn Brenda, biến cặp mắt đen thành hai đường kẻ nhỏ. - Cô làm sao thế? Trông cô xanh lắm. Brenda bèn chống chế, bảo rằng cô khỏe, chỉ tại đêm qua cô thức khuya. Bà Moran cười nhạt, chìa bọc chăn. - Chắc tại "ly sầu tiễn đưa" nên mới ra nông nỗi? Đây, bồng đi. Cẩn thận, kẻo tuột tay đánh rơi nó thì mang họa. (Bà cười sợ sệt, đoạn nhíu mày như tự trách mình đùa quá trớn). Tôi xin lỗi. Điều đầu tiên khiến Brenda ngạc nhiên là cái bọc kia nóng sực, như thể người ta bọc cục than cháy đỏ trong chăn. Chỉ có điều “cục than” này mềm và động đậy. Khi ôm chiếc bọc trước ngực, lòng dạ cô gái nôn nao. - Ôi! Cô kêu lên vì ngạc nhiên, vui sướng. Bà Moran vẫn chưa ngừng nói nhưng cô không còn nghe thấy gì nữa. Có con mắt nhỏ xíu, ươn ướt từ mép chăn nhìn ra với vẻ thờ ơ, không thèm quan tâm chuyện gì đang diễn ra quanh mình. Brenda nghẹn ngào, nước mắt chỉ chực trào tuôn. - Cảm ơn ạ. Cô chỉ nói được có thế dù không biết mình đang cảm ơn ai và vì cái gì. Bà Moran nhún vai, cười nửa miệng. - Chúc may mắn đấy. Đoạn bà bươn bả trở lại xe, gót giày cao gót nện mạnh như muốn chọc thủng mặt đường. Vào xe, sập mạnh cửa xong, bà lẩm bẩm: - Thế là xong việc. Nhìn qua cửa kính, bà thấy Brenda Ruttledge vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mê mẩn nhìn xuống bọc chăn, quên hẳn chiếc túi du lịch chơ vơ dưới chân. Bà cay đắng: - Gớm! Cô ta tưởng mình là Đức Mẹ Đồng Trinh chắc! Không bình luận gì thêm, bác tài chỉ khởi động xe trước khi phóng vọt đi. Mời các bạn mượn đọc sách Bạc Mệnh của tác giả Benjamin Black & Vũ Kim Dung (dịch).