Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khuôn mặt Quảng Ngãi - Phạm Trung Việt

[PDF] Khuôn mặt Quảng Ngãi - Phạm Trung Việt | TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

[PDF] Khuôn mặt Quảng Ngãi - Phạm Trung Việt | TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

TRUYỆN CỔ NƯỚC NAM - ÔN-NHƯ NGUYỄN VĂN NGỌC
Xưa có một anh chàng ngu dại quá mà yêu thương vợ cũng quá. Gặp khi vợ đang nằm bếp anh cứ lại luôn bên giường hỏi : « Mình ăn gì ? Mình ăn gì để tôi mua ». Xưa có một anh chàng ngu dại quá mà yêu thương vợ cũng quá. Gặp khi vợ đang nằm bếp anh cứ lại luôn bên giường hỏi : « Mình ăn gì ? Mình ăn gì để tôi mua ».Đang lúc mệt không buồn nói, lại được ông chồng cứ kè kè hỏi đi, hỏi lại mãi vợ tức mình, khùng lên đáp rằng : « Ăn gì ? Ăn gì ? Ăn cái con tù lì ». Chồng nghe nói, ngỡ thật, vội vàng đi kiếm được tám tiền, xăm xăm ra chợ để mua tù lì. Đi khắp chợ dưới, chợ trên, chợ đông, chợ đoài, thấy ai bán con gì cũng hỏi, nhưng không thấy ai nói là bán tù lì cả. Chiều đã xế bóng, trong bụng đang băn khoăn, không biết mua đâu cho ra tù lì, thì chợt nó trông thấy bên đường có một con sông nước trong leo lẻo. Nó liền cởi khố để trên bờ, rồi nhảy xuống sông tắm. Lúc tắm xong lên, thì cái khố không cánh đã bay đi đằng nào mất. Nó hốt hoảng cứ tồng ngồng thế đi tìm khố. Đi vào làng kia, nó thấy một người đang cầm cái cờ đi dẫn đám ma. Quáng mắt, nó tưởng cái khố của nó, nó mởi rảo cẳng chạy lại kêu to lên rằng : « Cha tổ bây ! Ơi bây ! Sao dám lấy khố của ông mà dẫn người chết ? » Nhà đám thấy thằng láo xược, bảo nhau đánh nó. Nó ù té chạy về nhà, vừa khóc, vừa mếu, kể lể với vợ rằng : « Tôi đem tiền đi mua tù lì về cho u nó ăn. Tù lì mua chẳng được, tôi cởi khố xuống sông, tôi tắm mát. Thì đến lúc lên, cái khố của tôi nó mất biến đi đâu mất. Tôi vào làng kia, tìm khố thì chẳng may bị người một nhà đám nó đánh tôi đau lắm… » Vợ hỏi : « Khổ chưa ! Sao lại để nó đánh cho ? » Chồng vừa quệt nước mắt, vừa nói : « Tôi tưởng nó lấy khố của tôi, nó làm cờ dẫn ma, nên tôi chửi nó, tôi đòi lại ». ... Đang lúc mệt không buồn nói, lại được ông chồng cứ kè kè hỏi đi, hỏi lại mãi vợ tức mình, khùng lên đáp rằng : « Ăn gì ? Ăn gì ? Ăn cái con tù lì ». Chồng nghe nói, ngỡ thật, vội vàng đi kiếm được tám tiền, xăm xăm ra chợ để mua tù lì. Đi khắp chợ dưới, chợ trên, chợ đông, chợ đoài, thấy ai bán con gì cũng hỏi, nhưng không thấy ai nói là bán tù lì cả.Chiều đã xế bóng, trong bụng đang băn khoăn, không biết mua đâu cho ra tù lì, thì chợt nó trông thấy bên đường có một con sông nước trong leo lẻo. Nó liền cởi khố để trên bờ, rồi nhảy xuống sông tắm.Lúc tắm xong lên, thì cái khố không cánh đã bay đi đằng nào mất. Nó hốt hoảng cứ tồng ngồng thế đi tìm khố. Đi vào làng kia, nó thấy một người đang cầm cái cờ đi dẫn đám ma. Quáng mắt, nó tưởng cái khố của nó, nó mởi rảo cẳng chạy lại kêu to lên rằng : « Cha tổ bây ! Ơi bây ! Sao dám lấy khố của ông mà dẫn người chết ? »Nhà đám thấy thằng láo xược, bảo nhau đánh nó. Nó ù té chạy về nhà, vừa khóc, vừa mếu, kể lể với vợ rằng : « Tôi đem tiền đi mua tù lì về cho u nó ăn. Tù lì mua chẳng được, tôi cởi khố xuống sông, tôi tắm mát. Thì đến lúc lên, cái khố của tôi nó mất biến đi đâu mất. Tôi vào làng kia, tìm khố thì chẳng may bị người một nhà đám nó đánh tôi đau lắm… »Vợ hỏi : « Khổ chưa ! Sao lại để nó đánh cho ? »Chồng vừa quệt nước mắt, vừa nói : « Tôi tưởng nó lấy khố của tôi, nó làm cờ dẫn ma, nên tôi chửi nó, tôi đòi lại »....
NAM HẢI DỊ NHÂN LIỆT TRUYỆN - PHAN KẾ BÍNH
Nam Hải dị nhân liệt truyện của Phan Kế Bính (1875 – 1921) là một bộ sưu tập nổi tiếng về các truyền tích, dã sử ở nước ta.Truyện những người kỳ lạ ở đất Nam Hải. Bằng một lối văn kể chuyện thật sinh động, tác giả đã giúp ta ôn lại lịch sử dân tộc thông qua chuyện kể về các nhân vật lịch sử tiêu biểu. Đọc Nam Hải dị nhân, người đọc còn tìm thấy ở đây nghĩa khí hào hùng của dân tộc, những tấm gương cảm động về lòng hiếu thảo, chí phấn đấu học tập và những tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam thể hiện trong cung cách ứng xử cùng phong tục tập quán. Bên cạnh đó, độc giả cũng sẽ được thưởng thức những câu chuyện tình tứ không kém phần thơ mộng, với nhiều tình tiết thật ly kỳ hấp dẫn, như truyện Tiên Dong và Sử Đồng Tử, truyện Từ Thức v.v… 
CHUYỆN NÀNG TÔ THỊ
Ngày xưa, ở thị trấn kinh bắc có một người đàn bà góa chồng từ sớm, ngày ngày đi mò cua, bắt ốc để nuôi hai con, một trai, một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa con trai độ mười tuổi và Tô Thị, con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa nghịch với nhau, không ai kiềm chế nổi.Một hôm, Tô Văn chơi ném đá, rồi không biết thế nào ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy thẳng một mạch ra đường không còn dám ngoái cổ lại. May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm biết chuyện chạy sang cứu Tô Thị cầm được máu. Đến khi người mẹ trở về thì con gái đã ngồi dậy được.Nhưng còn Tô Văn thì biệt tăm, ngày một ngày hai cũng không thấy trở về, tìm khắp nơi mà không thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi qua đời, bỏ lại Tô Thị một mình. Đứa con gái nhỏ được hai vợ chồng người láng giềng nhận đem về nuôi. Sau đó ít lâu, họ dời lên xứ Lạng để làm ăn nên đem Tô Thị đi theo.Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít vốn, nàng xin phép bố mẹ cho nàng được mở một cửa hàng buôn bán, hai vợ chồng người hàng xóm thấy con mình đã trưởng thành nên đều ưng thuận. Học được nghề làm nem từ bố mẹ, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở hàng cưa tại chợ Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến thưởng thức nem ngon, nhưng cũng có người vừa thích nem lại vừa yêu bóng yêu gió nàng. Chiều khách thì thật là khéo chiều, nhưng nàng rất đứng đắn làm cho mọi người càng thêm vị nể.Thấm thoát Tô Thị đã hai mươi tuổi. Tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.Một hôm, có một thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở hàng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon lại có chỗ cho trọ rộng rãi, chàng thanh niên liền tìm đến. Chàng thấy nem quả thật là ngon và cô bán hàng cũng thật tươi giòn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân thiết, trước còn mến, sau yêu nhau. Hai người lấy nhau được hơn một năm thì Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực. Lại thêm mụn con mối tình càng khăng khít.Một hôm người chồng về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cái sẹo to, anh nói:– Đầu em có cái sẹo to, thế mà bây giờ anh mới biết.– Bây giờ anh mới biết à? Anh cho là xấu phải không? – Tô Thị hỏi.– Có xấu gì đâu! Tóc che, có ai mà biết! Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to thế?Thấy chồng hỏi một cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện. Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những gì xảy ra hồi còn bé. Trấn kinh bắc, nơi quê cũ, người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn đấy cho đến bây giờ. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn.Biết bao đau thương buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm: “Sao mình không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn. Thôi mình đã lấy nhầm em ruột rồI”. Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng đã lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đã đi lang thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lý. Chàng thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn – Cao Bằng – Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đình ở miền xuôi chắc không còn một ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không còn nghĩ về đó làm gì.Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên, không biết chồng mình đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngây thơ, vui vẻ như thế. Tô Văn càng không muốn cho nàng biết sự thực. Ai lại để cho một người em gái mình còn non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân như thế bao giờ! Một việc loạn hôn không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi hay lại đi biệt chuyến nữa, em gái mình trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm gì chả lấy được một người chồng khác. Văn nghĩ thế, rồi anh tìm cách để đi.Giữa lúc tâm trạng Văn như thế thì có việc bắt lính thú. Anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Mãi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói với vợ:– Anh đã đăng lính rồi, em ạ! Sớm mai lên đường. Đi chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn. Em ở nhà nuôi con, còn về phần em, em cứ định liệu.Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng mình lại bỏ đi một cách quái gở như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc mãi không nói nửa lời. Còn Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc mình đi như vậy là giải thoát.Từ ngày chồng đi rồi. Tô Thị chẳng thiết gì đến việc bán hàng, ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng đi được bình yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum họp. Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định chối từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con còn thơ dại không dám chối từ ngay, sợ rước vạ vào thân nên tìm cách khất lần. Nhưng khất lần mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng hẹn với lão một kỳ hạn, để sau này tìm mưu kế khác. “Biết đâu đến ngày ấy chồng mình lại chả về!”, nàng nghĩ thế. Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ con mắt mà vẫn không thấy về cho. Nàng ôm con lên chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp lóe khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một lớn. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa ánh sáng xuống núi rừng. Rất nhiều người dân xung quanh khi nhìn lên đỉnh núi thì thấy nàng Tô Thị bế con đã hóa đá từ bao giờ. Ngày nay hòn đá ấy vẫn còn ở tỉnh Lạng Sơn, gây cho khách tham quan nhiều nỗi vấn vương khi nhớ lại câu chuyện truyền kỳ éo le của một thời. Vẫn còn đó câu ca dao xưa:“Đồng Đăng có phố Kỳ LừaCó nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”
CHƠI CHỮ (1970) - LÃNG NHÂN
“Nghề chơi cũng lắm công phu” , huống hồ chơi… chữ! “Nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ chơi… chữ!Chơi chữ , đối với nhà nho, cần phải có những yếu tố mà nhiều người không gom được đủ: có học đã đành, nhưng lại còn phải có tài. Chơi chữ , đối với nhà nho, cần phải có những yếu tố mà nhiều người không gom được đủ: có học đã đành, nhưng lại còn phải có tài.Chơi chữHọc có hàm – xúc, mới biết dùng chữ cho rành rẽ, dùng điển cho đích đáng, khiến câu văn ít lời mà nhiều ý; tài có mẫn tiệp, mới lĩnh hội được mau lẹ những nét trội trong một cảnh huống, và diễn xuất một cách nhanh chóng , hồ như là tự nhiên. Học có hàm – xúc, mới biết dùng chữ cho rành rẽ, dùng điển cho đích đáng, khiến câu văn ít lời mà nhiều ý; tài có mẫn tiệp, mới lĩnh hội được mau lẹ những nét trội trong một cảnh huống, và diễn xuất một cách nhanh chóng , hồ như là tự nhiên. Trong văn chương ta, có nhiều lối chơi chữ : thơ, phú, câu đối, tập Kiều, ứng dụng lối nào là tùy theo tình, theo cảnh, theo cách cấu tứ mà nguồn cảm hứng của nhà văn. Trong văn chương ta, có nhiều lối chơi chữ : thơ, phú, câu đối, tập Kiều, ứng dụng lối nào là tùy theo tình, theo cảnh, theo cách cấu tứ mà nguồn cảm hứng của nhà văn.lối chơi chữNhững lúc tửu hậu trà dư, những khi đối cảnh sinh tình, nhà nho gặp những tình tiết đáng cười đáng bỉ, thường thốt ra lời văn, ngụ ý mình và răn đời. Những lúc tửu hậu trà dư, những khi đối cảnh sinh tình, nhà nho gặp những tình tiết đáng cười đáng bỉ, thường thốt ra lời văn, ngụ ý mình và răn đời.Văn tuy gọi là chơi, song lắm khi có bao hàm sâu sắc, và bao giờ cũng đặt công dụng vào hai chữ cảnh tỉnh. Văn tuy gọi là chơi, song lắm khi có bao hàm sâu sắc, và bao giờ cũng đặt công dụng vào hai chữ cảnh tỉnh.Thú chơi chữ, ngày nay không mấy ai ham chuộng nữa. Ta tiêu khiển bằng chớp bóng, bằng cải lương, nếu không bằng bài bạc, bằng du lãm là những lối tiêu khiển giản dị hơn và cũng dễ thưởng thức hơn. Thú chơi chữ, ngày nay không mấy ai ham chuộng nữa. Ta tiêu khiển bằng chớp bóng, bằng cải lương, nếu không bằng bài bạc, bằng du lãm là những lối tiêu khiển giản dị hơn và cũng dễ thưởng thức hơn.Đành rằng năng khiếu trào lộng của dân tộc là một thiên tư không bao giờ mất được: nếu nó không diễn xuất bằng cách này, ắt nhiên nó cũng sẽ diễn xuất bằng cách khác. Nhưng dù sao, lối chơi chữ cũng đã như lỗi thời rồi. Vì thế, chúng tôi tưởng chép lại vài câu văn cũ gọi là nhắc lại lối tiêu khiển của người xưa, âu cũng là một cách giữ lại trên giấy mực một cái gì sắp mất, một cái gì không có cơ tồn tại, một cái gì khi mất đi sẽ không trở lại được nữa, dưới cái sắc thái cũ kỹ, chất phác mà không thiếu thú vị của nó. Đành rằng năng khiếu trào lộng của dân tộc là một thiên tư không bao giờ mất được: nếu nó không diễn xuất bằng cách này, ắt nhiên nó cũng sẽ diễn xuất bằng cách khác. Nhưng dù sao, lối chơi chữ cũng đã như lỗi thời rồi. Vì thế, chúng tôi tưởng chép lại vài câu văn cũ gọi là nhắc lại lối tiêu khiển của người xưa, âu cũng là một cách giữ lại trên giấy mực một cái gì sắp mất, một cái gì không có cơ tồn tại, một cái gì khi mất đi sẽ không trở lại được nữa, dưới cái sắc thái cũ kỹ, chất phác mà không thiếu thú vị của nó.Người xưa – nói người xưa nghe như xa xôi lắm rồi, mặc dầu đây chúng tôi chỉ chép được những câu văn từ đầu thế kỷ trở lại, song khoảng ba bốn mươi năm thời tiền chiến là giai đoạn cuối cùng của Hán học có thể tiêu biểu cho cả ngàn năm theo chữ Hán, mà lối chơi chữ là một diệu thú, bởi vậy nói người xưa tuy nghe như xa nhưng thực cũng là gần – người xưa dường như để cả thời giờ và tâm trí vào việc văn chương, nên dù trong lúc tiêu nhàn khiển muộn, cũng lại quay vào văn chương. Người xưa – nói người xưa nghe như xa xôi lắm rồi, mặc dầu đây chúng tôi chỉ chép được những câu văn từ đầu thế kỷ trở lại, song khoảng ba bốn mươi năm thời tiền chiến là giai đoạn cuối cùng của Hán học có thể tiêu biểu cho cả ngàn năm theo chữ Hán, mà lối chơi chữ là một diệu thú, bởi vậy nói người xưa tuy nghe như xa nhưng thực cũng là gần – người xưa dường như để cả thời giờ và tâm trí vào việc văn chương, nên dù trong lúc tiêu nhàn khiển muộn, cũng lại quay vào văn chương.Hoặc làm câu đối dán cửa  để tỏ chí mình thường hoài bão hoặc họp bạn uống rượu ngâm thơ hoặc làm câu hát cho ả đào phả vào đàn phách… Cũng nhờ có những cuộc tiêu khiển ấy mà kho văn chương các cụ để lại  mới dần dần thành phong phú dồi dào. Hoặc làm câu đối dán cửa  để tỏ chí mình thường hoài bão hoặc họp bạn uống rượu ngâm thơ hoặc làm câu hát cho ả đào phả vào đàn phách… Cũng nhờ có những cuộc tiêu khiển ấy mà kho văn chương các cụ để lại  mới dần dần thành phong phú dồi dào.làm câu đối dán cửakho văn chương các cụ để lạiThường thì cuộc hội hữu trở nên hào hứng là khi có thời sự giúp đề tài, khiến cho cái khiếu trào lộng bị kích thích, rồi trong những chuỗi cười dồn dã, có khi nảy ra một đôi phút xuất thần mà thành “nhả ngọc phun châu”. Thường thì cuộc hội hữu trở nên hào hứng là khi có thời sự giúp đề tài, khiến cho cái khiếu trào lộng bị kích thích, rồi trong những chuỗi cười dồn dã, có khi nảy ra một đôi phút xuất thần mà thành “nhả ngọc phun châu”.Loại thời sự hay được làm đầu đề cho cuộc chơi chữ , là những dịp khánh điếu. Ăn khao hay đưa đám là những dịp cho nhà nho lên tiếng phẩm bình. Loại thời sự hay được làm đầu đề cho cuộc chơi chữ , là những dịp khánh điếu. Ăn khao hay đưa đám là những dịp cho nhà nho lên tiếng phẩm bình.đầu đề cho cuộc chơi chữ(Cười cợt mà sửa lại phong hóa – Tiêu ngữ La Tinh) (Cười cợt mà sửa lại phong hóa – Tiêu ngữ La Tinh)