Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng

Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Chìa Khóa
Vẫn motif cuộc tình tay ba tay tư tuy không rối ren như Chữ vạn nhưng lại bệnh hoạn khó hiểu hơn Chữ vạn. Một ông chồng liệt dương lại đi ráp với 1 cô vợ bề ngoài thuỳ mị nết na nhưng ẩn chứa bên trong là một người đàn bà - nói thế nào cho đúng nhỉ ? - đúng là dâm đãng vô độ - nhưng từ này là từ tiêu cực chỉ để chỉ phụ nữ lăng loàn - còn từ điển của chúng ta chẳng có một từ nào để thể hiện cái gọi là “bản chất tình dục mạnh mẽ” của một người phụ nữ. Vậy mới thấy Việt Nam và cả phương Đông nói chung vẫn còn kì thị phụ nữ lắm lắm, và cái quan điểm này như một cái bẫy trói chặt người phụ nữ Á đông vào một khuôn khổ ngàn đời là lúc nào cũng phải “thuỳ mị”, “kín đáo”...mới là người phụ nữ đích thực . Nữ chính trong Chiếc Chìa Khóa ở trong 1 cái bẫy như vậy đó, nàng xinh đẹp và tràn đầy sức sống, bản thân nàng nhận thấy mình “hiếu dâm”, nhưng nàng không biết phải làm sao, vì đó là bản năng cửa nàng, nàng cũng rất đau khổ vì nàng là con nhà gia giáo, yêu chồng nhưng chồng lại khiến nàng không thỏa mãn, một mặt nàng khao khát ái tình, mặt khác lại luôn tỏ ra nết na thuỳ mị và ghê tởm mọi hành động ái tình mà chồng bày ra. Người chồng yêu vợ và hiểu vợ đã bày ra trò viết nhật ký, tuy bề ngoài là giấu diếm nhưng lại cố tình để chìa khoá cho vợ nhìn thấy và mở đọc, rồi người vợ muốn đáp lại chồng và muốn giải phóng bản thân, cũng ghi nhật ký để bày tỏ với chồng những ước muốn thầm kín của mình... Chuyện nếu chỉ có vậy thì cũng còn dễ hiểu , nhưng câu chuyện đã vượt quá xa sự hiểu biết tầm thường của mình về ái tình nam nữ, khiến mình cảm thấy bệnh hoạn và không thực. Mặc dù trước giờ đã đọc nhiều sách Nhật, biết về văn hóa Nhật tuy cũng là văn hoá Á đông nhưng rất khác biệt với Việt nam hay Trung hoa, nhưng motif cuốn sách này quả thực là quá quá khác biệt ???? đến nỗi mình không hiểu ông chồng lẫn bà vợ nghĩ gì khi bày ra trò chơi ái tình như vậy. Mình có nên kể ra mọi trò ấy ở đây không nhỉ ? Hay là cứ úp mở để mọi người tìm đọc cho hấp dẫn nhỉ ? Hehe, dù sao cốt chuyện cũng bình thường thôi, chỉ có văn tả thực hơi sock tí, dâm thư chỉ dành cho trẻ em trên 25 tuổi nha. *** Tanizaki Jun’ichirō (24/7/1886 - 30/7/1965) là một thiên tài văn chương với một văn nghiệp đồ sộ. Ông là người kể chuyện có duyên nhất trong những cây viết tiền chiến, nội dung các tác phẩm của ông phần nhiều khai thác cảnh sống hoan lạc, đồi phế của xã hội cũ đang suy tàn và miền sâu thẳm phong kín của địa ngục nội tâm con người muôn thuở. Văn chương Tanizaki vừa thâm trầm, cổ kính, vừa bóng bẩy, diễm tình, vừa đồi phế bệnh hoạn nhưng không kém phần tinh tế. Một số tác phẩm Tình Khờ Xâm mình (1910) Chữ Vạn (1928) Truyện Shunkin (1933) Con mèo, Shōzō và hai người đàn bà (1936) Chiếc Chìa Khóa (Hai cuốn nhật ký) (1956) Nhật ký giả điên (1961) Mong Manh Hoa Tuyết Nhật Ký Già Si ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Chìa Khóa của tác giả Tanizaki Junichiro.
Bóng Tối Thời Con Gái
Nhã Ca tên thật là Trần Thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế. Từ 1960 chuyển vào sống tại Saigon. Xuất hiện lần đầu trên tạp chí Hiện Đại số ra mắt với 3 bài thơ: Bài Nhã Ca Thứ Nhất, Ngày Tháng Trôi Đi và Thanh Xuân, bút hiệu Trần Thy Nhã Ca đã để lại một ấn tượng sâu sắc.           Thực ra, Nhã Ca đã có thơ, văn đăng từ rất sớm, trên tờ Văn Nghệ Học Sinh của Lê Bá Thảng, khoảng giữa thập niên 1950, với bút hiệu khác. Khi đó, nhà thơ Trần Dạ Từ, người bạn đời của bà sau này, phụ trách phần bài vở.   Trong 15 năm, từ 1960 đến ngày 30-4-1975, bà đã xuất bản 36 tác phẩm. Hai lần được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc. Lần thứ nhất, năm 1965 với thi phẩm “Nhã Ca Mới”. Lần thứ hai, 1966, với truyện dài “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác”.  Nhã Ca Mới ấn hành năm 1964 với Nguyên Sa đề tựa, Dương Nghiễm Mậu viết bạt, Nghiêu Đề vẽ bìa, Duy Thanh, Nguyễn Trung vẽ chân dung, Đằng Giao, Cù Nguyễn, Viên Linh vẽ phụ bản. Tập thơ đã được trao giải Thi Ca Toàn Quốc. Trong số các tác phẩm của Nhã Ca, “Giải Khăn Sô Cho Huế” viết về biến cố tết Mậu Thân 1968 tại Huế, đã khiến bà bị nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội giam cầm một thời gian và đưa bà - nữ tác giả duy nhất - vào danh sách 10 “Biệt kích văn hóa” ác ôn nhất ở Miền Nam Việt Nam cùng với Mai Thảo, Duyên Anh, Chu Tử, Nguyễn Mạnh Côn, v.v… Sau đó,  Nhã Ca được mô tả  thành "nhân vật phản diện" trong tiểu thuyết điệp báo đăng nhiều kỳ trên báo Công An, rồi được in thành sách, dựng thành phim "Vụ Án Hồ Con Rùa". Bà là nhà văn miền Nam đầu tiên và sớm nhất có tác phẩm được dịch qua 2 ngoại ngữ Pháp và Anh. Đó là các cuốn “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác” được Liêu Trương dịch sang tiếng Pháp với nhan đề “Le cannon tonnent la nuit” và cuốn “Đoàn Nữ Binh Mùa Thu” được Barry Hilton dịch sang tiếng Anh với tựa đề “The Short Times”. Từ tháng 9-1988, bà cùng chồng là nhà thơ Trần Dạ Từ và các con rời Việt Nam sang Thụy Điển, nhờ sự can thiệp của P.E.N International và sự bảo lãnh trực tiếp của Thủ Tướng Thụy Điển Ingvar Karlsson. Từ 1992, định cư tại California, tiếp tục viết văn làm báo, cùng chồng sáng lập và điều hành hệ thống Việt Báo Daily News tại Hoa Kỳ. *** NĂM tôi mười bẩy thì chị Hiền lấy chồng. Chị Hiền lấy anh Thân, một giáo sư tư thục. Anh Thân người Bắc, hơi già so với tuổi chị Hiền, nhưng được cái dáng điệu nhanh nhẹn, trẻ trung. Dĩ nhiên tôi cũng ở chung với anh chị, vì chúng tôi không còn bố mẹ. Anh Thân cũng là người mồ côi sớm giống như chị em chúng tôi. Anh di cư vào đây một mình, có một ít chú bác nhưng cũng ít liên lạc. Cuộc sống chung của chúng tôi vì thế cũng dễ chịu. Hai chị em tôi vốn sống đùm bọc nhau từ nhỏ. Tôi không nhìn thấy mặt thầy mẹ tôi bao giờ nhưng theo chị Hiền thì tôi giống mẹ tôi lắm ; còn chị thì giống thầy tôi. Tôi cũng nghĩ như vậy vì hai chị em tôi đều không giống nhau cả về khuôn mặt cũng như tâm tính. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng tôi ít thương yêu nhau. Tôi thương và hết sức nghe lời chị Hiền. Mặc dầu tôi đã mười bẩy tuôi, nhưng đối với chị, tôi còn như một con bé lên mười, lên mười hay lên chín cũng vậy. Chị Hiền có một tính dễ làm tôi khó chịu là không hay nói. Mỗi khi tôi có lỗi, chị chỉ lạnh lùng với tôi và cử chỉ lạnh nhạt đó làm tôi đau đớn còn hơn những vết roi quất. Nhưng từ năm tôi mười bảy và chị lập gia đình với anh Thân rồi thì chị dịu dàng với tôi hơn. Anh Thân cũng rất vui tính. Có lẽ anh cũng rất thương mến tôi nhưng ít khi có dịp biểu lộ tình thương ấy vì tôi đã lớn… Ngày trước, khoảng hai năm trước đó, khi quen và yêu chị Hiền, anh vẫn thường dẫn tôi đi ăn kem, đi xi nê, hoặc tới thăm các bạn bè của anh, nhưng bây giờ thì không. Nhiều lúc, tôi cũng thấy là tôi đã mất luôn chị Hiền, vì chị là một người vợ tốt, thích chiều chuộng chồng và để hết tâm trí vào gia đình. Ngôi nhà chúng tôi ở có hai phòng ở dưới và một căn gác nhỏ phía sau. Kiểu nhà thông thường ở Sàigòn, nhưng sang được một căn ở khu sạch sẽ, yên tĩnh như khu chúng tôi ở không phải là dễ. Tôi chiếm căn gác phía sau và sống một mình hầu như riêng biệt trên đó. Sự riêng biệt cũng nhiều khi làm tôi tủi thân, nhất là khi chị Hiền mang thai. Khi nghe tin chị có thai, tôi thấy tình thương còn lại ở chị Hiền dành cho tôi như mất thêm đi một nửa. Có điều đặc biệt là từ đó anh Thân thường hay vắng nhà hơn trước. Nhưng chị Hiền không buồn. Chị nói với tôi là anh ấy cần phải làm việc nhiều hơn vì sắp làm cha. Gia đình, trong những ngày chị Hiền mang thai, có phần vui vẻ hơn. Anh Thân, chị Hiền đều có vẻ rạng rỡ và tôi chắc anh chị đều vui vẻ thật tình. Anh Thân có nhiều bạn lắm. Thường thường chủ nhật họ hay kéo lại nhà ăn uống, hội họp, bởi chị Hiền làm thức ăn khéo léo nên các buổi hội họp rất vui. Với lại tính anh Thân vốn cởi mở, yêu thích bè bạn. Nhưng tôi thì không thích những ồn ào đó. Trong khi dưới nhà ăn uống vui vẻ, tôi rúc đầu trên căn gác đọc tiểu thuyết. Tôi cũng rất thích viết văn và ưa trở thành văn sĩ. Tôi tập viết đủ loại nhưng tôi không thành công về mặt này. Cuối cùng tôi xoay ra tập vẽ và muốn trở thành một họa sĩ. Thật bất ngờ, tôi có vẻ thành công hết sức về mặt này. Anh Thân cũng như chị Hiền đều không đề ý tới những việc tôi làm. Lần đầu tiên trông thấy một bức tranh bột màu trên căn gác của tôi, anh ngạc nhiên, hỏi : - Hạnh vác bức tranh này ở đâu về vậy ?   Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thời Con Gái của tác giả Nhã Ca.
Thả Mồi Bắt Bóng
Nhà văn Võ Văn Trực sinh năm 1936 tại làng Hậu Luật, tỉnh Nghệ An. Cầm bút từ những năm sáu mươi, ông viết nhiều thể loại: thơ, văn, bút ký và biên khảo. Tác giả nhiều tập thơ trong đó có Trăng phù sa, được giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội năm 1983; nhưng chính hai cuốn tiểu thuyết Chuyện làng ngày ấy (viết năm 1990, in ra bị tịch thu ngay, được nhà xuất bản Lao Động tái bản tại Hà Nội năm 2005, và báo Văn Học California in nhiều kỳ và xuất bản thành sách năm 2006) và cuốn Vết sẹo và cái đầu hói, (nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, in năm 2006) đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. *** Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường. Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh.   Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987.  Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996).  Mời các bạn đón đọc Thả Mồi Bắt Bóng của tác giả Võ Văn Trực.
Chuyện Làng Ngày Ấy
Cùng tác giả Cọng rêu dưới đáy ao Câu chuyện chân thực và xúc động về làng quê Việt Nam thời kỳ cải cách ruộng đất *** Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường. Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh.   Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987.  Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996). *** - Bác Chắt Kế đã về! - Bác Chắt Kế đã về!   Lũ trẻ chúng tôi đang chăn trâu dưới đồng Lao thì cái tin ấy truyền đến. Lời truyền chỉ thì thầm từ tai đứa này qua tai đứa khác, không thành tiếng, nhưng truyền đi rất nhanh. Chỉ chốc lát là tất cả chúng tôi sững sờ, bỏ mọi cuộc chơi. Đứa đang chơi khăng, bỏ hồn củ lăn long lóc. Đứa đang chơi “dọn cỗ thi”, bỏ vầy và cỏ gà, cỏ sữa trong lòng nón. Đứa đang tắm cho nghé cũng bỏ mặc đấy. Tất cả đúng túm tụm lại, bàn tán với những vẻ mặt đầy quan trọng: - Bác Chắt Kể về thật rồi à? - Về thật! Nhật thua Tây thua thì bác Chết Kế mới được về chú? - Sao hôm qua bang Trân vào nhà tao bắt nộp lúa tạ? - Trốn về thì sao? - Nếu bác Chắt Kế về thật thì ta sắp sung sướng rồi! Một đứa nhỡ mồm suýt reo to bị thằng Bá giơ tay bịt chặt mồm lại: - Chết! Chết! Mày lau chau nói ra, mất cái đội nón như chơi! Bỗng ông tuần Chư từ xa đi tới, chúng tôi xì xào: “Ông tuần Chư là người của nó”, rồi lảng mỗi đứa một nơi. Thằng Bá làm ra vẻ đàn anh, nhảy nhóc lên lưng trâu, hát nghêu ngao một bài đồng dao: Nghé bông hay là nghe hoa Như cà mới nở Ở nghé nghé ... Cả lũ chúng tôi cùng giong trâu hát theo. Đàn trâu nối nhau từ cánh đồng Lao thanh thả đi về cổng làng. Bụng đói meo mà sao tôi cảm thấy vui sướng đến thế, ngồi trên lưng trâu cứ ngỡ như mình bay theo ngọn gió nồm cùng với những đám mây nhuộm vàng ráng chiều... Bác Chắt Kế về rồi! Thế là mình sắp được đi học, sắp được tập hát tập múa, sắp được ăn chung ở chung với bạn bè cùng lứa tuổi trong làng. Còn gì sung sướng hơn. Sao làng mình có bác Chắt Kế mà làng khác lại không có. Thế làng mình đánh được Tây được Nhật thì làng khác cũng đánh được chứ? Bác Chắt Kế là người của thiên hạ chứ đâu có phải của riêng làng mình? Trong ý nghĩ trẻ thơ, tôi tưởng tượng bác Chắt kế như vị thần của một ngôi miếu thâm u cổ thụ nào đó được thế giới thần linh phải ra để cứu dân khổ đau. Tôi chưa hề một lần nào được thấy bác, được gặp bác. Tôi chỉ nghe lõm bõm về bác trong khi người lớn trò chuyện với nhau. Nhất là một buổi sáng, chao ơi cái buổi sáng ấy tôi nhớ mãi. Cụ Tú Vệ làng Kẻ Sụm xuống chơi với ông tôi. Hai cụ uống rượu và nói chuyện đến tận mặt trời đứng bóng. Gọi là uống rượu chứ thật ra đạm bạc lắm, rượu chỉ vừa một nậm với một con cá rô đặt trong đĩa sứ vẽ hình cây trúc. Hai cụ nâng chén bạch định lên môi nhấp rồi lại đặt xuống. Hai cụ cầm đũa gây gây con cá gắp từng tí một. Tôi có cảm giác hai cụ uống vờ và ăn vạ. Đến khi cụ Tú Vệ cắp ô ra về, con cá mới hết một nửa và rượu cũng chỉ hết lưng nậm. Hai cụ đó thanh bạch quá chừng, hình như chỉ cốt dùng rượu làm cái cớ để giãi bày thế sự, chứ không cần sự hưởng thụ xô bồ vật chất... Sở dĩ hôm đó tôi được chứng kiến một cách kỹ càng “tiệc rượu” của cụ Tú Vệ với ông tôi là vì tôi vờ đứng bên cạnh hầu điều đóm để nghe chuyện bác Chắt Kê. Tôi chắp nhặt từng mẩu vụn vặt, rồi đi kể cho bạn bè mục đồng nghe. Tôi thêm thắt, xâu chuỗi lại, tưởng tượng thêm và trong tâm trí tôi hình thành một bác Chắt kế của chuyện cổ tích, của thần thoại. Ở cánh đồng phía tây làng tôi có một cái giếng hình bàn chân khổng lồ, gọi là giếng Thần. Từ xưa từ xưa người ta truyền lại rằng có một vị thần gánh núi đi qua và bàn chân dẫm lõm xuống thành cái giếng. Bao nhiêu chuyện kể huyền ảo và kỳ vĩ về cái giếng này... Trong kho tàng chuyện kể ấy, có chuyện “thanh gươm cố Kế”. Cố Kế là cụ thân sinh bác Chất Kế, một lần đi vận động phong trào Văn Thân từ Yên Thành về, qua giếng Thần, Thần hiện lên và trao cho thanh gươm, đêm ấy bà thân sinh có mang rồi đẻ ra bác Chắt Kế. Các cụ đồ trong làng bảo rằng bác Chắt Kế là người của thần linh sai phái xuống để cứu nhân độ thế. Từ mười lăm mười sáu tuổi, bác đã tham gia các hoạt động của “hội kín”. Năm 1927, bác đứng ra thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đông Chí Hội của làng tôi. Bác đi khắp bốn phương trời, vào Tây Cống, sang Xiêm La, tới Hương Cảng, sang Luangprabang, đến Nông Pênh... Rồi bác bị đi đày ở Lao Bảo, Ban Mê Thuột... Lao Bảo là nơi đâu? Ban Mê Thuột là nơi đâu? Nghe nói đó là những chốn ma thiêng nước độc, chứa đầy những quỷ sứ có sừng, răn đỏ mào, rết mắt xanh. Bác Chắt Kế bị ném vào địa ngục ấy và chịu đựng muôn nghìn cực hình. Bác bị xẻo thịt, bị dẫm chân lên lưỡi cày nướng đỏ, bị tuột cật nứa, bị ném vào ổ rắn độc... Bác vẫn không chết bởi vì bác có phép thiêng của Thần ban cho. Ôi những cái địa danh Lao Bảo, Ban Mê Thuột rùng rợn đến thế mà kích thích trí tưởng tượng, lòng khao khát của tuổi thơ biết bao. Khi nào mình được đặt chân tới đó để nhìn tận mắt cảnh địa ngục trần gian - nơi bác Chắt Kế, người của làng mình, đã từng chống chọi với diêm vương, quỷ sứ? Có phải bác là con đại bàng trong truyện cổ đã tung cánh làm đổ vỡ bao nhiêu thành lũy lao tù để trở về với làng xóm, với bà con thân thuộc... Hôm nay bác đã về làng thật rồi ư? Chắc chắn lần này mình sẽ tìm kỳ được để nhìn thấy bác.  Một buổi sáng, tôi vừa giong trâu ra khỏi cổng thì gặp một người đàn ông lạ mặt bước vào. Người ấy trạc năm mươi tuổi, mặc bộ quần áo xanh bạc màu. Cha tôi vồn vã chạy ra tiếp. Tôi linh cảm: đây là bác Chắt Kế! Đúng là bác Chắt Kể thật. Bác ấy vào nhà mình chơi, tôi cảm thấy như ai trao cho mình niềm vinh dự bất ngờ. Mấy người hàng xóm cũng chạy sang hỏi thăm ríu rít. Tôi cột trâu vào gốc cau, chạy vào buồng, chăm chú nhìn qua lỗ phèn để thấy rõ bác Chắt Kể là người như thế nào: vâng trán rộng, mắt sáng, tóc chải ngược điểm hoa râm. Quả thật là gương mặt của một người thông minh khác thường. Trong câu chuyện trao đi đổi lại giữa bác với bà con làng xóm, tôi không hề nghe ai nói đến việc đánh Nhật đuổi Tây. Tôi chi thấy gương mặt bác rạng rỡ, tươi cười, hỏi thăm chuyện mùa màng, đồng áng. Từ người trung niên đến cụ già đều trả lời bác với thái độ lễ phép, kính trọng. Mọi người đang vui vẻ trò chuyện, bỗng ông mõ từ ngõ xồng xộc đi vào báo có bang Trân cùng mấy tên lính đã đến cổng làng. Thoắt một cái, bác Chắt kế lần ra cửa sau, sang nhà bên cạnh, rồi đi biệt. Tôi nhảy lên lưng trâu, hát nghêu ngao lững thững ra đồng. Ngày hôm sau, hôm sau, rồi hôm sau nữa... không hề thấy bác Chắt kế trong làng. Con đại bàng ấy lại bay tới phương nào?...  Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Ngày Ấy của tác giả Võ Văn Trực.