Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ai Lấy Miếng Pho Mát Của Tôi - Spencer Johnson
AudioBook Ai Lấy Miếng Pho Mát Của Tôi   Ai Lấy Miếng Pho Mát Của Tôi? là một câu chuyện giản dị chứa đựng những triết lý sâu sắc về cách vượt qua những khó khăn và thay đổi trong cuộc sống. Câu chuyện kể về hai chú chuột và hai con người tí hon cùng chung sống trong một mê cung rộng lớn luôn tất bật đi tìm những miếng phó mát để nuôi sống mình và để cảm thấy hạnh phúc. Hai chú chuột Đánh Hơi và Nhanh Nhẹn chỉ có bộ não đơn giản của loài gặm nhắm, vốn không có óc phân tích và phán đoán, nhưng chúng lại có bản năng rất nhanh nhạy và sắc sảo. Như các con chuột khác, chúng đặc biệt rất thích pho mát và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có pho mát. Trong khi đó, Chậm Chạp và và U Lì là những con người tí hon – một sinh vật cũng nhỏ như chuột nhưng có hình dạng và cách suy nghĩ giống như con người bây giờ. Họ dùng khả năng tư duy và trí thông minh vốn có của loài người để tìm ra những loại phó mát đặc biệt. Cho đến một ngày kia, cả bốn nhân vật phải đối mặt với sự thay đổi, một biến cố khủng khiếp: Đó là toàn bộ số pho mát trong kho của họ đã biến mất. Và mỗi nhân vật có những phản ứng khác nhau tùy theo tính cách riêng của mỗi người. Chúng ta phải chuẩn bị tâm lý, tư thế sẵn sàng để ứng phó với những thay đổi và hãy tham gia cùng với sự thay đổi, vứt bỏ cái cũ và mạnh dạn làm những gì mình có thể; nếu không tự mỗi người sẽ tự hủy hoại cơ hội tồn tại của mình. Mời các bạn đón đọc Ai Lấy Miếng Pho Mát Của Tôi của tác giả Spencer Johnson.
10 Nghịch Lý Cuộc Sống - Kent M. Keith Ph. D.
Sách Nói 10 Nghịch Lý Cuộc Sống   "Cuộc sống chúng ta luôn có những nghịch lý - những người bản lĩnh và cao thượng luôn biết chấp nhận và vượt lên những nghịch lý đó." Tác phẩm nổi tiếng Anyway - 10 nghịch lý cuộc sống của Tiến sĩ Kent Keith đã trở thành một cuốn sách kinh điển và được bạn đọc trên thế giới yêu thích về sự độc đáo và thẳng thắn về trải nghiệm cuộc sống. Cuốn sách liên tục được bình chọn là một trong những tác phẩm bán chạy nhất nhiều năm liền và đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Điểm đặc biệt nhất của Anyway chính là ý nghĩa sâu sắc và thực tế của tác phẩm đã tác động đến nhiều đối tượng độc giả khác nhau, mang lại những khoảng lặng cần thiết để suy nghĩ về một cách sống cao thượng và hế mình. Tác giả Kent Keith chính là một minh chứng cụ thể và xác thực cho cách sống này. Ông đã viết và dành cả cuộc đời mình để chứng minh cho những chân lý đó. Mời các bạn đón đọc 10 Nghịch Lý Cuộc Sống của tác giả Kent M. Keith Ph. D.
10 Bí Quyết Thành Công Của Những Diễn Giả MC Tài Năng Nhất Thế Giới - Carmine Gallo
AudioBook 10 Bí Quyết Thành Công Của Những Diễn Giả MC Tài Năng Nhất Thế Giới   Thông qua khả năng diễn đạt của mình, một số người có thể lôi cuốn cả trái tim và khối óc của người nghe dù là trong những câu chuyện thường nhật hay khi đứng trên bục thuyết trình. Khả năng truyền cảm hứng mạnh mẽ của họ được mọi người ngưỡng mộ và tuy đại diện cho rất nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội, tất cả họ đều có điểm tương đồng - đó là tuân theo những bí quyết giao tiếp vô cùng hiệu quả. 10 bí quyết thành công của những diễn giả MC tài năng nhất thế giới sẽ bật mí cho bạn những bí quyết trong giao tiếp của các doanh nhân hàng đầu thế giới ngày nay. *** Carmine Gallo là người đào tạo truyền thông cho nhiều thương hiệu nổi tiếng thế giới. Ông cũng là diễn giả nổi tiếng và là tác giả của một vài cuốn sách bán chạy nhất, trong đó có 2 cuốn viết về Steve Jobs là Bí quyết thuyết trình của Steve Jobs và Bí quyết cải cách của Steve Jobs. Mời các bạn đón đọc 10 Bí Quyết Thành Công Của Những Diễn Giả MC Tài Năng Nhất Thế Giới của tác giả Carmine Gallo.
Nghệ Thuật Bài Trí Của Người Nhật - Marle Kondo
Bạn đã từng dọn nhà đến phát điên, chỉ để nhận ra rằng chẳng bao lâu sau ngôi nhà hoặc nơi làm việc của mình lại bừa bộn như cũ? Nếu đúng như vậy, hãy để tôi chia sẻ với bạn bí quyết để chấm dứt việc đó. Trong cuốn sách này, tôi trình bày cách dọn dẹp không gian theo một cách sẽ vĩnh viễn thay đổi cuộc sống của bạn. Bạn nghĩ điều này là không thể? Đó là phản ứng thông thường của mọi người và không có gì ngạc nhiên, nếu xét đến chuyện hầu hết mọi người đều từng trải qua “hiệu ứng phục hồi nguyên trạng” ít nhất một lần, nếu không nói là nhiều lần, sau khi dọn nhà. Phương pháp KonMari là một cách đơn giản, thông minh và hiệu quả để vĩnh viễn xóa bỏ sự bừa bộn. Hãy bắt đầu bằng việc loại bỏ. Sau đó sắp xếp không gian của bạn, kỹ càng, hoàn chỉnh, trong một lần. Nếu chấp nhận chiến lược này, bạn sẽ không bao giờ phải trở lại tình trạng bừa bộn nữa. Mặc dù cách tiếp cận này đi ngược lại với hiểu biết thông thường, tất cả những người từng áp dụng Phương pháp KonMari đều thành công trong việc giữ cho ngôi nhà của mình ngăn nắp. Việc sắp xếp nhà cửa có tác động đến tất cả những phương diện khác của cuộc sống – trong đó có công việc và gia đình. Với việc dành tới hơn 80% thời gian trong cuộc đời cho chủ đề này, tôi biết việc dọn dẹp nhà cửa cũng có thể thay đổi cuộc sống của bạn. Chuyện này nghe có quá ảo tưởng không? Nếu bạn nghĩ rằng dọn nhà chỉ là bỏ đi một thứ không cần thiết hay thi thoảng dọn lại phòng một chút thì đúng là nó sẽ không có mấy tác động. Tuy nhiên, nếu bạn thay đổi cách tiếp cận, việc dọn dẹp nhà cửa có thể có tác động vô cùng lớn. Tôi bắt đầu đọc các tạp chí dành cho các bà nội trợ từ khi mới lên 5 tuổi và chính việc đó đã truyền cảm hứng cho tôi, từ năm 15 tuổi, tôi đã tiến hành nghiên cứu nghiêm túc về việc dọn dẹp và sắp xếp nhà cửa, Phương pháp KonMari được hình thành từ đó (KonMari là biệt danh, được ghép từ tên và họ của tôi). Giờ tôi là một chuyên gia tư vấn về dọn dẹp và dành hầu hết thời gian để ghé thăm các ngôi nhà và trụ sở làm việc, đưa ra những lời khuyên thực tế cho những người gặp khó khăn khi dọn dẹp, hoặc dọn dẹp mà gặp phải vấn đề trở lại trạng thái cũ, hoặc muốn sắp xếp mọi thứ gọn gàng mà không biết bắt đầu từ đâu. Số lượng những thứ mà các khách hàng của tôi đã vứt bỏ, từ quần áo và đồ lót cho tới các bức ảnh, bút viết, các mẩu cắt ra từ tạp chí và các mẫu mỹ phẩm trang điểm là không kể xiết. Tôi không hề phóng đại. Tôi từng giúp đỡ những khách hàng bỏ đi tới 200 túi rác loại 45 lít trong một lần dọn dẹp. Từ những gì tôi đã khám phá được về nghệ thuật sắp xếp và vô vàn kinh nghiệm có được nhờ giúp đỡ những người bừa bộn trở nên gọn gàng, tôi có thể tự tin nói rằng: Việc sắp xếp lại nhà cửa thật ấn tượng sẽ tạo ra những thay đổi ấn tượng tương ứng trong phong cách sống và quan điểm của bạn. Đó là vấn đề mang tính thay đổi cuộc đời. Ý tôi là vậy. Dưới đây là một vài lời xác nhận mà tôi nhận được hàng ngày từ các khách hàng của mình: “Sau khóa học của chị, tôi đã nghỉ việc và tự bắt đầu một công việc mà tôi luôn mơ ước từ khi còn nhỏ.” “Khóa học của chị đã dạy tôi thấy được điều gì mình thực sự cần và điều gì không. Vậy nên tôi đã li dị. Giờ đây, tôi cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều.” “Người mà tôi luôn muốn họ liên lạc với tôi mới đây đã liên hệ với tôi rồi.” “Tôi rất vui khi báo với chị rằng từ khi dọn sạch căn hộ của mình, việc bán hàng của tôi thật sự được cải thiện rất nhiều.” “Vợ chồng tôi hòa hợp với nhau hơn nhiều rồi.” “Tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng chỉ nội việc vứt bỏ bớt các thứ đi lại có thể thay đổi cuộc sống của tôi nhiều đến thế.” “Cuối cùng tôi cũng giảm được 3 kg.” Khách hàng của tôi dường như luôn hạnh phúc và rõ ràng việc dọn dẹp nhà cửa đã thay đổi cách suy nghĩ và tiếp cận cuộc sống của họ. Trên thực tế, nó đã thay đổi tương lai của họ. Tại sao lại như vậy? Vấn đề này sẽ được nhắc đến chi tiết trong phần sau của cuốn sách, nhưng về cơ bản, khi bạn giữ nhà cửa gọn gàng, bạn cũng giữ cho mọi việc và quá khứ của bạn “gọn gàng”. Kết quả là bạn có thể thấy khá rõ ràng rằng bạn cần và không cần điều gì, bạn nên và không nên làm gì trong cuộc sống. Hiện tại tôi đang cung cấp một khóa học cho các khách hàng tại nhà và cho các chủ công ty tại nơi làm việc của họ. Tất cả những bài học đều rất riêng tư, chỉ có tôi và khách hàng, và tôi lúc nào cũng đông khách. Giờ tôi có danh sách khách hàng chờ trong ba tháng và ngày nào tôi cũng nhận được câu hỏi của những người được các khách hàng cũ giới thiệu hoặc họ đã nghe được về khóa học của tôi từ người khác. Tôi đi khắp Nhật Bản và đôi khi ra cả nước ngoài. Vé cho một trong các buổi nói chuyện cho các bà nội trợ và các bà mẹ bán hết chỉ sau một đêm. Còn có cả một danh sách chờ nối tiếp vào danh sách chờ hiện tại. Thế nhưng tỉ lệ khách hàng lặp lại của tôi là con số không. Xét từ quan điểm kinh doanh, điều này dường như là một sai lầm tai hại. Nhưng liệu việc khách hàng không phải quay lại thực chất lại là bí quyết để phổ biến phương pháp của tôi thì sao? Như tôi đã nói ban đầu, những người sử dụng Phương pháp KonMari không bao giờ rơi vào tình trạng bừa bãi nữa. Vì có thể giữ không gian của mình gọn gàng nên họ cũng không cần phải quay lại để học thêm. Tôi thường xuyên kiểm tra những người hoàn thành các khóa học của tôi xem tình trạng của họ thế nào. Trong hầu hết các trường hợp, không chỉ ngôi nhà hay nơi làm việc của họ vẫn gọn gàng ngăn nắp mà họ còn đang tiếp tục cải thiện không gian của mình. Có một điều rõ ràng trong những bức ảnh mà họ gửi cho tôi đó là, họ có ít đồ dùng cá nhân hơn so với khi họ hoàn thành khóa học, họ cũng có rèm cửa và đồ đạc mới. Xung quanh họ chỉ có những thứ mà họ yêu thích. Tại sao khóa học của tôi có thể thay đổi mọi người? Bởi vì cách tiếp cận của tôi không chỉ là một kỹ năng. Hoạt động dọn dẹp là một chuỗi những hành động đơn giản mà trong đó đồ vật được di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Nó bao gồm cả việc bỏ bớt đồ dùng đi. Nghe có vẻ đơn giản đến mức một đứa trẻ sáu tuổi cũng có thể làm được. Thế nhưng phần lớn mọi người đều không làm được. Nguyên nhân không phải vì họ thiếu kỹ năng mà phần nhiều là vì họ thiếu nhận thức và không có khả năng dọn dẹp hiệu quả. Nói cách khác, gốc rễ của vấn đề nằm ở sự chú ý. 90% thành công phụ thuộc vào tư duy của chúng ta. Trừ một số ít những người may mắn sinh ra đã có kỹ năng sắp xếp gọn gàng, còn chúng ta nếu không chú tâm vào vấn đề này thì tình trạng trở lại trạng thái cũ là điều tất yếu cho dù chúng ta có vứt bỏ bao nhiêu đồ dùng và sắp xếp mọi thứ thông minh đến đâu đi chăng nữa. Vậy làm thế nào để tư duy đúng cách? Chỉ có một cách, rất ngược đời, đó là có được kỹ năng chuẩn xác. Hãy nhớ rằng: Phương pháp KonMari mà tôi miêu tả trong cuốn sách này không chỉ là một bộ quy tắc về việc phân loại, sắp xếp và bỏ bớt đồ dùng. Nó còn là chỉ dẫn để có được tư duy đúng đắn về việc tạo ra trật tự và trở thành một người ngăn nắp. Tất nhiên, không phải tất cả các học viên của tôi đều hoàn thiện nghệ thuật dọn dẹp nhà cửa. Không may là có một vài người phải dừng lại vì lý do này hay lý do khác trước khi hoàn thành khóa học. Và có người dừng lại vì họ trông đợi tôi sẽ làm công việc đó cho họ. Với tư cách là một chuyên gia và là người sùng bái nghệ thuật sắp xếp, tôi có thể nói ngay với bạn rằng dù tôi có nỗ lực sắp xếp không gian của người khác đến đâu, tôi có đặt ra một kế hoạch hoàn hảo như thế nào, thì tôi cũng không thể sắp xếp ngăn nắp ngôi nhà của người khác theo đúng nghĩa của thuật ngữ này. Tại sao lại thế? Bởi vì nhận thức và quan điểm của một người về phong cách sống của riêng mình quan trọng hơn bất kì kỹ năng phân loại, xếp dọn hay kỹ năng nào khác. Sự ngăn nắp phụ thuộc vào những giá trị rất cá nhân về việc một người muốn sống như thế nào. Phần lớn mọi người đều thích sống trong một không gian sạch sẽ và ngăn nắp. Bất kì ai từng cố gắng sắp xếp nhà cửa gọn gàng, dù chỉ một lần, sẽ đều muốn giữ nhà mình ngăn nắp như thế. Nhưng nhiều người không tin rằng mình có thể làm được điều đó. Họ thử rất nhiều phương pháp dọn dẹp khác nhau chỉ để phát hiện ra mọi thứ sẽ sớm trở lại như thường. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng mọi người đều có thể giữ cho không gian của mình được ngăn nắp. Để làm được điều này, bạn cần xem xét thật thấu đáo thói quen và quan niệm của mình về việc dọn dẹp và sắp xếp nhà cửa. Điều này có vẻ sẽ tốn rất nhiều công sức, nhưng đừng lo. Khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ sẵn sàng và tràn đầy quyết tâm. Mọi người thường nói với tôi rằng: “Tôi sinh ra đã không có khả năng sắp xếp gọn gàng. Tôi không làm được đâu”, hoặc “Tôi không có thời gian” nhưng tình trạng bừa bãi không có tính di truyền và cũng không liên quan đến chuyện thiếu thời gian mà là do những suy nghĩ sai lầm về việc sắp xếp và dọn dẹp nhà cửa, như “tốt nhất là cứ dọn từng phòng một” hoặc “mỗi ngày dọn một chút thì hiệu quả hơn” hoặc “việc bỏ bớt đồ nên làm theo kế hoạch”. Tại Nhật, mọi người tin rằng những việc như dọn phòng và dọn nhà vệ sinh ngăn nắp và sạch sẽ mang lại may mắn, bởi nếu nhà bạn bừa bộn thì hiệu quả của việc đánh bóng bồn vệ sinh cũng ít có tác dụng. Điều tương tự cũng đúng với việc thực hành thuật phong thủy. Chỉ khi nhà cửa gọn gàng và ngăn nắp thì việc bài trí nội thất mới có ý nghĩa. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Bài Trí Của Người Nhật của tác giả Marle Kondo.