Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ông Già Goriot - Honore de Balzac

Ông Già Goriot là một tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1835 của nhà văn Pháp Honoré de Balzac. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng (Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). Lấy bối cảnh là kinh đô Paris năm 1819, Ông Già Goriot đề cập tới số phận của ba nhân vật, ông lão Goriot, tên tù khổ sai vượt ngục Vautrin và anh sinh viên luật Eugène de Rastignac. Tiểu thuyết này được coi là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Balzac, nó lần đầu tiên cho thấy ý định của nhà văn trong việc nối kết các tác phẩm riêng lẻ của bộ Tấn trò đời bằng những nhân vật xuất hiện qua nhiều tiểu thuyết (điển hình là Rastignac). Ông Già Goriot cũng là điển hình cho chủ nghĩa hiện thực trong phong cách viết của Balzac với những nhân vật được mô tả chi tiết và có chiều sâu. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. *** Kính tặng đại danh sĩ Geoffroy Saint Hilare để tỏ lòng ngưỡng mộ sự nghiệp và thiên tài cùa ông De Balzac Bà Vauquer, nhũ danh de Conflans, là một bà già từ bốn mươi năm nay đang cai quản tại thành Paris một ký túc xá ờ đường mới Neuve Sainte Geneviève, khoảng giữa xóm la tinh và vùng ngoại ô Thánh Marcel. Ký túc xá này được gọi là ký túc xá Vauquer nhận ở trọ cả đàn ông lẫn đàn bà, cả người già cả đến hạng thanh niên, mà chẳng bao giờ thanh danh của nhà trọ ấy bị xuyên tạc. Nhưng cũng đã ba mươi năm nay, không hề có một người trẻ tuổi nào ờ đây, và nếu có thanh niên nào lạc lõng chốn này thì có lẽ thanh niên ấy chỉ nhận được của gia đình một số tiền cấp dưỡng rất kém cỏi. Tuy nhiên, vào năm 1819, là lúc mở màn tấn thảm kịch sắp kể ra đây, nhà này có chứa một thiếu nữ khôn lớn. Ta cần phải dùng chữ thảm kịch ờ đây, dầu danh từ này đã mất cả ý nghĩa vì người ta đã quá lạm dụng và quá ngược đãi nó trong thời buổi văn chương bi khổ này? Không phải vì câu chuyện có một kịch tính thật sự: nhưng câu chuyện kể ra có cũng sẽ làm cho đọc giả xa gần không cầm được nước mắt intra muros et extra? Nhưng bạn sống xa cách Paris thông cảm được câu chuyện này chăng? Điều đó không chắc. Những đặc tính của “Cảnh đời” (Scènce de la vie privée) này mang nặng màu sắc địa phương mà chỉ những dân ở giữa đồi Montmartre và vùng Montrouge, ở cái thung lũng nổi danh vì đầy vôi gạch lúc nào cũng sắp sụp đổ và đầy những rạch bùn đen. Cái thung lũng đầy những đau khổ thực sự, những vui mừng thường là giả tạo, cái thung lũng đã hằng bị náo động ghê gớm, đến nỗi chỉ có chuyện gì thật quá lố mới có thể gây được ở đây một cảm xúc lâu dài. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những nỗi đau khổ mà do sự quy tụ của tệ tập và đức hạnh đã làm cho thành lớn lao và nghiêm trọng: trước những cảnh huống ấy, lòng ích kỷ và quyền lợi đều trăm lại và thương cảm; nhưng sự khích động ấy chỉ như một quả ngon được nhai nuốt mau lẹ. Chiếc xe của văn minh, chẳng khác chi chiếc xe chở tượng Thần ờ thành Jaggernath (1), chỉ chậm tiến đôi chút vì có một mảnh tim khó nghiến hơn chững tim khác đã làm kẹt bánh thần xa. Và chính người cũng sẽ làm như thế, người là kẻ đang cầm cuốn sách này trong bàn tay trắng, là kẻ đang chễm chệ trên chiểc ghế bành êm dịu, và người cũng tự nhủ thầm: “Cái này có lẽ cũng tiêu khiển ta được đây!”. Lúc đã đọc xong những nghịch cảnh âm thầm của ông già Goriot, người sẽ ăn ngon cơm; còn lòng người không chút rung cảm, người chỉ quy tội cho tác già đã nói quá, hoặc đã thi vị hóa câu chuyện. Ẩy, nhưng người hãy biết cho rằng tấm thảm kịch xảy ra đây không phải là chuyện bịa đặt hay là một tiểu thuyết. Tất cả đều có thật (2), thật đến nỗi ai cũng có thể nhận thấy từng chi tiết ở ngay mình, có lẽ ở ngay nội tâm mình. Ngôi nhà dùng làm ký túc xá thuộc quyền sở hữu của bà Vauquer. Nhà ở dưới dốc Đường mới Sainte Genevière, ngay chỗ con đất uốn thấp xuống để rẽ qua đường Cái Ná một cách rất đột ngột và rất gắt, đến nỗi ngựa ít lên xuống con đường đó. Trường hợp này đã làm thuận tiện cho không khí êm lặng ở những con đường bị ép giữa khu vực nhà thờ Val de Grâce và đền Panthéon: hai lâu đài đã biến đổi bầu không khí với những màu vàng tung vào đấy, và đã làm mọi vật phải tối tăm vì những mầu sắc chát chúa của các nóc dọi xuống. Ở đây những đá lát đường khô ráo, những rãnh chẳng có nước mà cũng chẳng có bùn, cỏ mọc ven theo các bức tường. Người rất vô tư vào đây cũng phải u buồn như những khách khác, tiếng ồn một cái xe đến đây cũng thành một biến cố đặc biệt, nhà cửa ủ rủ, tường vách sặc mùi một ngục tù. Một người dân Paris lạc loài vào đây chỉ nhận thấy toàn những nhà trọ tầm thường hoặc những trường học, một vẻ nghèo nàn hoặc buồn nản, những người già sắp chết, hoặc những thanh niên đang tươi vui mà phải cặm cụi làm việc. Không một xóm nào ở Paris có thể ghê tởm hơn, hoặc ít người biết hơn. Nhất là con đường mới Sainte Genevière giống như một cái khung bằng hoàng đồng, cái khung cảnh độc nhất hợp với cốt truyện này: để đưa vào cốt truyện và để hiểu, không gì bằng những màu sắc nâu sậm, những lý tưởng trang trọng... cũng như từ bậc một ánh mặt trời tối dần và tiếng hát người đánh xe trầm dần lúc kẻ lữ hành xuống đần Hầm mộ. So sánh đúng thay! Nào ai đoán định được còn gì rùng rợn hơn sự việc này, ai, những kẻ có một quả tim khô héo, hay những kẻ mang một khối óc trổng rỗng? Mặt tiền của ký túc xá nhìn xuống một cánh vườn nhỏ, và cái nhà đâm thẳng góc ra đường Mới Sainte Genevière, trông hình như cái nhà bị con đường cắt sâu vào vậy. Dọc theo mặt tiền nhà, giữa nhà và vườn có một đám sân sỏi lõm sâu vào và rộng lối một thước (3); trước đám sân là một con đường nhỏ rải cát, hai bên có những cây phong lữ thảo, trúc đào và cây lựu trồng trong những chậu lớn bằng sành màu xanh và trắng. Người ta vào đường nhỏ ấy do một cửa lớn trên có tấm bảng mang chữ: Nhà Vanquer, và ở dưới: Nhà trọ cho cả nam phụ lão ấu. Ban ngày, một cánh cửa song thưa có mắc cái chuông rung kêu rổn rảng để thấy ở cuối con đường nhỏ, trên bức tường đối diện với đại lộ một cái vòm tròn vẽ màu cẩm thạch xanh do tay một họa sĩ trong xóm vẽ. Trong chỗ lõm dưới vòm vẽ ấy, có đựng cái tượng thần Ái tình. Nhìn lớp sơn long của bức tượng, những người thích tượng trưng có lẽ nhận thấy đây là một thần thoại của thứ tình ái ở thành Paris mà người ta đang chữa bệnh khỏi được chỉ cách đó vài bước đường. Trên đế bức tượng, một hàng chữ đã bị xóa hết phân nửa làm cho ta nhớ tới cái thời đã xây dựng kỷ vật trang trí này, do lòng hâm mộ đối với văn hào Voltaire, đã trở về Paris vào năm 1777. Đây là thầy ngươi, bất cứ người là ai: Hiện tại ông là thầy ngươi, trong quá khứ ông cũng đã là thầy, hoặc ông phải là thầy của ngươi. Tối đến, cánh cửa song thưa được thay thế bằng một cánh cửa kín. Cái vườn nhỏ rộng bằng bề dài mặt tiền cái nhà, ở giữa bức tường phía đường cái và bức tường ngăn cách nhà bên cạnh. Một màn bìm bìm treo dọc phủ kính cả bức tường chung này, và giữa thành Paris đây là một cảnh đẹp làm người qua đường lưu ý: Mỗi tường thành đều cổ phủ một thảm cây nho hoặc cây ăn quả khác với những lớp trái mảnh mai và đầy bụi: những trái cây này là mối lo âu hằng năm của bà Vanquer và là đầu đề của những cuộc trò chuyện của bà và các khách ở trọ. Dọc theo mỗi bức tường có một đường nhỏ dẫn đến một lùm cây điền ma (4) cái tên cây mà bà Vanquer tuy thuộc dòng dõi de Conflans vẫn đọc trại đi, dầu mấy khách trọ cố phê bình về văn phạm cho bà. Giữa hai con đường bên hông là một cái bồn vuông trồng artisô, có kèm những cây ăn quả được cắt cành lá tròn như búp chỉ, chung quanh thêm những cây chua me, rau diếp hay ngò tây. Dưới vòm cây điền ma có để cái bàn tròn sơn màu lục, có ghế để quanh. Những ngày nóng bức, những khách trọ nhà giàu có thể dùng đến cà phê được đều ra ngồi đây uống nhâm nhi trong lúc ánh nắng có thể làm nở được trứng ấp. Mặt tiền cao ba tầng có cả rầm thượng kiến trúc bằng đá cuội và quét bằng thứ màu vàng nó đã làm cho hầu hết những nhà ở cận Paris đều có cái vẻ khả ố làm sao. Mỗi tầng lầu có năm cửa sổ đều lắp kính nhỏ và đều có bỏ mành mành, nhưng chẳng có bức mành nào được cuốn lên giống nhau, thành thử chẳng bức nào ngay hàng với bức nào. Bề sâu nhà có hai cửa sổ, và tầng dưới hai cửa sổ này được trang trí bằng những song sắt có rào lưới. Sau nhà có cái sân rộng độ hai chục bộ (5): trong sân phát hiện một cuộc sống chung rất hòa hiệp giữa những giống lợn, gà, thỏ.., và phía sau có một cái kho để củi. Giữa kho củi và cửa sổ của nhà bếp, có treo một tủ đồ ăn, dưới tủ là dòng nước dơ của chậu rửa bát. Từ sân này ra đường Mới có một cửa nhỏ do đó đầu bếp đổ rác rến trong nhà ra đường và giội nước chùi rửa nơi đây, nếu không có thể phát bệnh ôn dịch. Lẽ tất nhiên tầng dưới nhà dùng làm nhà trọ và gồm có một phòng ngoài: phòng này được sáng nhờ hai cửa sổ trông ra đường, đi vào do một cửa lớn vừa là cửa sổ. Phòng khách này thông vào một phòng ăn, rồi đến cái chân cầu thang mới đến nhà bếp. Bậc thang bằng gỗ và gạch vuông sơn màu, đánh bóng. Chẳng có gì buồn hơn quang cảnh cái phòng khách đầy ghế bành và ghế dựa bọc vải sọc chen lẫn đường lì và đường láng. Giữa phòng kê một bàn tròn mặt cẩm thạch trang trí bằng hình cái quán trên một tấm sành trắng viền chỉ vàng đã phai hết nửa hình trang trí mà hiện nay đâu cũng có. Nền phòng lát gập ghềnh, tường đóng ván đến ngang lưng người đứng. Phần trên tường còn lại thì dán một giấy sơn vẽ những cảnh chính của truyện Télémaque với các nhân vật vẽ màu. Khoảng giữa hai cửa sổ rào lưới sắt là bức tranh vẽ buổi tiệc của nữ thần Calypso đãi con trai vua Ulysse (6). Trong bốn mươi năm trường, bức vẽ đã gợi bao nhiêu lời chế giễu của bọn thanh niên ở trọ: tự kiêu ngạo bữa ăn mình, bọn này vẫn tưởng đang ở một địa vị cao sang hơn cảnh hiện tại mà sự nghèo khổ đã buộc họ vào. Lò sưởi được trang trí bằng hai độc bình cắm đầy hoa giả đã cũ rích và được bọc lồng lại, ở giữa là một đồng hồ bằng cẩm thạch màu xanh nhạt rất xấu xí. Lòng lò sưởi lúc nào cũng sạch sẽ chứng tỏ là lò chỉ được đốt lửa vào những cơ hội lớn. Phòng thứ nhất này để xông ra một mùi mà trong ngôn ngữ không có danh từ nào diễn tả được, và có lẽ phải gọi nó là cái mùi nhà trọ. Đây là mùi của một phòng hay đóng cửa, mùi mốc, mùi ôi; lạnh lẽo ẩm iu ngửi thấy ngay ở mũi, thâm nhập vào cả áo quần, mùi của một phòng người ta mới ăn cơm, hôi mùi chén bát, mùi một phòng để đồ ăn, mùi một nhà thương thí. Cái mùi có lẽ diễn tả được nếu người ta sáng chế được một phương pháp để đo lường được số lượng yếu tố và buồn nôn của hơi đờm dãi và đặc biệt của mỗi người ở trọ, trẻ hay già. Ấy thế mà mặc dầu có những cái ghê tởm tầm thường ấy, và nếu ta so sánh với cái phòng ăn kề cận đó, ta lại cho cái phòng khách là trang nhã và thơm tho như một phòng khuê. Phòng ăn có vách hoàn toàn lót gỗ nguyên trước có sơn một màu mà bây giờ không còn nhìn ra màu gì nữa, màu ấy đã thành cái nền trên đó cát bụi chồng chất thành lớp vẽ nên những hình kỳ lạ. Những tủ chén bát trơn nhớt dựa tường, trên tủ bày những bình nước sứt mẻ, lu mờ, những tấm sắt tây tròn có vân, mấy chồng dĩa bằng sành dầy có viền xanh, chế tạo tại Tournal. ở một góc để một cái thùng có nhiều hộc số để đựng khăn lau lốm đốm dơ hay đỏ màu rượu vang, của những người ở trọ. Lại có những thứ bàn ghế bất hủ, đâu đâu cũng phế bỏ nhưng được đặt tại đây như những di vật của nền văn minh được đặt tại Nan y viện (7). Người ta còn có thể thấy một phong vũ biểu được đem ra lúc mưa, những tranh ảnh ghê gớm làm hết muốn ăn, cái nào cũng để trong khung gỗ sơn đen có chỉ vàng; một đồng hồ treo bằng đồi mồi khảm đồng; một lò sưởi màu lục, những cây đèn dầu mà dầu và bụi trộn lẫn nhau, một bàn dài trải tấm vải sơn, nhờn mỡ trên ấy một trú sinh nghịch ngợm đã lấy ngón tay viết tên lên như đã dùng một mũi sắt nhọn, những ghế dựa khập khễnh, những tấm đệm cói chỉ trải ra mà không lúc nào hưởng những lồng ấp có lỗ đã bè, bản lề lật ra, gỗ đã đen thui. Muốn giải rõ đồ đạc ở đầy đã cũ kỹ đến bậc nào, đã lũng, mục, lung lay, sứt bể, cụt tay dơ dáy, què quặt, gần tàn phế hấp hối... thì phải làm một bài miêu tả làm quá chậm câu chuyện, và những người gấp nghe chuyện không thể tha thứ. Gạch lát vuông đỏ thì bị vạch đường vì sự lau chùi hay vì những lúc tô màu. Tóm lại, nghèo khổ ngự trị ở đây, không chút thi vị, một nghèo khổ tằn tiện, cô đọng, xơ xác. Nếu cảnh nghèo ở đây chưa có bùn lầy, thì cũng đã có những vết dơ, nếu nó chưa có áo lũng, giẻ rách, thì nó cũng sắp đồ ra thối mục. Căn phòng này hoàn toàn sáng lạn vào lúc bảy giờ sáng, lúc con mèo của bà Vanquer dậy trước chủ nó nhảy lên các tủ đồ ăn, đánh hơi sữa trong những tô có dĩa đậy, và lên tiếng gầm gừ. Ngay sau đó bà chủ xuất hiện với cái mũ ren trên đầu, với một vành tóc giả treo lủng lẳng vụng về ở dưới. Bà ta kéo xà lệt một đôi dép méo mó. Khuôn mặt bì dày dày, mập mạp, ở dưới nổi lên một cái mũi mỏ keo; hai bàn tay nhỏ nhắn, múp míp, thân hình bụ bẫm như con chuột ở nhà thờ, áo lót quá dày và phồng phềnh lên, tất cả hình ảnh này rất phù hợp với căn phòng đầy mùi khốn đốn, chứa một không khí đầu cơ, trong ấy bà Vanquer biết thở mùi nồng thối, không chút gì ghê tởm. Vẻ mặt bà tươi tắn như buổi gió lạnh đầu tiên của tiết thu, đôi mắt nhăn nheo của bà đi từ vẻ nụ cười bắt buộc của vũ nữ đến vẻ cau có của viên thu ngân chiết khấu... tóm lại là cả con người bà giải thích cho cái nhà trọ, cũng như cái nhà trọ ám tàng con người của bà. Ngục tù không thể tồn tại được nếu không có tên ngục tốt, người ta không thể tưởng tượng có thể có cái này mà không cái kia. Vẻ phì nộn xanh xao của người đàn bà thấp bé này là kết quả của lối sinh hoạt kia, cũng như bệnh đậu lào là quy kết của bể khí một bệnh viện. Cái váy lót bằng len đan của bà ló dài hơn cái váy ngoài may với một áo dài cũ mà lớp bông lót lòi ra do những đường nứt nẻ của đường vải rách, cái váy này là một hình ảnh thu gọn của phòng khách, căn phòng ăn, cái vườn nhỏ, và báo trước cái nhà bếp, làm thấy trước những khách trọ ra thế nào rồi. Lúc bà chủ có mặt, quang cảnh thật là hoàn mỹ, bà Vanquer tuổi lối năm mươi, bà giống như mọi người đàn bà khác đã chịu đựng đau khổ. Mặt bà lờ đờ, bộ bà ngây thơ như một mụ môi dong làm bộ tức giận để đòi hoa hồng thêm, nhưng vẫn sẵn sàng làm hết mọi sự để số phận mụ được êm dịu hơn, sẵn sàng bán cả Georges hay Pichegru nếu còn một Georges hay một Pichegru để bán. Tuy vậy, bà là một người tốt, các người ở trọ nói vậy, và ai cũng tưởng bà là nghèo, vì ai cũng nghe bà kêu rêu ho hen như họ. Còn ông Vanquer trước kia thẽ nào? Bà không lúc nào phân giải về người quá cố. Tại sao ông ta mất hết của cải? Bà chỉ trả lời: “Trong những tai nạn”. Ông ta cư xử với bà không tốt, chỉ lưu lại cho bà cặp mắt để khóc, ngôi nhà này để sinh sống, và cái quyền không thương hại một nghịch cảnh của ai, vì theo bà nói, bà đã chịu đựng tất cả những gì người ta có thể chịu đựng được. Nghe tiếng chân bà chủ đi lắc nhắc, mụ Sylvie béo, người làm bếp lật đật dọn ăn sáng cho khách trọ. ... Mời các bạn đón đọc Ông Già Goriot của tác giả Honore de Balzac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kim Vân Kiều Truyện
LỜI DẪN VỀ VĂN BẢN C húng ta ai cũng biết rằng, dựa trên cơ sở văn bản Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm tài nhân biên thứ, Nguyễn Du đã tái tạo thành thi phẩm nổi tiếng Đoạn trường tân thanh. Vì vậy, muốn hiểu Nguyễn Du một cách đầy đủ và khách quan, đặc biệt là muốn hiểu những nỗi “đau đớn lòng” trước thời cuộc “bể dâu” mà ông đã từng “trải qua”, từng “trông thấy”, rồi đem thể hiện chúng qua ngòi bút thiên tài của mình thì không thể không đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân. Hiện nay có nhiều văn bản Kim Vân Kiều truyện và bản nào cũng ghi là Thanh Tâm tài nhân biên thứ. Song khi đọc, ta không khỏi ngạc nhiên, bởi chúng không chỉ khác nhau ở một vài chi tiết mà khác nhau cả về nội dung cũng như cách ngắt hồi. Tựu chung, có hai loại văn bản về Kim Vân Kiều truyện: loại in từ nửa đầu thế kỉ XX trở về trước và loại in từ giữa thế kỉ XX trở lại đây. Loại thứ nhất, về cơ bản chúng giống nhau, sự dị biệt về chữ nghĩa là không đáng kể. Chỉ có điều khác là, bản do Quán Hoa Hiên tàng bản thì không có lời đề tựa cùa một người tên hiệu là Thiên Hoa Tàng chủ nhân và lời bình luận của Quán Hoa đường; còn bản do Đại Liên đồ thư quán thì ngược lại, không có lời bình của Quán Hoa đường, nhưng lại có lời đề tựa của Thiên Hoa Tàng chủ nhân. Loại thứ hai, chẳng hạn, bản do Đinh Hạ hiệu điểm, hoặc bản do Xuân Phong văn nghệ xuất bản... về cơ bản cũng gồm 20 hồi như các bản Quán Hoa hiên, Đại Liên... nhưng dài hơn, có nhiều chi tiết hơn tạo nên sự hoàn thiện cho tác phẩm, nâng giá trị vể nội dung cũng như về nghệ thuật của tác phẩm cao hơn, đặc biệt tạo nên mạch lôgíc gần gũi với lối tư duy của người hiện đại. Hơn nữa, có bản, chẳng hạn bản do Đinh Hạ hiệu điểm, cách ngắt hồi cũng khác với hai bản Quán Hoa Hiên và Đại Liên. Điểu này tạo nên sự phức tạp, thậm chí rối loạn khi nghiên cứu - so sánh giữa Đoạn trường tân thanh với Kim Vân Kiều truyện. Dĩ nhiên, công việc của chúng tôi không phải là phê phán các văn bản Kim Vân Kiều truyện hoặc đưa ra phương pháp nghiên cứu - so sánh mà chỉ muốn giới thiệu một bản dịch Kim Vân Kiều truyện. Ở Việt Nam ít nhất đang lưu hành ba dịch bản Kim Vân Kiểu truyện. Bản thứ nhất do Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung dịch, in năm 1925. Bản thứ hai được dịch bởi các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân, in rônêô năm 1962, sau đó năm 1994 Nhà xuất bản Hải Phòng in lại và La Sơn Nguyễn Hữu Sơn giới thiệu. Bản thứ ba do cụ Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch, in năm 1971. Trong ba bản dịch kể trên thì bản dịch của cụ Hùng Sơn bị bỏ mất ba hồi và cũng khá tuỳ tiện thêm bớt; bản của cụ Tô Nam ra đời sau, lại bỏ mất những lời bình của Quán Hoa đường, bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân ra đời trước bản của Tô Nam, lại có đầy đủ cả bài tựa và lời bình. Vì vậy, chúng tôi chọn bản này để giới thiệu. Tuy nhiên, bởi dựa vào bản chép tay kí hiệu A.953 có duy nhất vào thời kì bấy giờ để dịch nên bản của các cụ Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân không khỏi có một vài sai sót mà ông Phạm Đan Quế trong Truyện Kiều đối chiếu đã nêu: “…Có một số sai khác, lược bỏ một vài đoạn ngắn của một số bài thơ..”[1]. Nay may mắn, được Nhà giáo Nhân dân - Giáo sư Nguyễn Đình Chú, giảng viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho mượn văn bản Kim Vân Kiều truyện do Tiểu Hoa Hiên tàng bản, Quán Hoa đường bình luận và được Giáo sư cùng nhà văn Siêu Hải thay mặt gia đình hai cố dịch giả[2] cho phép tôi hiệu chỉnh lại dịch bàn cùa hai cụ. Tôi đã hiệu chỉnh theo ba nguyên tắc sau đây: 1. Bổ sung những đoạn mà dịch giả thiếu, có thể do bản chép tay A.953 bỏ sót... 2. Điều chỉnh những chỗ khác biệt khá xa với nguyên bản. 3. Điều chỉnh các xưng hô. Đối với người Việt Nam, cách xưng hô biểu hiện thái độ của người giao tiếp với đối tượng mình đang giao tiếp. Không phải ngẫu nhiên Thanh Tâm tài nhân toàn gọi Mã giám sinh là Mã Bất Tiến, hoặc Mã Quy, trừ trường hợp duy nhất mụ mối giới thiệu y với gia đình Thúy Kiều mới gọi là Giám sinh họ Mã. Đối với Thúy Kiều cùng vậy, lúc tác giả gọi là Thúy Kiều, lúc lại gọi là phu nhân hoặc Vương phu nhân. Điều đó đều do dụng ý nghệ thuật của tác giả. Cách xưng hô còn biểu hiện trình độ văn hoá và quan hệ của người xưng hô với đối tượng giao tiếp. Hoạn Thư là con nhà gia giáo, có phong cách của bậc tiểu thư con quan Thượng thư bộ Lại, dù có ghét Thúy Kiều đến đâu nàng cũng không thể mày tao chí tớ với Thúy Kiều; Bạc Hạnh dù có cố phình nịnh để lừa Thúy Kiều thì y cũng không thể xưng anh anh em em với nàng... Gặp các trường hợp tương tự như vậy, tôi đều hiệu chỉnh lại. Ngoài ba nguyên tắc nêu trên, những chỗ nguyên bản không có mà dịch bản có, tôi cũng lược bỏ đi. Sau khi hiệu chỉnh xong, tôi đã đưa để Giáo sư Nguyễn Đình Chú duyệt lần cuối cùng. Nguyện vọng của tôi là chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc một dịch bản Kim Vân Kiều truyện càng ít sai sót và càng gần với bản Nguyễn Du dùng để sáng tạo Đoạn trường tân thanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên, mong muốn là một chuyện, còn có đạt được mong muốn ấy không, lại là vấn để khác vì nó phụ thuộc vào tình hình tư liệu và trình độ của người hiệu chỉnh. Văn bản dùng dể hiệu chỉnh là Kim Văn Kiều truyện do Tiếu Hoa Hiên tàng bản. Dù có cố gắng bao nhiêu, tôi cũng biết rằng, khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong được sự chỉ giáo của độc giả gần xa. Cuối cùng, có được bản Kim Vân Kiều truyện này là nhờ sự giúp đỡ của Giáo sư Nguyễn Đình Chú và nhà văn Siêu Hải - thân nhân của hai cố dịch giả Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân và Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Nhân đây xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Hà Nội, ngày 03 - 01 - 2000 Người hiệu chỉnh PGS.TS. NGUYỄN ĐẢNG NA *** Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài Nhân viết vào đời Thanh; truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là bình thường, nhất là khi tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu. Văn chương thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las  Mocedades del Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất nổi tiếng… Tiếp tục mạch bài về cách hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhất là các đoạn được trích trong sách giáo khoa, hôm nay, Tòa soạn giới thiệu bài viết thứ 7 của thày giáo, nhà nghiên cứu Nguyễn Cẩm Xuyên về chủ đề này. Các bài viết này, không chỉ có giá trị tham khảo trong giảng dạy cho các thày cô giáo, mà còn là những góc nhìn, phân tích rất thú vị của riêng tác giả đối với tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Ở nước ta Truyện Kiều được phổ biến rộng nên Kim Vân Kiều truyện cũng được các dịch giả chú ý dịch ra quốc ngữ; trước sau có đến khoảng 4, 5 bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch đầu tiên là của Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung do Phan Bá Cẩn xuất bản năm 1925, Tân Dân tái bản năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh do Viện Văn học in ronéo năm 1962, NXB Hải Phòng tái bản năm 1994 và NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Ở miền Nam, có bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản năm 1971. Gần đây có Tình sử Vương Thuý Kiều (Phong Tình Cổ Lục) do Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất bản năm 2000. Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế, NXB Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB Hải Phòng tái bản năm 1999… *** Thanh Tâm Tài Nhân (青心才人) sống vào đời nhà Minh. Ông quê ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang, học giỏi, hiểu biết rộng, nhưng đi thi không đỗ, bèn làm mặc khách của Hồ Tông Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài tác phẩm chính Kim Vân Kiều truyện, ông còn có loạt kịch Tứ thanh viên (Vượn kêu bốn tiếng) gồm 4 vở kịch: Ngư dương lộng, Thúy nương mộng, Hoa mộc lan và Nữ trạng nguyên. Mời các bạn đón đọc Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân.
Trả Hoa Hồng Cho Đất
Trả hoa hồng cho đất của Nguyễn Thị Diệp Mai là 1 trong 2 tác phẩm đoạt giải B (không có giải A) cùng với Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ của Nguyễn Ngọc Thuần tại cuộc thi "Sáng tác văn học cho tuổi trẻ" lần 2 của Nhà xuất bản Thanh Niên (2002 -2004). Trả hoa hồng cho đất của Nguyễn Thị Diệp Mai đầy ắp kỷ niệm, chứa chan tình người. Đấy là câu chuyện tình cảm của những thanh niên trẻ quê ở Kiên Giang nhưng đã sống quãng đời đẹp nhất ở đất Hà thành với nhiều mâu thuẫn, xung đột đan cài ngẫu nhiên, bất ngờ. Có lẽ vì vậy mà tiểu thuyết còn nặng trĩu sự khắc khoải, nhớ thương. Sóng gió của tuổi trẻ trôi qua như một giấc mơ, trong đó có những cơn ác mộng đã đẩy con người xuống tận địa ngục. Và người phải chịu đựng nhiều nhất là Vy – một cô gái có “nét là lạ ưa nhìn”, sống cá tính và luôn hết lòng vì người khác. Không phải ngẫu nhiên mà Vy thường viết câu thơ “Nếu không còn yêu anh. Hoa hồng kia xin trả về cho đất.”... Mộc mạc và tinh tế, Nguyễn Thị Diệp Mai đã thể hiện thành công khát vọng và những ngộ nhận trong tình cảm, tình yêu của những người trẻ tuổi. Mỗi nhân vật là một thế giới cực kỳ phức tạp, sống hết mình, yêu hết mình, tình yêu đích thực luôn ở bên mà hạnh phúc vẫn đến muộn. Câu chuyện không dài nhưng gợi cảm giác man mác, buồn vui như trải ra vô tận bởi nhiều người dễ tìm thấy một phần mình trong đó... *** R ạch Giá, Mùng một Tết Vy đang sửa lại bình hoa trên bàn, chuẩn bị bánh kẹo để đón những người bạn đầu tiên đến nhà ngày đầu năm mới. Vy vừa thò tay định mở hộp bóc kẹo ăn thì nghe tiếng cô em út la lên: - Chị Hai không được ăn, phải để khách mở trước! - Cái gì mà ghê vậy? – Vy nhăn mặt. – Thì hồi nãy chị bóc kẹo bỏ ra hộp chứ ai. - Không được ăn là không được ăn. Chị mà ăn thì cả năm sẽ không có ai đến thăm nhà mình đâu. – Con bé lắc đầu cương quyết. – Xui lắm! Vy phì cười: - Không đến thì đỡ tốn chứ gì mà xui? - Tại chị không biết thôi. Chị đi biền biệt, mỗi ngày cha mẹ đi làm tới tối mới về. Chỉ có em và chị Mỹ thay phiên nhau vừa đi học vừa giữ nhà.. Ở nhà một mình buồn thấy mồ, lâu lâu có khách đến chơi cũng vui. Nghe My nói, Vy thấy thương em quá. Ở nhà, hai đứa nhỏ đã gánh giùm cô bao công việc gia đình để cô có thể yên tâm xa nhà suốt bốn năm học đại học. Bây giờ mới học được một năm rưỡi mà cô đã thấy hai đứa em mình đã trưởng thành hẳn. Gia đình công chức, cha mẹ đi làm ngày tám tiếng, tối còn phải làm them. Hai đứa em của Vy chịu thương chịu khó chăm lo vườn tược, heo gà giúp cha mẹ. Vy không biết làm sao để đỡ gánh nặng cho hai em. Một năm cô đã mất hết mười tháng ở Hà Nội, thời gian được ở nhà quá ít ỏi. Về nhà Vy chỉ còn biết cố làm tất cả những gì có thể để cha mẹ và hai em cảm thấy vui. Vy cười khì bỏ viên kẹo trở vào hộp: - Không cho ăn thì thôi! Trời đất, ai tô son cho My vậy? Son trèo hết ra ngoài vành môi rồi kìa. Thôi vô buồng bôi sạch đi chị ô lại cho! Cô bé chạy tuốt vô buồng, vừa soi gương vừa cãi nhau chí chóe với chị Mỹ của nó. Vy phẩy tay kêu trời. Mùng Một Tết mà đã cãi nhau rồi, thật là không ra thể thống gì nữa! Cô đành đứng dậy đi vàô buồng dàn xếp cuộc đấu khẩu. Vy lấy khăn giấy lau hết son trên môi bé My rồi chọn màu son nhạt tô lại. Mỹ cũng chụm vào xem. Vy vừa trang điểm xong cho em thì nghe có tiếng xe máy dừng trước cổng. Cô bảo hai em tự đi thay quần áo rồi ra mở cổng. Vy gật đầu chào người thanh niên dắt xe đi sau Uyên. Anh ta mỉm cười, gật đầu chào lại. Uyên nheo mắt nhìn hai người: - Ủa có quen không mà nhìn nhau cười tươi vậy? - Người chở chị đến thì chắc là bạn của chị rồi. Trước không quen thì sau cũng phải quen thôi. Uyên cười khì chỉ tay vào người thanh niên, giới thiệu: - Anh Huy. Còn đây là Vy mà em thường kể đó. - Anh Huy! – Vy tròn xoe mắt nhìn người khách lạ. Uyên nắm tay Vy kéo tuốt lên sa-lông, bỏ mặc người khách lạ tìm chỗ dựng xe. Uyên với tay lấy hộp bánh lên ngắm nghía rồi mở nắp hộp bốc một cái bánh bột đầu, đưa lên miệng. Vy ngồi quan sát người thanh niên. Anh có một kiểu cười khóe môi hơi nhếch lên nửa thân thiện, nửa lạnh lung ngạo mạn. Nụ cười đó đặt trên một gương mặt sạm nắng. Cằm hơi dài với đôi lông mày rậm nhíu ở đầu, đuôi mắt ẩn dưới đôi mày ấy. Khổ người to cao với mái tóc dợn sóng - dân của miền biển. Chiếc áo sơ-mi màu nâu nhạt với những đường sọc đên nhã nhặn, đi kèm với chiếc quần may đúng mốt. Huy có vẻ hơi trầm lặng và kín đáo. Bé My từ phòng trong ào ra mừng Uyên, tíu tít cười nói quên cả chào khách. Vy bảo em: - Đi vô trong làm mấy ly nước ngọt đãi khách đi! - Đợi em đi khuất, Vy phân bua. - Bé My xem chị Uyên như người nhà nên hay đùa giỡn lắm, anh Huy đừng phiền. - Đâu có gì mà phiiền, - Huy mỉm cười, - cô bé dễ thương lắm! - Còn em thì sao? – Uyên vừa nhai bánh vừa hỏi – Hai mươi mốt tuổi rồi em dự định gì đây Vy? - Xì, - Vy trề môi nguýt dài. – Hơn người ta chưa tới bốn tuổi mà ra vẻ quá vậy? Chị lo cho chị đi. Ăn nhiều tròn trùng trục coi chừng anh Huy chê bỏ đó. - Huy không bỏ chị đâu – Uyên đưa cho Huy một miếng mứt bí trắng muốt – Anh đâu bao giờ bỏ Uyên phải không anh? Mời các bạn đón đọc Trả Hoa Hồng Cho Đất của tác giả Nguyễn Thị Diệp Mai.
Những Năm Tháng Rực Rỡ
Cuốn truyện "Những tháng năm rực rỡ" kể về Ah Reum, cậu bé 17 tuổi mang vẻ già nua của ông lão 80 do mắc hội chứng lão hóa sớm. Ae Ran Kim, tốt nghiệp khoa Biên kịch Đại học Nghệ thuật quốc gia Seoul, chủ nhân của nhiều giải thưởng văn học Hàn Quốc danh giá như giải Lee Hyo-seok, giải Shin Dong-yeop, giải Lee Sang… Đặc biệt, năm 2005, tập truyện ngắn Bố ơi, chạy đi đã giúp Ae Ran Kim trở thành nhà văn trẻ nhất từng nhận giải thưởng văn học Hankook Ilbo uy tín đầy thuyết phục khi mới 25 tuổi và được đánh giá là cây viết trẻ tài năng của làng văn học Hàn Quốc. Các tác phẩm của Ae Ran Kim tập trung vào hình ảnh con người trong cuộc sống hiện đại, đưa ra cái nhìn mới mẻ về xu hướng thay đổi của xã hội, nhưng đủ khéo léo, thuyết phục và nhận được cảm tình của độc giả. Những tháng năm rực rỡ kể về một câu chuyện cảm động xoay quanh tình cảm, sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình kỳ lạ có bố mẹ trẻ nhất và đứa con già nhất hẳn cũng đã quen thuộc với các khán giả Việt Nam qua bộ phim cùng tên do Song Hye Kyo và Kang Dong Won thủ vai. Câu chuyện được dẫn dắt bởi giọng kể của Ah Reum, một cậu bé tuy mới 17 nhưng đã có hình hài của cụ ông 80. Những nỗi đau mà em và gia đình phải gánh chịu đôi khi được bộc lộ qua giọng văn ngây ngô và góc nhìn trong sáng, có lúc thốt lên những câu hỏi khiến người ta khó thốt nên lời. “Bố mẹ có tôi khi mới mười bảy tuổi. Năm nay tôi vừa tròn mười bảy. Cũng chẳng có cách nào để biết chắc tôi có thể lớn lên thành mười tám hay mười chín tuổi hay không. Điều đó không do chúng tôi định đoạt. Điều duy nhất chúng tôi biết, là thời gian không còn nhiều.” Ah Reum mang trong mình căn bệnh quái ác, em không biết liệu còn có thể đón sinh nhật tiếp theo. Nhưng trái tim yếu ớt chưa lúc nào thôi háo hức rộn ràng trước vẻ đẹp của cuộc sống, ngôn từ, tình cảm gia đình, cùng chút rung động đầu đời với “cô bạn” qua thư… Và cuộc sống, dẫu ngắn, dẫu dài, vẫn là những tháng năm rực rỡ trong quãng thời gian cậu "tồn tại". Nhìn những đứa trẻ bằng tuổi, cậu bé Ah Reum không khỏi chạnh lòng. “Những đứa trẻ cứ lớn nhanh như thổi. Còn tôi thì già đi trông thấy. Khoảng thời gian một tiếng với ai đó, đối với tôi như một ngày và một tháng đối với người khác lại là một năm với tôi. Bây giờ tôi còn già hơn cả bố tôi. Bố nhìn vào tôi để thấy được khuôn mặt lúc ông tám mươi tuổi. Còn tôi nhìn vào bố để bắt gặp hình ảnh khi tôi ba mươi tư. Có một sự đối lập, phản chiếu giữa một tương lai chưa đến và một quá khứ chưa qua. Tôi và bố tôi thường hỏi nhau rằng: Làm bố mẹ ở tuổi mười bảy có phù hợp hay không? Mất đứa con ở tuổi ba tư có phù hợp hay không?” Cha mẹ cậu dường như đâu đó trong tiềm thức vẫn mắc kẹt ở tuổi 17 lúc sinh ra cậu, nhưng chắc chắn họ biết cách yêu thương cậu hơn ai hết. Bố hỏi tôi rằng: “Nếu được sinh ra lần nữa thì con muốn trở thành gì?” Tôi đã dõng dạc trả lời: “Thưa bố, con muốn trở thành bố ạ.” Bố tôi hỏi tiếp: “Còn rất nhiều điều khác tốt hơn, tại sao con lại muốn là bố?” Tôi thoáng bối rối nhưng vẫn nói rằng: “Bởi vì con muốn biết tấm lòng của bố sau khi sinh con ra đời.” Bố tôi khóc. Tác phẩm Những tháng năm rực rỡ  từng lấy đi nước mắt của hàng triệu độc giả. Khi gấp lại cuốn sách, qua những lời tâm sự của nhân vật chính, bạn đọc sẽ quý trọng, thêm yêu cuộc sống của chính bản thân mình. *** Bố mẹ có tôi khi mới mười bảy tuổi. Năm nay tôi vừa tròn mười bảy. Cũng chẳng có cách nào biết chắc tôi có thể lớn lên thành mười tám hay mười chín tuổi hay không. Điều đó không do chúng tôi định đoạt. Điều duy nhất chúng tôi biết, là thời gian không còn nhiều. Những đứa trẻ cứ lớn nhanh như thổi. Còn tôi thì già đi trông thấy. Khoảng thời gian một tiếng với ai đó, đối với tôi như một ngày. Và một tháng đối với người khác lại là một năm với tôi. Bây giờ tôi còn già hơn cả bố tôi. Bố nhìn vào tôi để thấy khuôn mặt mình khi tám mươi tuổi. Còn tôi nhìn vào bố để tìm hình ảnh khi tôi ba mươi tư. Có một sự đối lập, phản chiếu giữa một tương lai chưa đến và một quá khứ chưa qua. Tôi và bố tôi thường hỏi nhau rằng: Làm bố mẹ ở tuổi mười bảy có phù hợp hay không? Mất đứa con ở tuổi ba mươi tư có phù hợp hay không? § Bố hỏi tôi rằng: “Nếu được sinh ra lần nữa thì con muốn trở thành gì?” Tôi đã dõng dạc trả lời: “Thưa bố, con muốn trở thành bố ạ.” Bố tôi hỏi tiếp: “Còn rất nhiều điều khác tốt hơn, tại sao con lại muốn là bố?” Tôi thoáng bối rối nhưng vẫn nói rằng: “Bởi vì con muốn biết tấm lòng của bố sau khi sinh con ra đời.” Bố tôi khóc. Và đây là câu chuyện về một cặp cha mẹ trẻ nhất và một đứa con già nhất. “Mỗi khi một ngọn gió thổi qua, vốn từ vựng ít ỏi trong tôi lại xáo trộn dữ dội. Giống như những chú cá bị hong khô trong chính làn gió biển mặn mòi, những từ ngữ đó khiến tôi thấy thể tích cơ thể mình như đang bị thu nhỏ lại giữa một không gian cứ rộng ra mãi. Hồi nhỏ, tôi hay tập viết lại tên các sự vật mà tôi học phát âm lần đầu. Đây là “tuyết”, kia là “đêm”, đằng xa là “cái cây”, dưới chân có “đất”, “tang sin”* nghĩa là “bạn”... Tôi tập làm quen với cuộc sống bằng âm thanh, rồi sau đó mới dần dần tập viết lại từng âm tiết một. Cho đến bây giờ, đôi khi tôi vẫn thấy ngạc nhiên rằng mình đã biết đến tên các sự vật theo cái cách như thế.” Thuở nhỏ, tôi nói ríu ran suốt cả ngày. “Mẹ ơi, cái này là cái gì thế ạ? Cái kia là cái gì hả mẹ?” Tôi cứ nói luôn miệng như vậy khiến mọi người xung quanh phải chóng mặt với tôi. Mọi cái tên đều trong sáng và nhẹ nhàng đến mức chẳng thể dính được vào sự vật. Và tôi thì cứ hỏi đi hỏi lại những điều hôm qua tôi đã nghe, hôm kia tôi đã học, như thể mới lần đầu tiên. Chỉ cần tôi đưa ngón tay lên chỉ, là những từ ngữ, những âm thanh lạ lùng đó lại đua nhau rớt ra khỏi miệng mọi người trong nhà tôi. Dường như khi tôi cất tiếng hỏi thì thứ gì đó sẽ chuyển động giống như là cảnh vật đung đưa trong gió vậy. Vì thế, tôi khá là thích thú câu hỏi: “Cái này là cái gì?” Thậm chí tôi còn thích câu hỏi này hơn cả câu trả lời của mọi người. “Bi” thì là mưa, “nat” thì là ban ngày, “yeo-rưm” thì là mùa hè... Mỗi ngày trôi qua tôi lại học được kha khá từ vựng. Có những từ tôi hay nhắc đến và cũng có những từ tôi chẳng sử dụng bao giờ. Người ta bảo rằng cứ gieo thứ gì xuống mặt đất thì ắt sẽ có cái gì đó khẽ cựa mình nhô lên như mầm cây. Khi tôi gọi “yeo-rưm” là mùa hè, dường như tôi có thể sở hữu nó. Tôi tin như vậy và còn hỏi nhiều hơn. Cái này gọi là “đất”, cái này gọi là “cây”, còn đây nữa là “bạn”... Cái này, cái kia, cái đó, mọi thứ cứ lặp đi lặp lại và chuyển động theo nhịp hơi thở của tôi. Nếu tôi phát âm từ “kư-keot” (cái đó), tôi cảm thấy một vòng tròn đồng tâm bắt đầu mở rộng ra từ âm thanh “cái đó”. Thỉnh thoảng tôi còn cảm thấy nó to lớn như thế giới của tôi vậy. Bây giờ tôi đã biết gần hết những từ cần thiết cho cuộc sống của tôi. Điều quan trọng nhất có lẽ là những từ đó đo đếm được độ rộng lớn của cái thế giới bên ngoài cứ ngày một thu nhỏ cơ thể của tôi. Khi nói từ “gió”, tôi mường tượng ra hàng nghìn phương hướng thay vì chỉ là bốn phương. Khi nói từ “phản bội”, tôi thấy mình như đang đuổi theo bóng cây thánh giá cứ đổ lúc một dài hơn dưới ánh hoàng hôn. Khi gọi tiếng “bạn”, tôi như đang thăm dò một vùng đất bằng phẳng, ẩn giấu chiều sâu thăm thẳm, tựa như có lớp tuyết phủ che lấp một khe hở sâu bên dưới. Dường như đó cũng là việc khó khăn nhất trên đời này. Gió vẫn cứ thổi như thế, và tôi, từ khi sinh ra chưa từng một lần được trẻ. Vậy nên, đương nhiên là những lời tôi nói cũng vậy thôi. Mời các bạn đón đọc Những Năm Tháng Rực Rỡ của tác giả Ae-ran Kim.
Nữ Hoàng Tin Đồn
Trong Nữ hoàng tin đồn của Thẩm Thương My có hoàng tử, nhưng hoàng tử lại biến thành chú ếch. Có cô gái lọ lem nhưng cô gái lọ lem lại biến thành nàng công chúa nhảy khỏi chiếc giường có hạt đậu. Có thái hậu độc ác muốn chia rẽ hai người yêu nhau, nhưng cuối cùng thái hậu đã thất bại. Một cô gái lạ mặt, không chút tiếng tăm đã trở thành vợ chưa cưới của chàng thiếu gia nhà họ Đường, con trai của chủ tịch tập đoàn Bắc Thần – Đường Ca Nam. Cô là ai mà có thể trói buộc được trái tim của chàng trai đào hoa, phóng túng, lúc nào cũng có một tá scandal tình ái vây quanh. Giới thượng lưu và giới truyền thông sục sôi vì tin tức này. Họ tìm mọi cách để biết được cô ấy là ai, từ đâu tới, có xuất thân như thế nào. Kết quả chỉ gói gọn trong mấy thông tin mơ hồ: cô ấy tên Phong Bình, không nghề nghiệp, chưa tốt nghiệp đại học, thậm chí còn không có cả số điện thoại… Nhưng chỉ cần một câu nói của cô mà một vị khách vip đã bị đuổi cổ ra khỏi khách sạn cao cấp nhất, còn bị liệt vào danh sách đen, vĩnh viễn không được khách sạn đó chào đón. Đến nhà thiết kế thời trang nổi tiếng thế giới cũng phải nhún mình, “sự hiện diện của cô trong show diễn ra mắt bộ sưu tập mới là mốc son chói lọi nhất trong cuộc đời nghệ thuật” của bà. Đã có một thời gian, cái tên Phong Bình đã được dùng thay cho từ “cô gái Lọ Lem”. Thân phận thực sự của cô là gì? Không ai biết, không ai có thể tìm ra lời giải đáp thỏa đáng nhất. Một chuỗi tin đồn đã bắt đầu từ đây… Còn cô ấy chỉ nói: “Tôi đến từ Thúy Minh Hồ”. *** Đây là cuốn truyện mà sau khi đọc xong, Hoa Ban thấy vô cùng tự hào cho chị em phụ nữ.   Ở làng Ngôn tình, nào giờ chỉ có nam giới được gắn cái mác: lạnh lùng, giàu có, tài hoa, phúc hắc, vân vân và ve ve… Còn chị em chúng ta thì bị coi không ra gì, cụ thể là: -Chàng là công tử nhà giàu —— > nàng là cô bé lọ lem nghèo khổ – Chàng hào phóng, phong lưu ——- > nàng yếu ớt, tự ti, hiền lành, tiểu bạch thỏ -Chàng nếu cao cao thì làm Chủ tịch tập đoàn, thường thường thì làm Tổng Giám đốc, soàng soàng cũng là trưởng phòng nào đó, cổ trang cũng phải làm Hoàng đế, vương gia, tướng quân mới chịu! ——– > nàng lại làm một nhân viên quèn bé nhỏ, cổ trang cũng là tì thiếp cho người ta. -Chàng tài trí thông minh, sắp đặt mọi việc, tới nổi bị đánh giá “không phải người” ——— > nàng ngây ngây ngô ngô ——- > làm con mồi bị sập bẫy Ái chà… chị em phụ nữ bị ngược tơi bời, không có lấy năm trăm đồng dũng mãnh, đâu phải ai cũng được như A Mạch nhà chị Tiên Chanh hay Phong Bình nhà Thẩm Thương My mà Hoa Ban sắp nhắc tới đây ^^ Cô gái trong Nữ hoàng tin đồn đích thực là một Nữ Hoàng. Cô mang xuất thân cao quý, bí ẩn che giấu kĩ lưỡng bởi cái vỏ Cô bé lọ lem. Cô ấy bất cần sự che chở của đàn ông, khi yêu thì nồng nhiệt và lý trí. Cô ấy khiến phụ nữ ghen tị, đàn ông ngưỡng mộ và Đường Ca Nam mất đi vị trí thượng phong của một nam chính trong ngôn tình. Tình yêu của họ thật dễ thương, lãng mạn và đi ngược mới mô tuýp thông thường. Ở đây Phong Bình là người đứng sau toàn cuộc, giật dây cứu giúp sản nghiệp Đường Gia. Xét về tiền tài, đại vị, Đường Ca Nam không bằng cô. Ở đây, Phong Bình dùng sức mạnh thanh thế mà lùng sục tìm kiếm tung tích của người cô yêu, điên cuồng, sợ hãi cho an nguy của anh, rất đúng phong cách “Mỹ nhân cứu anh hùng”. Ai bảo nữ cường thì làm nam nhân thành hèn kém? Phong Bình là Phong Bình mà Đường Ca Nam thì vẫn cứ là anh ta, chỉ là cô gái ấy không tẻ nhạt như đa số kiểu nhân vật nữ và mang đến sự phá cách đầy lôi cuốn. So về nhiều mặt, Đường Ca Nam đã bị Phong Bình dẫn đầu nhưng anh không tỏ ra thấp kém vì anh có cái “tôi” không suy suyễn và một tình yêu chân thành, thực tế. Cách anh yêu khiến các độc giả nữ phải trầm trồ, và trái tim nhiệt tình đã làm tảng băng Phong Bình chảy thành nước ^^ Trong Nữ Hoàng tin đồn, cô ấy thật lợi hại…. Trong Nữ Hoàng tin đồn, anh ấy rất đàn ông… Sao các bạn không thay đồi khẩu vị một chút, thế giới này, phụ nữ cũng có thể làm thủ tướng, vì sao trong ngôn tình, phụ nữ không thể hùng mạnh??? Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Tin Đồn của tác giả Thẩm Thương My.