Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Không Giới Hạn - Khám Phá Ho'oponopono

"KHÔNG GIỚI HẠN là câu chuyện về sự trở về trạng thái zero, nơi không một thứ gì tồn tại nhưng mọi thứ đều khả dĩ. Ở trạng thái zero, không còn tư tưởng, ngôn từ, hành vi, ký ức, chương trình, niềm tin hoặc bất kỳ điều gì khác. Chẳng có gì cả." (Bí mật của vũ trụ) Có phải bạn đang làm việc quá sức và quá căng thẳng? Có phải bạn đang làm hết sức nhưng vẫn chẳng thành công trong sự nghiệp và cuộc sống cá nhân? Nếu bạn đang cố gắng vất vả nhưng chưa đạt được kết quả như ý thì có lẽ vấn để nằm ở bên trong bạn. Có lẽ điều đang cản trở bạn nằm bên trong bạn chứ không phải ở bên ngoài. Không giới hạn đưa đến cho bạn một phương pháp đột phá để vượt qua những giới hạn nội tại và đạt được những mục tiêu mơ ước. Ho'oponopono là một hệ thống bí quyết tâm linh cổ xưa của người Hawaii, một phương pháp trị liệu vô cùng hiệu quả để giải phóng tâm thức, loại bỏ những trở ngại tinh thần, giúp bạn đạt đến mục tiêu không giới hạn trong công việc lẫn cuộc sống. Joe Vitale và Ihaleakala Hew Len, những bậc thầy về Ho'oponopono hiện đại, sẽ từng bước hướng dẫn bạn áp dụng phương pháp này để gặt hái thành công về vật chất, sức khỏe, tinh thần và hạnh phúc. *** Tôi vẫn chưa nắm được trọn vẹn câu chuyện về những gì ông đã làm ở bệnh viện tâm thần. “Ông chưa bao giờ gặp bệnh nhân?” một hôm tôi hỏi lại ông một lần nữa. “Chưa bao giờ?” “Tôi có gặp họ trong hành lang nhưng chưa bao giờ tiếp bệnh nhân trong văn phòng của tôi”, ông nói. “Có lần tôi gặp một bệnh nhân và anh ta lên tiếng, “Tôi có thể giết ông, ông biết rồi đó.” Tôi đáp, “Tôi dám cược rằng anh cũng có thể làm việc giỏi giang.” Tiến sĩ Hew Len kể tiếp, “Khi tôi bắt đầu về bệnh viện tiểu bang để phụ trách các bệnh nhân tâm thần hình sự, mỗi ngày có ba, bốn vụ tấn công nghiêm trọng giữa các bệnh nhân. Lúc ấy có chừng 30 bệnh nhân. Họ bị xiềng, nhốt vào buồng cách ly, hoặc bị hạn chế trong phân khoa. Các bác sĩ và y tá đi lại trong hành lang đều dán lưng vào tường vì sợ bị tấn công. Sau một vài tháng thanh tẩy, chúng tôi thấy một sự thay đổi hoàn toàn theo chiều hướng tốt đẹp hơn: không cần xiếng nữa, không cách ly nữa, và người ta được phép ra ngoài để làm việc hoặc chơi thể thao.” Nhưng chính xác thì ông ấy đã làm gì để kích phát sự chuyển hóa này? “Tôi phải nhận hoàn toàn trách nhiệm bên trong chính mình về việc đã hiện thực hóa các vấn đề bên ngoài bản thân tôi”, ông đáp. “Tôi phải thanh tẩy những ý nghi độc hại của chính mình và thay thế bằng tình yêu thương. Chăng có bất kỳ điều gì bất ổn với các bệnh nhân. Lôi làm nằm ở tôi.” Theo lời Tiến sĩ Hew Len giải thích, các bệnh nhân và thậm chí cả nhân viên cũng không cảm nhận được tình thương. Và ông đã yêu thương tất cả. “Tôi nhìn các bức tường và thấy rằng tường cần được sơn lại”, ông bảo tôi. “Nhưng chẳng có lớp sơn mới nào ăn cả. Sơn cứ tróc ra ngay. Thế là tôi bảo các bức tường rằng tôi yêu thương chúng. Rồi một ngày kia có người quyết định lại tiếp tục sơn tường và lần này thì tường ăn sơn.” Câu chuyện nghe thật lạ tai, nhưng tôi đã quen với những câu chuyện thế này từ ông. Rốt cục tôi buộc phải đặt ra câu hỏi lâu nay làm tôi bận tâm nhiều nhất. “Có phải tất cả bệnh nhân đã được xuất viện?” “Có hai người không được xuất viện”, ông nói. “Cả hai đều được chuyển đi nơi khác. Còn lại thì cả phân khoa đều lành bệnh.” Rồi ông gợi ý một chuyện mà thật sự đã giúp tôi hiểu được sức mạnh của việc ông đã làm. “Nếu anh muốn tìm hiểu diễn tiến của sự việc trong thời gian đó thì hãy viết thư cho Omaka-O-Kala Hamaguchi. Cô ấy làm công tác xã hội trong thời gian tôi làm việc tại đó.” Tôi đã viết thư. Cô ta viết lại cho tôi như sau: Thân gửi Joe, Cám ơn anh về cơ hội này. Xin nói để anh biết rằng tôi viết thư này cùng với Emory Lance Oliveira, một người cũng làm công tác xã hội trong phân khoa của Tiến sĩ Hew Len. Lúc ấy tôi nhận ra mình được điều đến làm công tác xã hội tại phân khoa hình sự mới mở tại bệnh viện tâm thần tiểu bang Hawaii. Phân khoa này mang tên là Phân khoa Cách ly An ninh Đặc biệt (CISU). Nơi đây giữ các bệnh nhân-phạm nhân đã phạm các trọng tôi tàn bạo như giết người, hãm hiếp, hành hung, cướp, xâm hại. có người phạm nhiều tội danh cùng lúc, và được chấn đoán đã mắc phải hoặc có khả năng bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Một số bệnh nhân-phạm nhân này trước đó đã được kết luận vô tội vì lý do tâm thần và được phán quyết đưa về đây; một số người thì loạn tâm thần rõ nét và cần được điều trị, còn một số thì được giữ ở đó để làm xét nghiệm và lượng giá để xác định tình trạng hầu có hướng xử lý (thí dụ, xem họ có khả năng hiểu được các cáo buộc đối với họ và tham gia vào quá trình bào chữa cho bản thân hay không). Một số bị tâm thần phân liệt, một số thì rối loạn lưỡng cực và một số thì thiểu năng trí tuệ, trong khi đó một số khác được chẩn đoán thuộc dạng thái nhân cách hoặc rối loạn nhân cách chống xã hội. Cũng có những người muốn tìm cách thuyết phục tòa án rằng họ thuộc một hoặc tất cả các dạng kể trên. Tất cả đều được nhốt trong phân khoa 24/7 và chí dược phép ra ngoài vì mục đích y tế hoặc theo yêu cầu của tòa án khi có hộ tống và xiêng cổ chân, cố tay. Hầu hết thời gian họ phải ở trong 1 căn phòng cách ly, tức một căn phòng bị khóa, với tường và trần bằng bê tông. một buồng vệ sinh có khóa và không có cửa sổ. Nhiều người phải dùng thuốc liều cao. Các hoạt động của họ đều ít ỏi hoặc thưa thớt. “Sự cố” là tên gọi những vụ việc chúng tôi dự trù xảy ra hằng ngày – bệnh nhân tấn công nhân viên, bệnh nhân tấn công bệnh nhân khác, bệnh nhân tự tấn công chính mình, bệnh nhân âm mưu đào tẩu. Các “sự cổ” về phía nhân viên cũng là một vấn đề – nhân viên thao túng bệnh nhân; các vấn đề về ma túy, cáo ốm và chế độ lương bổng; bất hòa trong nội bộ; liên tục phải tìm người mới cho các vị trí bác sĩ tâm lý, bác sĩ tâm thần và các vị trí hành chính mà họ xin nghỉ việc; các vấn đề về điện và nước; và đại loại, không thể kể hết. Đó là một nơi căng thẳng, bất ổn, rất dễ nản lòng và đây không khí hung tợn. Thậm chí cỏ cây còn không chịu mọc. Và khi phân khoa được dọn đến một cơ sở mới vừa được trùng tu, an toàn hơn nhiều, với khu giải trí có rào, cũng chẳng ai nghĩ sẽ có một sự thay đổi gì. Cho nên khi xuất hiện “một bác sĩ tâm lý nữa”, mọi người hình dung rằng ông sẽ khuấy động bầu không khí, tìm cách áp dụng các chương trình tân tiến và rồi rốt cục chưa kịp an vị cũng sẽ nhanh chóng ra đi. Tuy nhiên, lần này đó là Tiến sĩ Hew Len, một người mà ngoài vẻ thân thiện, dường như chẳng làm gì cả. Ông chẳng làm lượng giá bệnh án, đánh giá tình hình hay chẩn đoán; ông chẳng đưa ra liệu pháp nào và chẳng hề làm một xét nghiệm tâm lý nào. Ông thường đến trễ và chẳng tham dự các buổi hội chẩn hoặc các phiên thăm khám bắt buộc. Thay vì vậy, ông thực hành một phương pháp Self I-Dentity Hooponopono (SIH) “quái lạ” mà nội dung là nhằm chịu trách nhiệm 100 phần trăm với chính mình: chỉ quán xét chính mình, và cho phép giải tỏa những năng lượng tiêu cực và ngoài ý muốn bên trong mình. Lạ lùng nhất là nhà tâm lý học này dường như luôn luôn thoải mái và thậm chí còn thật sự thích thú! Ông cười rất nhiều, đùa giỡn với bệnh nhân và nhân viên, và dường như thật sự thích công việc. Đáp lại, mọi người dường như cũng yêu mến và thích ông ấy, cho dù ông có vẻ chẳng làm việc gì nhiều. Và mọi chuyện bắt đầu chuyển biến. Các phòng cách ly bắt đầu trống; bệnh nhân bắt đầu chịu trách nhiệm về các nhu cầu và sinh hoạt của họ; họ cũng bắt đầu tham gia vào việc trù tính và triển khai các chương trình và dự án cho chính họ. Mức độ chỉ định thuốc cũng giảm xuống và bệnh nhân được phép ra khỏi phân khoa mà không cần xiềng. Phân khoa trở nên sống động – yên ổn hơn, sáng sủa hơn, an toàn hơn, sạch sẽ hơn, năng động hơn, vui vẻ hơn và chữa trị hiệu quả hơn. Cây cối bắt đầu mọc, các vấn đề về cấp nước gần như không còn nữa, các vụ bạo hành trong khoa trở nên hiếm hoi, và nhân viên dường như hòa đồng hơn, thư thái hơn và nhiệt tình hơn. Thay cho tình trạng cáo ốm nghi phép và thiếu người, giờ đây quan ngại của mọi người là dư thừa nhân sự và mất chỗ làm. Có hai trường hợp cụ thể đã tác động đến tôi cực ky sâu sắc. Có một bệnh nhân hoang tưởng nghiêm trọng dạng ảo giác, với tiền sử bạo hành và đã từng làm bị thương nặng nhiều người trong bệnh viện và ở chốn công cộng, và cũng đã nhiều lần nhập viện. Anh ta được đưa đến CISU lần này do phạm một vụ giết người. Tôi sợ anh ta chết khiếp. Mỗi lần thấy anh ta ở gần là tôi dựng hết cả tóc gáy. Thế rồi, tôi hết sức ngạc nhiên khi chỉ trong khoảng một, hai năm từ lúc Tiến sĩ Hew Len đến làm việc, một hôm tôi nhận ra anh ta đang đi về phía tôi với người hộ tổng nhưng không bị xiêng và tóc gáy của tôi đã không dựng lên. Cảm giác của tôi lúc ấy như thể nhận ra người quen, mà không chút phán xét, khi chúng tôi đi lướt qua nhau gần như vai chạm vào nhau. Tôi không hề có phản ứng quen thuộc chỉ muốn vắt giò lên cổ mà chạy. Thật ra, tôi nhận thấy anh ta trầm tĩnh. Lúc ấy tôi không còn làm việc ở phân khoa nữa nhưng tôi đã quyết tìm hiểu cho ra chuyện gì đã xảy ra. Tôi biết rằng anh ta đã không còn bị cách ly và bị xiêng một thời gian và lời giải thích duy nhất là một số nhân viên lúc ấy đang thực hành phương pháp Hooponopono mà Tiến sĩ Hew Len chia sẻ với họ. Tình huống thứ hai xảy ra trong khi tôi đang xem tin tức trên TV. Tôi được nghỉ việc một ngày theo chế độ tĩnh dưỡng tinh thần để thư giãn. Bản tin đưa tin về vụ ra tòa của một bệnh nhân CISU trước đó từng phạm tội xâm hại và sát hại một bé gái cỡ ba, bốn tuổi. Bệnh nhân này trước đó đã phải nhập viện vì tỏ ra không đủ tinh táo để tòa thụ lý vụ án. Anh ta đã được nhiều bác sĩ tâm thần và tâm lý xét nghiệm: đánh giá, và trải qua một loạt chẩn đoán mà lúc ấy hầu như đã giúp anh ta vô tôi vì lý do sức khỏe tâm thân. Anh ta lẽ ra không phải đi tù và lẽ ra đã được giam giữ thoải mái hơn trong điều kiện của bệnh viện tiểu bang, với cở nay được phóng thích có điầu kiện. Tiến sĩ Hew Len đã tương tác với bệnh nhân này, để rồi rốt cục anh ta xin được học phương pháp SIH và rất kiên trì thực hành, hệt như bản tính trột cựu sĩ quan thủy quân lục chiễn của anh ta. Đến giờ này thì anh ta đã tỏ ra lành mạnh để ra tòa và đã được tòa lên lịch thụ lý. Trong khi hấu hết các bệnh nhân và luật sư đều hầu như luôn luôn chọn phương án viện lý do sức khỏe tâm thần để không bị kết tội, bệnh nhân này lại không làm thế. Hôm trước ngày ra tòa, anh ta đã truất quyên của luật sư. Chiểu ngày hôm sau, anh đứng trước tòa. đối diện với vị chánh án và tuyên bố với giọng hối tiếc và thành khẩn, “Tôi chịu trách nhiệm và tôi rất tiếc.` Không ai ngờ được điểu này. Phải mất một lúc thì vị chánh án mới hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Tôi đã chơi quần vợt với Tiến sĩ Hew Len và anh chàng này khoảng hai, ba lần và, mặc du bệnh nhàn này hết sức lịch sự và chu đáo, tôi vẫn có định kiến của dội Tuy nhiên, vào khoảnh khắc Ấy, trong phòng xử án, t0 chỉ cảm nhận được một sự ân cần và tình thưởng dành cho anh ta và cảm nhận được cả một sự chuyển biển lớn lao trong phòng xử. Giọng của chánh án và các luật sư Trở nên nhẹ nhàng, và tất cả những người xung quanh đều nhìn anh với nụ cười trìu mến. Quá là một khoảnh khác kỳ lạ. Cho nên, một buổi chiều kia, sau một trân quần vợt, khi Tiến sĩ Hew Len hỏi có ai muốn học phương pháp Hooponopono này không, tôi đã nhanh nhảu đồng ý và háo hức mong cho ván đấu kết thúc để được học. Giờ đây đã 20 năm trôi qua và tôi vân còn cảm thấy choáng với những gì được học lúc ấy, nghĩ đến chuyện Siêu nhiên đã tác động thông qua Tiến sĩ Hew Len ở Bệnh viện Tiểu bang Hawaii. Tôi mãi mãi biết ơn Tiến sĩ Hew Len và phương pháp “kỳ quái” mà ông đã mang đến. Còn nếu anh thắc mắc thì tôi xin kể rằng bệnh nhân này đã bị tòa kết án nhưng lại được chánh án chiếu cố phần nào bảng cách đáp ứng nguyện vọng của anh ta được thụ án tại một trại cải tạo liên bang ngay tiểu bang quê nhà, để anh ta được ở gần vợ con. Mặc dù đã gần 20 năm trôi qua, sáng nay tôi nhận được một cú điện thoại của một cựu thư ký phân khoa muốn hỏi thăm xem Tiến sĩ Hew Len có chút thời gian rỗi vào lúc nào đó để họp mặt với các cựu nhân viên hay không, những người mà giờ đây hầu hết đã nghỉ hưu. Chúng tôi sẽ gặp nhau trong một vài tuần nữa. Ai biết được sẽ có gì mới? Tôi sẽ chăm chú đón nghe các câu chuyện. Bình an, O.H. *** Thông tin tác giả Joe Vitale, Ihaleakala Hew Len Tiến sĩ Joe Vitale: chủ tịch Công ty Tiếp thị Hypnotic Inc. kiêm đồng sáng lập viên của Frontier Nutritional Research, một công ty chuyên về các công thức chống lão hóa đã được kiểm nghiệm. Ông là một trong những ngôi sao của bộ phim nổi tiếng Điều bí mật (The Secret). Ông là tác giả của rất nhiều tựa sách bán chạy, tiêu biểu nhất có thể kể đến Hệ số hấp dẫn: Năm bước dễ dàng để tạo ra sự thịnh vượng (hay bất cứ điều gì khác) từ bên trong Cẩm nang cuộc sống bị thất truyền: Kim chỉ nam lẽ ra bạn phải được trao khi chào đời; Sức mạnh của Tiếp thị bức xúc... Tiến sĩ Thaleakala Hew Len: Đã giảng dạy hệ thống Hooponopono cải biên trên khắp thế giới từ năm 1983. Ông đã tham gia các chương trình về giải quyết vấn đề và giải tỏa stress trong bốn thập niên và có ba năm là bác sĩ tâm lý học lâm sàng tại bệnh viện Tiểu bang Hawaii. Hew Len đã làm việc với hàng ngàn người trong nhiều năm, gồm các nhóm công tác tại Liên hợp quốc; UNESCO; Hội nghị Thống nhất Quốc tế về Hòa bình Thế giới, Hội nghị Hòa bình Thế giới, Hội nghị Y học Truyền thống Người da đỏ; Những người chữa lành Hòa bình ở châu  u và Hiệp hội Giáo chức Tiểu bang Hawaii. Mời các bạn đón đọc Không Giới Hạn- Khám Phá Ho'oponopono của tác giả Joe Vitale & Ihaleakala Hew Len.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 - Phan Dũng
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và ngược lại trình bày những yếu tố tương đối độc lập, cần lưu ý nhất, như nhu cầu, xúc cảm, các thói quen tự nguyện, tư duy thuộc thế giới bên trong và hành động của mỗi cá nhân, cùng các mối liên kết giữa chúng. Chương 6: Tư duy sáng tạo: Nhìn theo góc độ thông tin – tâm lý tập trung chi tiết hóa quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của cá nhân. Các hiện tượng thông tin – tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong tư duy sáng tạo được trình bày cùng với các lời khuyên về cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Không ít người hiện nay để cho suy nghĩ nói riêng, các hoạt động của thế giới bên trong con nguời mình nói chung, diễn ra một cách tự nhiên và không để ý đến chúng. Do vậy, nhiều phép thử sai như là kết quả của các hành động cá nhân đã không được những người đó tìm hiểu, giải thích theo quan hệ nguyên nhân–kết quả một cách khoa học. Những kiến thức của Chương 5 và 6 giúp cá nhân không chỉ có ý thức một cách tương đối đầy đủ về các hoạt động thuộc thế giới bên trong mà còn giúp cá nhân “lắng nghe” và “suy nghĩ” về chúng, tức là, về chính bản thân mình. Điều này có nghĩa, cá nhân cần dành thời gian, công sức tự hỏi, tự quan sát, tự theo dõi, tự trả lời và tự rút kinh nghiệm để phát huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của các hiện tượng thuộc thế giới bên trong con người. Chương 7 này có mục đích phát triển tiếp những gì đã trình bày, theo hướng thảo luận nhằm trả lời câu hỏi: “Cần làm những gì và làm như thế nào để có thể điều khiển được hành động và thế giới bên trong của con người sáng tạo?”. Ở đây, người viết không có tham vọng trả lời trọn vẹn câu hỏi nói trên vì đấy là công việc phức tạp và của rất nhiều người. Do vậy, bạn đọc nên quan niệm Chương 7 này giống như sự cung cấp các thông tin, chia sẻ các kiến thức để chúng ta còn quay trở lại thảo luận tiếp trong tương lai, khi có dịp thuận tiện. Đi vào cụ thể, Chương 7 sẽ trình bày một số ý tưởng cơ bản chung của một bộ môn khoa học, gọi là điều khiển học. Có một loạt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “điều khiển” như quản lý, quản trị, điều hành, lãnh đạo, dẫn dắt, điều chỉnh, lái, lèo lái, kiểm soát... Trừ những trường hợp cần nhấn mạnh, nói chung, người viết sẽ dùng từ “điều khiển”. Tiếp theo, Chương 7 sẽ trình bày mối quan hệ, tác động qua lại của cá nhân và môi trường (hiểu theo nghĩa rộng nhất), có tính đến những kế thừa lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội. Để đối phó với những thách thức đến từ môi trường, con người hiện đại có nhu cầu thay đổi thế giới bên trong của chính mình, hiểu theo nghĩa, phải chủ động điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong, một mặt, cho phù hợp với các thay đổi môi trường. Mặt khác, điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong để điều khiển quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, tạo ra các hành động biến đổi môi trường, phù hợp với các quy luật phát triển khách quan. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 của tác giả Phan Dũng.