Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Số Không

“Số không” - tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp Umberto Eco khiến người đọc không ngừng tự vấn: “Đâu mới là sự thật trước những gì truyền thông đang trưng trổ, phơi bày?”   Bên dưới một Milano hiện đại là “một Milano của cha tôi, của anh tôi”, một Milano mang trong lòng nó nhiều bí ẩn. Ở đó, người ta chứng kiến những đổi thay diễn ra hằng ngày nhưng vì mỏi mệt nên chẳng màn lưu tâm hoặc vì chén cơm manh áo mà đành ngoảnh mặt. Tờ Ngày mai và 12 Số Không Một nhóm 6 cây bút, nếu không muốn nói là 6 người thất bại, được tập hợp lại chuẩn bị cho sự ra đời của tờ Ngày mai gồm 12 Số Không từ 0/1, 0/2 đến 0/12 trong vòng một năm, dưới tay trụ cột Simei. Viễn cảnh của tờ Ngày mai sẽ chẳng được như cái tên sáng lạng, đầy tương lai của nó, bởi nó là một tờ báo ‘ma’ “chỉ in ít bản, để ông chủ đánh giá rồi chuyển cho ai tùy thích” nhằm uy hiếp những nhân vật quyền thế với mục đích bước vào thánh địa ‘tài chính, ngân hàng và có lẽ là những tờ báo lớn’ của Vimercate - ông chủ tờ báo - nhân vật kiểm soát “hàng chục khách sạn bên bờ biển Adriatic, rất nhiều viện dưỡng lão, một loạt các phi vụ buôn bán gây xôn xao dư luận, một vài kênh truyền hình địa phương...” Colonna, trợ lý chủ bút, bề ngoài có nhiệm vụ thống nhất phong cách, chủ trương của tờ báo với nhóm phóng viên, thực chất là viết cuốn sách về tờ báo này với tên gọi Ngày mai - hôm qua. Điều này, tất nhiên, chỉ có Simei và Colonna biết. Chủ trương để tờ báo hoạt động là tránh càng xa càng tốt các vấn đề liên quan đến tài chính, môi trường, mafia, quan chức… Tóm lại, tránh xa tất tần tật những thứ có thể mang lại rắc rối cho tờ báo cũng như gây hấn đến bất kỳ bang hội nào. Thứ duy nhất mà nó hướng đến là độc giả bình dân “không hề đọc nổi một cuốn sách nhưng có thể kể vanh vách cuốn sách nào đang bán chạy” bằng cách tập trung chúi mũi vào tin tức giật gân nhằm kích hoạt trí tò mò của họ, những ám dụ kỳ thị vùng miền hay mục tử vi vô thưởng vô phạt có thể “áp dụng cho tất cả mọi người, từ cô nữ sinh 16 tuổi cho đến bà cụ 80”. Những chiêu trò của giới làm báo được Eco phơi bày đầy giễu nhại và hài hước. “Không phải tin tức làm nên tờ báo mà tờ báo làm nên tin tức” - Simei dõng dạc. Và nhiều lần tái khẳng định: “Chính chúng ta là những người tạo tin, và chúng ta cần biêt cách để nó tự nổi lên đằng sau những con chữ”. Viết báo, không đơn giản là viết để chuyển tải sự thật mà còn là cắt ghép như thế nào để người đọc tự rơi vào ‘bẫy’, khám phá những điều nhà báo ám chỉ. “Cái ám chỉ lợi hại nhất là nêu ra những dữ kiện vốn chẳng có giá trị nào nhưng lại có thật, không phủ nhận được”. “Các cơ thể hồng hào của thiên thần là gì nếu không phải lớp vỏ bọc lừa dối khoác ngoài mọt bộ xương, cho dù có thuộc nơi thiên đàng đi nữa”.  “Sự thực còn vượt quá trí tưởng tượng và giờ chẳng ai có thể tưởng tượng điều gì nữa” Song song với hành trình của tờ Ngày mai, những bí ẩn bên của Milano dần dần lật mở qua cuộc điều tra của Braggadocio - một cây bút có tiểu sử gia đình dính dấp đến phe phát xít, luôn hoài nghi và không bao giờ nhằm mắt tin vào bất cứ thông tin gì, trừ phi có bằng chứng hẳn hoi: “Báo chí dối trá, truyền hình dối trá, các nhà sử học cũng nối dối nốt”. Bối cảnh châu Âu, cụ thể hơn là cách vận hành của thể chế, xã hội Ý từ sau chế độ độc tài Mussolini tan rã được tái hiện qua cuộc trò chuyện với tần suất ngày một nhiều và dày đặc thông tin giữa Colonna và Braggadocio. Bên thắng cuộc không ngừng công kích, trừng phạt, xỉ vả bên thua cuộc, ca ngợi những huyền thoại đẫm lệ, hùng tráng mà không màn đến sự thật hoặc bỏ qua sự thật, không đủ bình tĩnh để kiểm chứng hay không muốn chấp nhận sự thật? Những-thịt-da, máu mủ nhuộm đỏ quảng trường trong cơn hả hê của những ‘hung thần lên cơn khát’, những cái bóng ẩn dật của các phe phái, thiết chế chính trịnh cất giữ hàng loạt bí mật, bưng bít sự thật. Khiếp sợ thể chế, báo chí thời điểm đó cùng tiếp tay tung hê, đưa những thông tin rời rạc thay vì kiếm tìm và đi đến tận cùng của sự thật, của lịch sử. Có gì ngạc nhiên đâu khi trong dòng chảy truyền thông được xác lập và bị chi phối bởi những mưu đồ kinh tế, chính trị, báo chí ngày càng rời xa hiện tại. Điều cốt lõi, sự thật ở đây là gì không quan trọng. Quan trọng là bạn tung nó ra vào thời điểm nào! Có không ít sự thật dễ dàng bị che lấp bởi nhiều thông tin khác, bởi đôi khi người ta cố tình thổi phồng một sự việc để giảm bớt sự chú ý vào một sự việc khác. Khi vở kịch hạ màn thì một nhúm người lưu tâm chỉ còn biết há hốc mồm bởi: “sự thực còn vượt quá trí tưởng tượng và giờ chẳng ai có thể tưởng tượng điều gì nữa”. Và vỡ lẽ: “Chẳng có gì là mảng tối mảng sáng trong nghệ thuật Baroque nữa, tất cả đều được phơi bày dưới ánh sáng ban ngày, như thể được các họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng vẽ vậy: nạn tham nhũng được dung thứ, mafia ngồi ngay trong nghị viện, trốn thuế ngay trong chính phủ, trong tù chỉ có lũ trộm chó trộm gà thôi”. Sự thật đó biến kẻ cầm bút còn biết chút tự vấn thành những kẻ chạy trốn, đồng thời là những con ma thất bại, cay đắng như Maia, như Colonna, tự ủi an: “thanh thản mà chấp nhận sống trong nghi ngờ cái thế giới quanh mình. Cuộc đời là có thể chịu đựng được, miễn là phải biết tự hài lòng”. Còn số đông ư? “Vẫn tiếp tục bầu cho bọn du côn vì họ sẽ chẳng tin vào BBC, hoặc bởi họ chẳng xem những chương trình như thế này vì còn đang dán mắt vào mấy chương trình lá cải”. Sự thật chua chát như Maia từng có lần thốt lên rằng: “Tôi chưa bao giờ hiểu được cái mốt nói lời chính thức xin lỗi là tín hiệu của sự nhún nhường hay trơ trẽn nữa: anh làm cái gì đó lẽ ra không được làm, rồi lên tiếng chính thức xin lỗi, thế là phủi tay coi như xong.” Cái chết của một con người hay của một tờ báo Cái chết không rõ nguyên do cuối truyện không chỉ là cái chết của một con người mà còn của một tờ báo, sự giãy chết của một xã hội thông tin chuộng những trò lố bịch, rẻ tiền, khước từ sự thật liên quan đến số phận con người. Từ sau năm 1945 cho đến năm 1992, thời điểm tờ Ngày mai hoạt động, gần 50 đã trôi qua nhưng có vẻ như bản chất của nền báo chí Milano không hề thay đổi qua ám dụ ký hiệu của Umberto Eco “ngày mai - hôm qua”, “quá khứ - hiện tại” trong lời đề từ Eco mượn của nhà tiểu thuyết Anh - E. M. Forster “Only Connect”. Kỷ nguyên mới ra đời, thông tin tràn ngập, thậm chí nhiễu loạn, sự hoài nghi ngày càng gia tăng tỷ lệ với khả năng tiếp cận sự thật. Chỉ có kết nối giữa quá khứ và hiện tại mới tạo nên tương lai, mới giảm thiểu được những thế hệ lạc loài, ngu muội. Chỉ có lòng dũng cảm đón nhận sự thật dù trái tai và đầy đớn đau, người ta mới có quyền kỳ vọng vào một ngày mai tốt đẹp, một nền báo chí tốt đẹp, đứng về phía người bình dân, cùng khổ. *** Thứ Bảy mồng 6 tháng Sáu năm 1992, 8 giờ sáng Sáng nay vòi nước không chảy. Toóc, toóc hai tiếng như tiếng trẻ con ợ, rồi tịt ngóm. Tôi gõ cửa hàng xóm: ở nhà họ mọi thứ vẫn ổn. Bà hàng xóm bảo: hay cậu lại khóa van tổng rồi. Cháu á? Nó ở đâu cháu còn chẳng biết nữa là. Cháu cũng mới chuyển đến, mà bác thấy đấy, cháu đi làm suốt, tối mịt mới về. Ôi Trời! Thế khi cậu đi vắng cả tuần cũng không khóa van nước và gas à? Rõ là bất cẩn. Để tôi vào xem thế nào. Bà ta mở chiếc tủ nhỏ dưới bồn nước, vặn vặn cái gì đó thế rồi nước chảy ra. Thấy chưa? Cậu khóa van vào còn gì. Xin lỗi bác, cháu lơ đễnh quá. Ôi giời, xinh-gờ độc thân như chú! ôkê-gâu: vâng thế mời bà đi cho! Giờ thì đến bà hàng xóm cũng nói tiếng Anh kia đấy! Bình tĩnh nào. Không có chuyện ma quỷ gì ở đây hết, những thứ đó chỉ có trong phim ảnh mà thôi. Tôi cũng không mắc chứng mộng du, mà ngay cả khi có bị mộng du đi chăng nữa, tôi cũng chẳng biết cái van nằm ở chỗ nào, nếu không thì hẳn tôi đã đóng nó lại khi không ngủ được rồi, bởi vòi hoa sen trong nhà tắm bị rỉ nước nên lúc nào tôi cũng có nguy cơ thức chong chong cả đêm vì tiếng róc rách nhỏ giọt, khác nào Chopin trên đảo Valldemossa![1] Quả thật, nhiều khi đã ngủ rồi lại tỉnh, tôi phải ra khỏi giường, đi đóng cửa nhà tắm và cửa phòng ngủ tại để khỏi phải nghe tiếng nước róc rách khó chịu đó. Cũng không có chuyện chập điện hay gì gì đó (vì van là van tay vặn, cái tên nó cũng đủ để hiểu là cơ chế vận hành bằng tay rồi), mà chuột có chạy qua cũng không thể đủ mạnh để làm quay nắp van có dạng bánh xe sắt kiểu cổ lỗ sĩ (mọi vật dụng trong cái nhà này phải có từ ít nhất năm mươi năm trước rồi), lại còn han gỉ nữa chứ. Cho nên hẳn phải có tay người (hay mang hình dáng người) ở đây. Tôi cũng chẳng có ống khói lò sưởi để cho con đười ươi phố Morgue[2] trèo vào. Thử nghĩ xem nào. Người ta nói cái gì cũng có nguyên nhân của nó cả. Loại bỏ khả năng có điều kỳ diệu nào xảy ra, bởi đó chỉ là cái vòi hoa sen chứ có phải Biển Đỏ đâu mà Chúa đoái hoài tới. Cho nên kết quả tự nhiên thì nguyên nhân cũng phải tự nhiên. Đêm qua trước khi lên giường tôi có uống một viên thuốc ngủ, như vậy là cho tới lúc đó nước vẫn chảy. Sáng nay thì không. Cho nên Watson[3] thân mến ơi, van nước đã bị khóa đêm qua, mà không phải do mi. Ai đó đã vào nhà, hắn, hay chúng, sợ rằng tôi tỉnh dậy, không phải do tiếng động chúng gây ra (chúng hẳn êm như ru rồi), mà bởi tiếng nhỏ giọt của vòi nước, khiến chính chúng cũng phát điên, có khi còn tự hỏi sao nó lại không đánh thức tôi dậy. Thế nên, vốn láu cá, chúng đã đóng van nước lại, y như bà hàng xóm hẳn đã làm. Thế rồi sao? Đống sách vở vẫn để lộn xộn như thường, cho dù toàn bộ mật thám trên thế giới có qua đây lật từng trang sách đi chăng nữa thì tôi cũng chẳng nhận ra. Có xem trong ngăn kéo hay mở tủ ở hành lang chăng nữa cũng vô ích. Thời buổi này nếu muốn tìm gì thì chỉ có một chỗ: lục trong máy tính. Có khi để tiết kiệm thời gian, chúng đã sao lại tất cả rồi trở về nhà. Và lúc này, sau khi đã mở đi mở lại từng tài liệu, chúng hẳn đã nhận ra trong máy tính không có thứ gì đáng quan tâm. Chúng hy vọng tìm được gì? Hẳn là thứ gì đó liên quan tới tờ báo (tôi chẳng thấy có khả năng nào khác). Chúng không ngu đâu, chúng nghĩ tôi đã ghi chép toàn bộ công việc diễn ra tại tòa soạn, và do đó, nếu biết điều gì về vụ Braggadocio, hẳn tôi đã ghi lại vào đâu đấy. Giờ thì chúng đoán ra sự thật rồi, tức là tôi giữ mọi thứ trong một đĩa máy tính. Đương nhiên đêm qua chúng đã ghé thăm cả phòng làm việc, và không tìm thấy cái đĩa nào của tôi cả. Do đó chúng bây giờ mới suy ra rằng có lẽ tôi giữ nó trong túi. Hẳn chúng đang tự rủa sao lại ngu thế chứ, đáng lẽ phải tìm trong túi áo khoác của nó. Ngu ư? Lũ khốn. Nếu khôn thì hẳn đã không làm cái nghề bẩn thỉu này rồi. Chúng sẽ thử lại lần nữa, ít nhất là sẽ giở chiêu lá thư bị đánh cắp[4] ra với tôi, chúng sẽ giả làm lũ móc túi mà tấn công tôi trên đường. Cho nên tôi phải nhanh chân lên, trước khi chúng quay lại, phải gửi cái đĩa tới một địa chỉ nào đó, rồi xem lúc nào có thể tới lấy được. Trời ơi sao tôi lại có thể nghĩ những điều vớ vẩn thế được kia chứ? Đã có một xác chết rồi, còn Simei đã phải tháo chạy. Ai cần biết tôi có biết gì hay không đâu: để cho chắc, chúng sẽ loại tôi đi cho rảnh nợ. Tôi chẳng thể lên báo mà trình bày mình chẳng biết gì về vụ việc này, bởi chỉ riêng việc nhắc tới nó thôi đã để lộ ra là mình biết về nó. Tại sao tôi lại rơi vào vũng lầy này? Tôi tin mọi chuyện là do giáo sư Di Samis và việc tôi biết tiếng Đức mà ra cả. *** Tại sao tôi lại nghĩ tới Di Samis? Đã bốn mươi năm trôi qua rồi còn gì. Bởi tôi vẫn luôn đổ lỗi cho ông về việc mình chưa bao giờ tốt nghiệp đại học, và chỉ vì chưa bao giờ tốt nghiệp đại học nên bây giờ tôi mới bị cuốn vào âm mưu này. Còn Anna đã bỏ tôi hai năm sau khi cưới, nói rằng cô ấy nhận thấy tôi là một kẻ bỏ đi, một tên thất bại. Chẳng rõ ngày trước tôi đã kể với cô ấy những gì để tỏ ra mình hay ho đẹp đẽ. Tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học bởi tôi biết tiếng Đức. Bà tôi là người vùng Alto Adige nên đã luyện cho tôi nói tiếng Đức từ bé. Từ năm thứ nhất đại học, tôi đã nhận dịch sách tiếng Đức để trang trải chi phí. Thời đó, chỉ cần biết tiếng Đức thì đã coi như có một nghề rồi. Ai đọc và dịch được những cuốn sách Đức mà người khác không hiểu (và do đó được coi là quan trọng) sẽ được trả công cao hơn so với tiếng Pháp, thậm chí cả tiếng Anh. Ngày nay tôi nghĩ cũng tương tự như ai biết tiếng Trung hay tiếng Nga. Nói ngắn gọn thì hoặc dịch tiếng Đức, hoặc tốt nghiệp. Làm cả hai thì không được. Quả thật, dịch tức là ở trong nhà, cả khi trời nóng lẫn khi trời rét, làm việc mà chân vẫn xỏ dép đi trong nhà, và nhất là học được khối thứ. Sao lại phải lên lớp, theo các bài học ở trường làm gì? Vốn tính biếng nhác, tôi đã quyết định đăng ký vào khoa tiếng Đức, tự nhủ như thế chẳng phải học gì nhiều, bởi tôi đã biết hết rồi. Thuở đó, giáo sư Di Samis đã tạo ra cái mà đám sinh viên vẫn gọi là tổ đại bàng, trong một tòa nhà xây theo lối ba rốc nay đã cũ nát, nơi phải trèo lên một cầu thang rộng để tới sảnh lớn. Một bên là tới văn phòng của thầy Di Samis, một bên là khán phòng lớn, như cách giáo sư gọi thật khoa trương: phòng học chỉ có sức chứa khoảng năm mươi sinh viên. Ta chỉ có thể vào văn phòng của thầy Di Samis nếu xỏ dép đi trong nhà vào. Thế nhưng ngoài cửa chỉ có đủ số dép cho các trợ lý của giáo sư và hai hoặc ba sinh viên. Ai không có dép thì đứng ở bên ngoài chờ tới lượt mình. Tôi nghĩ mọi thứ ở đây đều được đánh sáp bóng loáng, kể cả đống sách trên tường, kể cả khuôn mặt của các trợ lý đã già, tự cổ lai hỵ vẫn đang ngồi chờ tới lượt mình được lên chức giảng viên. Phòng học có mái vòm rất cao và cửa sổ theo lối gô tích (chẳng hiểu nổi sao lại có lối kiến trúc như thế trong một tòa nhà ba rốc), với kính màu xanh. Khi tới giờ, tức là đúng mười bốn phút sau giờ lên lớp, giáo sư Di Samis rời phòng làm việc. Đi cách ông một mét là vị trợ lý già, và cách hai mét là các trợ lý trẻ hơn, chỉ dưới năm mươi thôi. Vị trợ lý già mang sách hộ giáo sư, các trợ lý trẻ vác máy ghi âm - vào thời cuối những năm năm mươi, đống máy ghi âm vẫn còn to đùng, chẳng khác gì chiếc xe Rolls-Royce. Thầy Di Samis bước qua mười mét ngăn cách phòng làm việc và phòng học như thể khoảng cách là hai mươi mét vậy: ông không đi đường thẳng, mà đường cong (đường cong parabol hay đường elip, tôi cũng chẳng rõ nữa), vừa đi vừa nói to "tới đây, tới đây!", rồi bước vào phòng học, ngồi xuống cái ghế bành chạm trổ cầu kỳ - thiếu mỗi nước ông bắt đầu tự xưng là Thánh Ishmael nữa thôi. Ánh sáng chiếu qua tấm kính cửa sổ màu xanh khiến cho khuôn mặt ông trở nên nhợt nhạt, ông mỉm cười nham hiểm trong lúc các trợ lý bật máy ghi âm, rồi bắt đầu lên tiếng: "Trái với những gì mà vị đồng nghiệp đáng kính của tôi - giáo sư Bocardo - đã nói gần đây..." và cứ thế suốt hai tiếng đồng hồ. Thứ ánh sáng xanh le lét đó khiến tôi luôn rơi vào trạng thái thiu thiu ngủ. Mắt các trợ lý cũng chẳng khá gì hơn. Tôi biết nỗi khổ của họ. Sau hai giờ giảng, trong khi lũ sinh viên chúng tôi ùa ra khỏi phòng học, giáo sư Di Samis cho tua lại đoạn băng rồi rời khỏi ghế bành, ngồi xuống hàng ghế đầu cạnh các trợ lý đầy dân chủ. Thế rồi tất cả cùng nghe lại bài giảng dài hai tiếng đồng hồ, giáo sư gật gù thỏa mãn mỗi khi tới đoạn ông cho là quan trọng. Cần phải biết rằng khóa học có chủ đề là bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức của Martin Luther. Thật là quá sức tưởng tượng! Lũ sinh viên cùng lớp tôi vẫn nói thế với ánh mắt đau khổ. Vào cuối năm thứ hai, sau khi theo rất ít bài giảng, tôi liền đánh bạo xin làm đề tài khóa luận về tính châm biếm trong các tác phẩm của nhà thơ Heine (tôi thấy được an ủi với cách ông đối mặt những mối tình bất hạnh, cái cách mà tôi gọi là những lời châm biếm chua cay cần thiết - tôi đang chuẩn bị cho nỗi bất hạnh trong tình yêu của chính mình). Thầy Di Samis thất vọng nói: "ôi giới trẻ bây giờ chỉ chăm chăm bập ngay vào các tác giả hiện thời..." Trong một phút thông minh bất thình lình, tôi nhận ra rằng không hy vọng gì vào việc viết luận với thầy Di Samis. Tôi nghĩ tới giáo sư Ferio, trẻ hơn, nổi tiếng thông minh sáng suốt. Mảng nghiên cứu của ông là thời kỳ lãng mạn và các thời kỳ lân cận. Nhưng các bạn học lớn tuổi hơn đã cảnh báo tôi rằng muốn gì thì gì, tôi vẫn phải có thầy Di Samis là giáo viên hướng dẫn thứ hai, rằng tôi không được tiếp cận giáo sư Ferio một cách chính thức, nếu không Di Samis sẽ biết ngay và biến tôi thành kẻ thù vĩnh viễn. Tôi phải đi lách, phải giả bộ là chính Ferio đã yêu cầu tôi làm khóa luận với thầy, như thế Di Samis sẽ giận ông ta, chứ không giận tôi. Di Samis ghét Ferio, bởi một lý do đơn giản là chính Di Samis đã giúp Ferio có được cái chức giảng viên này. Tại trường đại học thuở ấy (tôi nghĩ cả ngày nay cũng vậy), mọi thứ đều đảo ngược so với thế giới thông thường: không phải con ghét cha, mà là cha ghét con. Tôi nghĩ sẽ có thể giả vờ tình cờ tiếp cận Ferio tại một trong các hội thảo hằng tháng do Di Samis tổ chức ở phòng học của ông, vốn được rất nhiều đồng nghiệp tham dự bởi ông luôn mời được các nhà nghiên cứu nổi tiếng. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy: ngay sau hội thảo là thời gian dành cho tranh luận, do các giáo sư độc diễn, rồi tất cả rời đi vì diễn giả được mời tới nhà hàng Con Rùa - nhà hàng ngon nhất trong vùng, với phong cách giữa thế kỷ mười chín, thậm chí những người phục vụ ở đó còn mặc bộ áo đuôi tôm. Từ tổ đại bàng tới nhà hàng, cần phải đi qua một phố lớn hai bên là những mái vòm, rồi quảng trường cổ kính, rẽ tại góc một tòa nhà trang trí cầu kỳ và cuối cùng đi qua một quảng trường nhỏ. Suốt dọc con phố có mái vòm, vị diễn giả được các giáo sư bao quanh, cách họ một mét là các giáo viên hợp đồng, cách hai mét là cánh trợ lý trẻ hơn, và cách đó xa xa là đám sinh viên mạnh dạn nhất. Khi tới quảng trưởng cổ, các sinh viên tản đi, tới góc tòa nhà, cánh trợ lý rút lui, các giáo viên họp đồng đi hết quảng trường nhỏ, nhưng cáo lui trước ngưỡng cửa nhà hàng, chỉ diễn giả và các giáo sư bước vào trong. Thế nên thầy Ferio không biết tới sự tồn tại của tôi. Mà bấy giờ tôi cũng hết hứng thú với môi trường ấy, cho nên không tới lớp nữa. Tôi làm công việc dịch thuật như một cái máy, chấp nhận dịch bất cứ cái gì khách hàng yêu cầu. Có lúc tôi còn đắm mình trong cái lãng mạn của trọn bộ ba tập về vai trò của nhà lý thuyết kinh tế Friedrich List trong việc sáng lập ra Liên minh quan thuế Đức Zottverein. Thế nên có thể hiểu được tại sao sau đó tôi từ bỏ việc dịch tiếng Đức, nhưng lúc ấy thì cũng đã quá muộn để quay trở lại trường đại học rồi. Vấn đề nằm ở chỗ ta không chịu chấp nhận sự thật: ta cứ tiếp tục sống mà đinh ninh rằng một ngày nào đó sẽ hoàn thành tất cả các bài thi và luận văn. Và khi sống mà nuôi hy vọng bất khả thì ta đã là kẻ thất bại rồi. Khi nhận ra điều đó thì chẳng còn cách nào khác là từ bỏ. Ban đầu tôi tìm được công việc gia sư cho một thằng bé Đức quá ngu không thể đến trường tại vùng núi Thụy Sĩ Engadina. Khí hậu rất tốt, cô quạnh trong mức có thể chịu đựng được, tôi ở đó một năm vì tiền công cao. Thế rồi một hôm, bà mẹ thằng bé xán lại sát người tôi trong hành lang, ám chỉ bà ta sẵn lòng chiều tôi. Bà ta răng vẩu, mép lún phún ria. Tôi lịch thiệp nói cho bà ta hiểu mình chẳng mặn mà gì. Ba hôm sau tôi bị đuổi việc với lý do thằng bé không đạt tiến bộ gì trong học tập.   Mời các bạn đón đọc Số Không của tác giả Umberto Eco.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo - Susan Elizabeth Phillips
Bằng câu chuyện hài hước, tác giả chứng minh rằng những người tính cách trái ngược luôn tạo sức hấp dẫn với đối phương. Tình đầu hay tình cuối / 9 bí quyết để trở thành nhà văn ăn khách Câu chuyện bắt đầu bằng việc Lucy Jorik chuẩn bị kết hôn với Ted Beaudine - ngài thị trưởng trẻ tuổi, điển trai, tài năng và giàu có của thị trấn Wynette. Đó là người đàn ông hoàn hảo được tất cả phụ nữ trong thị trấn ngưỡng mộ. Đám cưới sẽ diễn ra tốt đẹp nếu không có sự xuất hiện của Meg Koranda - cô bạn thân chuyên gây rắc rối của Lucy. Meg đến Wynette để tham dự đám cưới của Lucy với vai trò phù dâu. Nhưng ngay từ lần đầu tiên gặp Ted, bằng linh cảm của một người bạn thân Meg đã một mực quả quyết rằng anh chàng này chẳng hợp với Lucy chút nào. Vốn mê Ted như điếu đổ, nhưng chẳng hiểu tại sao Lucy lại nghe theo lời khuyên của Meg và hủy bỏ hôn lễ vào phút chót. Từ đây, Meg chính thức trở thành kẻ thù của Ted và cả thị trấn Wynette - nơi tôn sùng thị trưởng của họ không khác nào một vị thánh. Lúc này, một rắc rối khác tiếp tục xảy đến với Meg. Vì muốn cô con gái ba mươi tuổi của mình tự lập, dừng việc rong chơi vô bổ suốt ngày và dựa dẫm vào người khác, bố mẹ Meg đã khóa các tài khoản của cô. Nợ tiền phòng, bị Ted gây khó dễ, cộng thêm việc không tìm được ai giúp đỡ, Meg đành phải ở lại Wynette làm công để trừ nợ. Từ một cô tiểu thư quen hưởng thụ, bỗng chốc Meg trở thành một nhân viên phục vụ phòng cỏn con và suốt ngày bị bắt nạt. Không còn cách nào khác cô đành nhẫn nhịn và chăm chỉ làm việc để sớm có tiền  quay trở lại Los Angeles.  Do hiểu nhầm Ted là một người đàn ông trăng hoa, nên Meg đã ghét cay ghét đắng anh chàng và suốt ngày tìm cách chơi xấu. Nhưng càng ở lâu bên Ted cô mới nhận ra anh là một người đàn ông tuyệt vời hơn cả những gì thiên hạ vẫn đồn đại. Tình yêu đã chớm nở giữa hai con người hoàn toàn trái ngược này. Đây cũng là lúc những rắc rối mới xảy đến. Đầu tiên là việc đám phụ nữ ở Wynette, đặc biệt là những cô nàng đang để ý đến Ted không thể chấp nhận được chuyện anh yêu Meg. Tất cả đều cho rằng Meg đã dùng thủ đoạn để quyến rũ ngài thị trưởng đẹp trai của Wynette. Họ tìm đủ mọi cách để chơi xấu Meg. Không chỉ có vậy, Spencer Skipjack - ông chủ lớn nhất trong dự án đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng ở Wynette cũng để ý đến Meg. Điều đó đồng nghĩa với việc Ted phải đứng giữa hai lựa chọn khó khăn là bảo vệ người con gái anh yêu hay nghĩ cho tương lai của thị trấn Wynette. Chỉ có dũng cảm đứng lên đương đầu với mọi khó khăn mới đưa họ đến một cái kết hạnh phúc. Susan Elizabeth Phillips không còn xa lạ với những độc giả yêu thích dòng văn học lãng mạn Mỹ. Các tác phẩm nổi tiếng của bà xuất bản ở Việt Nam gồm: Trời sinh quyến rũ, Tình đầu hay tình cuối, Con của riêng tôi, Mai mối cho tôi nếu em có thể, Vì đó là em... Các tiểu thuyết của Susan đều nằm trong danh sách best-seller của tờ USA Today và New York Times. Bà là tác giả 5 lần đoạt giải "Sách của năm" và từng nhận giải "Thành tựu trọn đời" do Hội các nhà văn lãng mạn Mỹ trao tặng. *** Bộ sách Wynette, Texas gồm có: Fancy Pants (Wynette, Texas, #1) Lady Be Good (Wynette, Texas, #2) Glitter Baby (Wynette, Texas, #3) First Lady (Wynette, Texas, #4) - Tình Đầu Hay Tình Cuối What I Did for Love (Wynette, Texas, #5) - Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo Call Me Irresistible (Wynette, Texas, #6) The Great Escape (Wynette, Texas, #7) *** Lời tác giả Mỗi cuốn sách tôi viết đều có một đời sống độc lập, nhưng điều đó không ngăn cản các nhân vật trong tác phẩm này lang thang vào trong một tác phẩm khác. Rất nhiều người bạn cũ đã bước vào trong cuốn sách này - Francesca và Dallie Beaudine từ Fancy Pants; Nealy Case và Mat Jorik từ First Lady; Fleur và Jake Koranda từ Glitter Baby (Bé Cưng Lấp Lánh); Kenny Traveler và Emma (ối chà... Công nương Emma chứ) từ Lady Be Good, và cuốn này còn bao gồm cả câu chuyện tình yêu có một không hai của Torie và Dex nữa. Bạn có thể thấp thoáng bắt gặp hình ảnh Meg ngày xưa trong What I Did for Love (Tình đầu hay tình cuối) và gặp phiên bản thời trẻ của Ted trong cả Fancy Pants lẫn Lady Be Good. Và, phải, Lucy Jorik xứng đáng có một cái kết hạnh phúc. Khi viết những dòng chữ này, tôi đã đang làm việc cật lực với câu chuyện của cô ấy rồi. Tôi cần phải cảm ơn sự động viên của rất nhiều người, trong đó có biên tập viên và người bạn thân quyến rũ khôn cưỡng của tôi, Carrie Feron; đại diện lâu năm của tôi, Steven Axelrod, những người cổ vũ tuyệt vời của tôi ở Harper Collins, William Morrow và Avon Books. Đúng vậy, tôi biết rõ ràng tôi may mắn biết bao khi được tất cả các bạn cùng sát cánh bên tôi. Tôi không biết mình có thể làm gì nếu không có trợ lý tài năng Sharon Mitchell, người đã giúp hết thảy mọi chuyện được trôi chảy. Vô cùng cảm ơn cố vấn golf độc nhất vô nhị của tôi, Bill Phillips. Ngoài ra còn có Claire Smith và Jessie Niermeyer vì đã chia sẻ “Những câu chuyện từ xe đồ uống” của họ. Nhiệt liệt hoan hô những bạn văn thân thiết của tôi: Jennifer Greene, Kristin Hannah, Jayne Ann. Krentz, Cathie Linz, Suzette Van và Margaret Watson, cùng tràng pháo tay đặc biệt dành cho Lindsay Longford. Xin được gửi những cái ôm nồng nhiệt tới những người bạn tôi mới quen trên Facebook cùng tất cả những người ủng hộ tuyệt vời đã gửi tin nhắn cho tôi! SUSAN ELIZABETH PHILLIPS Mời các bạn đón đọc Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Cuộc Gọi Từ Thiên Thần
“Một câu chuyện lãng mạn, cốt truyện bậc thầy với kết thúc điêu luyện”, đó là những dấu ấn về tác phẩm mới của Guillaume Musso. Một tuần trước lễ Giáng sinh, tại phòng chờ chật cứng người của sân bay JKF, New York, một người đàn ông và một người phụ nữ đâm sầm vào nhau. Sau cú sốc vì va chạm và những lời lẽ cáu giận mà mỗi người họ dành cho người còn lại, Madeline và Jonathan ai đi đường nấy: anh lên chuyến bay Delta 4565 rời New York với đích đến là San Francisco, còn cô lên chuyến Air France để trở về Paris nơi mình sinh sống. Mọi thứ tưởng như ổn thỏa, nhưng chỉ đến khi đã cách nhau 10.000 cây số, họ mới nhận ra rằng mình đang … cầm nhầm điện thoại của nhau. Madeline là chủ một tiệm hoa tại Paris, trong khi Jonathan là chủ một nhà hàng tại San Franciso. Họ chưa bao giờ gặp nhau, và hẳn cũng sẽ chẳng bao giờ tái ngộ. Nhưng rồi, hai chiếc điện thoại đã trở thành cầu nối, khiến họ khám phá ra những điều bí mật gắn kết giữa hai con người họ mà chính họ cũng chưa bao giờ ngờ tới… Và định mệnh tình yêu, nằm trong hai chiếc điện thoại kia…  “Họ là những người mà số phận đã được định sẵn để gặp nhau. Dù họ đang ở đâu. Dù họ sẽ đi đến đâu. Một ngày nào đó họ sẽ gặp nhau. Claudie Gallay – trích Cuộc gọi từ thiên thần Cuốn tiểu thuyết Cuộc gọi từ thiên thần trở thành cuộc hành trình của hai con người xa lạ dần khám phá về nhau. Từ những tò mò rất đỗi con người, thông qua những hành động “xem trộm” hình ảnh, tin nhắn, email, đến tất cả những ghi chú, phim ảnh, trò chơi trong điện thoại của… người còn lại, Jonathan và Madeline dần vẽ nên hình ảnh rõ nét nhưng vẫn đầy bí ẩn của đối phương. Một lực hấp dẫn vô hình được tạo nên giữa hai người họ, lôi kéo cả hai vào một câu chuyện tình còn gay cấn hơn cả truyện trinh thám. *** Với sức nóng của mình, cuốn tiểu thuyết nhận được không ít lời khen từ giới phê bình và báo chí. “Một tiểu thuyết trinh thám có sức hút mạnh mẽ.” - Télé7jours “Một cuộc điều tra khiến chúng ta nghẹt thở đến tận trang cuối cùng.” - France 2 – “Cuộc gọi từ thiên thần, bắt đầu như một tiểu thuyết lãng mạn, rồi tăng tốc trở thành một cuốn trinh thám mà ta không thể buông tay ra nữa.” – Đài Europe 11. *** Guillaume Musso, sinh năm 1974 tại Antibes (miền Đông nước Pháp), hiện đang là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Say mê văn học từ thuở nhỏ, anh bắt tay vào viết văn khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Văn chương của Guillaume Musso được ví như sự kết hợp hoàn hảo giữa Marc Levy và Stephen King, đậm màu sắc liêu trai, hấp dẫn, bất ngờ và lãng mạn mê đắm, tiệm cận chiều sâu tâm hồn mỗi con người. Những tác phẩm tiêu biểu của Guillaume Musso là: Skidamarink, Rồi sau đó…, Hãy Cứu Em, Hẹn Em Ngày Đó, Bởi Vì Yêu. Bảy Năm Sau Ngày Mai Nếu Đời Anh Vắng Em Cô Gái Trong Trang Sách Trở Lại Tìm Nhau Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Giây Phút Này Công Viên Trung Tâm Cô Gái Brooklyn Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn Cô Gái Và Màn Đêm Cô Gái Vô Danh Trên Sông Seine Dưới Một Mái Nhà Ở Paris Cuộc Đời Là Một Tiểu Thuyết ... Tác phẩm của Gaulliaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và một số đang được dựng phim. Guillaume Musso được xem là hiện tượng best-seller của văn chương Pháp hiện tại. *** Sáng hôm sau Mặt trời mọc trên nền trời quang đãng chiếu những tia nắng lấp lánh xuống thành phố màu xà cừ. Oằn mình dưới lớp tuyết dày tới sáu mươi phân, New York bị cắt lìa khỏi thế giới. Hàng đống tuyết chắn ngang các đường phố và vỉa hè. Hôm nay, xe buýt và taxi ở nguyên trong bãi đỗ, tàu ở nguyên trong ga và máy bay không rời khỏi đường băng. Trong ít nhất là vài giờ đông hồ, Manhattan trở thành một khu thể thao mùa đông rộng mênh mông. Xỏ ván trượt tuyết hoặc giày chuyên dụng, nhiều người dân New York vẫn thách thức cái lạnh bất chấp chấp giờ sáng sớm và lũ trẻ đã thỏa thích vui đùa: Đua xe trượt, ném tuyết, đắp người tuyết với những thứ phụ kiện kỳ khôi. Tay cầm cốc, tay kia cầm gói giấy bìa Jonathan thận trọng bước xuống vỉa hè đóng băng. Anh đã trải qua gần hết đêm tại sở cảnh sát để tham dự một cuộc họp tổng kết dài cùng cảnh sát địa phương và những người có vai vế của FBI, cơ quan phụ trách việc bảo vệ Danny từ nay trở về sau. Kể cả thận trọng đến thế, rốt cuộc anh vẫn bị sẩy chân trên sân trượt băng đó. Như một diễn viên xiếc chuyên giữ thăng bằng, anh túm lấy mấu cột đèn đường, làm thứ chất lỏng nóng bỏng sánh lên tận nắp chiếc cốc trên tay. Anh nhẹ cả người khi bước qua ngưỡng cửa bệnh viện St. Jude nằm ở rìa khu Chinatown và Financial District. Anh đi thang máy lên tầng trên nơi Alice đang được chữa trị. Ngoài hành lang có một đám đông cảnh sát mặc đồng phục đang gác trước cửa phòng bệnh. Jonathan trình giấy ủy nhiệm trước khi đẩy cửa bước vào. Nằm dài trên giường, ống truyền gắn vào cánh tay, Alice đang được chăm sóc. Cô bé ngước mắt về phía anh, và vẫn hơi choáng váng, nở một nụ cười khiến gương mặt xinh xắn rạng rỡ hẳn lên. Việc truyền nước đã phát huy tác dụng nhiệm màu: Mặt Alice hồng hào trở lại và cho thấy vẻ bình tâm đáng kinh ngạc sau những gì cô bé vừa phải trải qua. Anh cười lại với Alice, vẫy tay ra hiệu để cô bé biết rằng anh sẽ lại ghé qua ngay khi y tá rời đi. Jonathan đi tiếp tới tầng có phòng bệnh nơi Madeline điều trị. Khi đi ngang qua một xe đẩy kim loại, anh lấy một khay nhựa rồi để tách sô cô la nóng lên trên. Anh mở hộp các tông, lấy ra ba chiếc bánh kẹp và bày biện sao cho hài hòa nhất. Cuối cùng, khi nhìn thấy một vành hoa trắng treo trên tường, anh bèn ngắt trộm một nhành hoa chân ngỗng để lên khay cho đẹp mắt. - Bữa sáng tới đây! Anh dõng dạc khi bước vào phòng. Anh cứ nghĩ Madeline chỉ có một mình, nhưng hóa ra còn có cả đại úy Delgadillo, một trong những trụ cột của sở cảnh sát New York: Một người Mỹ gốc Latinh cao lớn với hàm răng trắng lóa vả vẻ nghiêm nghị cố hữu. Ăn mặc chải chuốt, nét mặt khinh khỉnh, viên cảnh sát không thèm nhìn anh lấy một mảy may. - Tôi chờ câu trả lời của cô từ giờ đến cuối tuần này, cô Greene ạ, ông ta nói chắc nịch trước khi rời khỏi phòng. Madeline đang nằm dài trên giường. Mới ngày hôm trước, cô đã bị gây mê toàn thân. Cuộc phẫu thuật diễn ra suôn sẻ, nhưng những vết cắn đã hằn sâu vào da thịt cô nên dấu vết cuộc đụng độ với đàn chó đô gơ sẽ còn lưu lại mãi. - Thứ này dành cho em sao? Cô hỏi và nhón lấy một chiếc bánh. - Vị va ni, sô cô la, kẹo dẻo marshmallow. Những chiếc bánh kẹp ngon nhất New York đấy, anh cam đoan. - Một ngày nào đó anh sẽ tự tay làm món bánh này cho em thưởng thức chứ? Anh biết là em vẫn chưa được nếm những món anh làm mà! Anh gật đầu rồi ngồi xuống giường cạnh cô. - Anh đã gặp Alice chưa? Cô hỏi. - Anh vừa gặp ban nãy. Cô bé đang dần bình phục rồi. - Thế còn bên sở cảnh sát, mọi việc trôi chảy chứ anh? - Anh nghĩ vậy. Họ nói với anh là đã tới đây lấy lời khai của em? - Vâng, thông qua người trung gian anh đã gặp ban nãy đó. Anh sẽ không bao giờ đoán ra đâu: Ông ấy đề nghị nhận em vào làm việc! Thoạt tiên anh cứ ngỡ cô đùa, nhưng cô tỏ ra hết sức hào hứng: - Cảnh sát điều tra tham vấn cho sở Cảnh sát New York! - Em sẽ nhận lời ư? - Em nghĩ vậy. Em rất mê hoa, nhưng cái ghế cảnh sát này ngấm vào máu em mất rồi. Jonathan lặng lẽ gật đầu rồi đứng dậy để vén gọn rèm. Ánh nắng chan hòa trong căn phòng nhưng Madeline lại thoáng rùng mình vì lạnh. Tương lai cuộc sống chung giữa họ sẽ thế nào đây? Trong vài ngày qua, họ đã sống trong cơn say với hiểm nguy. Những thử thách họ đã cùng vượt qua dữ dội tới mức hẳn nhiên sẽ vạch ra một ranh giới trong cuộc sống của họ. Mỗi người lần lượt nắm giữ mạng sống của người kia trong tay. Họ đã đặt trọn niềm tin vào nhau, họ đã bù trừ cho nhau, họ đã yêu nhau. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Gọi Từ Thiên Thần của tác giả Guillaume Musso.
Bởi Vì Yêu - Guillaume Musso
Layla, một bé gái năm tuổi biến mất trong một trung tâm thương mại Los Angeles. Bố mẹ cô, đã chia tay nhau vì không thể vượt qua cú sốc. Năm năm sau, cô bé lại xuất hiện, vẫn tại trung tâm thương mại đó. Cô còn sống, nhưng mắc phải một chứng câm lạ thường. Layla đã ở đâu trong suốt quãng thời gian đó? Cùng với ai? Và nhất là: Vì sao cô bé lại trở về? Một chuyện tình yêu cuốn hút. Một cuốn sách làm độc giả đắm chìm trong cảm giác hồi hộp và huyền bí. Một kết cuộc mở nút khiến ai nấy đều ngỡ ngàng. *** "Musso chẳng khác nào Sipelberg của nền văn học đương đại Pháp." - Nostalgie "Cuốn tiểu thuyết hay nhất của Guillaume Musso từ trước tới nay, gây ngạc nhiên nhất, sâu kín nhất, nhân văn nhất." - La Voix du Nord "Một ly cocktail chứa đầy bất ngờ và tưởng tượng." - Elle "Musso đã chứng tỏ tài năng bậc thầy của mình trong nghệ thuật tạo bất ngờ." - Paris Match "Ngay từ trang đầu tiên, chúng ta đã lọt vào bẫy. Và toàn bộ sự kháng cự sẽ là vô ích." - Le Figaro Magazine "Độc giả hoàn toàn bị cuốn theo câu chuyện, giữa một bên là mộng mị và bên kia là hư ảo. Một kết cuộc khiến ta phải ngỡ ngàng." - Gala "Cảm xúc, hồi hộp, siêu nhiên... Trí tưởng tượng làm nên tất cả." - Télé Star "Không có lấy một nét hoa mỹ, Guillamue Musso đã tạo ra sự bất ngờ theo bản năng." - Le Parisien "Khám phá Bởi vì yêu tức là bị dẫn dụ bởi ngòi bút linh hoạt và quyến rũ của Guillaume Musso." - Nice Matin "Một cuốn sách rất khó để khép lại." - Matin Plus Không gì tốt hơn một cuốn tiểu thuyết giúp ta hiểu rằng hiện thực khác xa bình thường, rằng hiện thực không đủ để thỏa mãn những mong muốn, dục vọng và mơ ước của con người. Mario VARGAS LLOSA *** Mark không bao giờ tiếp tục công việc của mình tại văn phòng của Connor nữa. Hai tháng sau đợt điều trị, anh tìm được chân "bác sĩ tâm lý đường phố" tại một hiệp hội chuyên giúp đỡ những người vô gia cư. Hàng ngày, anh đi khắp thành phố giám sát khoảng hơn trăm người không nhà cửa mà anh đang gắng giúp họ thoát khỏi cảnh rượu chè, khỏi cuộc sống đường phố và tránh cho họ lại rơi vào cảnh đó. Anh toàn tâm toàn ý cho cuộc chiến mới này và cũng đã thành công. Chính lần rơi xuống địa ngục đã biến đổi con người anh: anh chàng bác sĩ tâm lý trẻ tuổi đầy tham vọng và tự tin đã nhường chỗ cho một người đàn ông yếu đuối hơn, nhưng con người hơn. o O o Ở một góc phố nào đó, anh thường thấy Layla ngồi trên một bậc thềm hay trên cầu bập bênh ở khoảng sân chơi dành cho trẻ con. Gương mặt con bé vẫn đẹp, vẫn trầm lặng và bình thản như khi ở trên máy bay. Con bé không nói gì nhưng đưa tay khẽ ra hiệu với anh và anh cũng kín đáo đáp lại. Điều ấy khiến anh an tâm rằng con bé vẫn ở đó, phía sau anh, dõi theo anh như một vị thần hộ mệnh trong tuổi thơ anh. Anh không hề nói chuyện này với cả Connor lẫn Nicole, bởi anh biết rõ rằng việc Layla xuất hiện chỉ xảy ra trong tâm trí anh mà thôi. Nhưng có quan trọng gì: điều tưởng tượng ấy là một phần của trạng thái cân bằng mà anh tự dựng lên cho mình để lại tiếp tục đứng vững. Đó mới là tất cả những gì đáng kể. o O o Một buổi sáng tháng Chín, khi mở radio, Mark mới hay tin Alyson Harrison đã chết trong một tai nạn máy bay trực thăng tại Amazon. Đứng đầu một trong những tổ chức do người cha sáng lập, kiều nữ tỷ phú ấy, từ vài tháng nay, đã tham gia rất nhiệt tình vào cuộc chiến chống lại quá trình tàn phá khu rừng nhiệt đới rộng lớn để bảo vệ môi trường. o O o Phải mất nhiều tuần mới xác định được vị trí của xác máy bay, nhưng người ta chẳng bao giờ tìm thấy xác của viên phi công người Brasil lẫn cô gái được hưởng quyền thừa kế giàu có. o O o Tháng Mười một, Mark nhận được một tấm bưu thiếp được gửi từ Lhassa. Trên ảnh là một tác phẩm điêu khắc bánh xe luân hồi đặt trước lối vào một tu viện Tây Tạng. Đoạn thư không ký tên người gửi, nhưng anh nhận ra ngay nó là của Alyson. Trên tấm bưu thiếp viết: Em luôn nghĩ tới anh. Có lẽ anh có lý: có lẽ người ta có thể thực sự làm lại cuộc đời mình chứ không chỉ hài lòng với việc tiếp tục nó. Dù sao chăng nữa đó cũng chính là niềm hy vọng từ nay em sẽ bám lấy. Trong khi chờ đợi, em muốn chuyển đến anh điều này. Em đã tìm thấy mấy dòng ghi chú này ở một trong những cuốn sổ tay của bố em. Em rất muốn tin rằng ông giữ chúng để một ngày nào đó trao lại cho anh... Sau đó là ba từ: vĩ độ, kinh độ, độ cao... kèm theo một dãy số khiến Mark cứ mãi băn khăn cho đến khi anh hiểu được ý nghĩa của chúng. Đó là tọa độ của Hệ thống Định vị Toàn cầu nơi Layla được chôn cất. o O o Một ngày thứ Bảy tháng Mười hai, Mark cùng Nicole lái xe băng qua những dãy núi và bình nguyên sỏi đá thuộc sa mạc Mojave. Vào đầu giờ chiều một ngày không ánh mặt trời, họ tới một vùng đất hoang vắng, nằm không xa biên giới bang Nevada. Theo như trên máy thu nhận tín hiệu từ Hệ thống Định vị Toàn cầu, họ rời đường chính để tiến sâu vào một khu toàn đá dăm bụi bặm và những mỏm đá lởm chởm. Ở giữa vùng đất khô cằn ấy, họ nhận thấy một khoảnh đất nằm hơi tách biệt, mặt đất nứt nẻ, nhưng có tán cây Ngọc giá che phủ. Ngay lập tức họ biết rằng chính là đây. Họ xuống xe rồi tay trong tay tiến về nơi con gái họ đang yên nghỉ. Sáu năm sau ngày Layla qua đời, cuối cùng họ cũng đã có thể nói lời vĩnh biệt cô bé. o O o Rồi cuộc sống bắt kịp họ... Một hôm, Mark bất giác nhận thấy mình đang mỉm cười và anh lại có thể nói về chuyện tương lai. Cùng với thời gian, những lần xuất hiện của Layla thưa dần. Không phải bởi anh không nghĩ tới con gái mình nữa, mà bởi anh nghĩ tới con bé theo một cách khác. Từ giờ anh có thể nhớ tới con bé mà không cảm thấy quặn đau nữa. Một tối, Nicole báo với anh rằng cô đang có mang và anh đón nhận tin ấy lòng tràn ngập vui sướng. Họ có một bé trai đầu tiên rồi một cậu nhóc nữa vào ba năm sau đó. o O o Rồi năm tháng trôi đi... Chiều tối một ngày tháng Bảy, mười năm sau khi câu chuyện này bắt đầu, một cuộc gặp gỡ lạ lùng đã diễn ra tại sân bay Heathrow. Mùa hè ấy, Mark và Nicole nghỉ dài ngày để đưa hai cậu con trai của họ - Théo, tám tuổi, và Sam, năm tuổi - đi khám phá những kỳ quan của Lục địa Già. Sau khi đã thăm thú Athènes, Paris và London, gia đình nhỏ bé ấy giờ đang sửa soạn để bay tới lisbonne. - Đi nào, Sammy! Mark vừa hô to vừa nhấc bổng cậu con trai để đặt lên vai mình trong khi Nicole nắm lấy cánh tay Théo. Quây quần bên nhau, cả bốn người họ cùng lên thang cuốn dẫn tới khu vực làm thủ tục lên máy bay. Một cặp vợ chồng khác đang đi xuống theo chiều ngược lại. Người đàn ông, kiểu người Nam Mỹ, trìu mến nhìn vợ và con gái mình, một bé gái lai có nước da màu đồng. Khi hai gia đình đi ngang nhau, ánh mắt Mark thoáng bắt gặp ánh mắt người phụ nữ đang đi qua trước mặt anh. Anh chắc chắn đó là Alyson Harrison. Vẻ bề ngoài của cô đã đổi khác: cô gái tóc vàng với khuôn mặt xương xương, thân hình mảnh dẻ và dáng vẻ sành điệu giờ đã là một người phụ nữ đầy đặn, mái tóc hạt dẻ, cùng vài lọn uốn xoăn tạo cho cô một vẻ điềm tĩnh. Chỉ có đôi mắt cô là không thay đổi. Mark vẫn luôn tự hỏi Alyson đã trở thành người như thế nào. Vài tháng sau khi cô được coi là đã chết, anh đọc thấy trên tờ báo rằng người vợ góa của Richard Harrison đã nắm lại quyền điều hành đế chế Green Cross sau vụ mất tích thảm thương của cô con gái riêng của chồng. Và tất cả chỉ có thế. Thông qua chính dòng tin ấy Alyson đã nói lời từ biệt với báo giới, cô, người trong vòng nhiều năm liền luôn có mặt trên trang nhất các tờ lá cải trên toàn thế giới. Khi tự hỏi về những cảm giác mà hiện thời Alyson gợi lên trong anh, Mark chẳng hề cảm thấy một chút đắng cay nào và anh thậm chí còn hy vọng bản thân cũng đã tìm thấy sự thanh thản. Khi gặp cô trên thang cuốn, Mark đoán rằng cô gái từng được hưởng quyền thừa kế ấy đã làm lại cuộc đời mình dưới một nhân thân khác, cùng với người phi công trực thăng đã giúp cô giả chết, và cuối cùng cô cũng đã hạnh phúc. Alyson cũng nhận ra anh. Họ chỉ nhìn nhau một lúc, nhưng mỗi người đều thấy được trong ánh mắt người kia hình ảnh phản chiếu của tất cả những gì bản thân họ đang cảm thấy. Mời các bạn đón đọc Bởi Vì Yêu của tác giả Guillaume Musso.
Bảy Năm Sau - Guillaume Musso
Một cuộc ly dị đã chia cắt họ... ... hiểm nguy sẽ lại gắn kết họ Nikki: nữ nghệ sĩ bốc đồng, và Sebastian, nghệ nhân làm đàn, - họ gặp nhau và trúng tiếng sét ái tình, bất chấp tính cách và hoàn cảnh xuất thân hoàn toàn trái ngược... Rồi tình yêu nồng thắm bao nhiêu thì khi tan vỡ những oán hận cũng mãnh liệt bấy nhiêu. Hai người chia lìa, mỗi người nuôi dạy một đứa con... Bảy năm ròng rã trôi qua...Cho đến một ngày, cậu con trai ở tuổi mới lớn của họ mất tích một cách bí ẩn... Nikki và Sebastien tìm đến nhau, lao vào một cuộc rượt đuổi tưởng chừng không có hồi kết, không biết mình là người chủ động hay bị động... Một cuộc phiêu lưu kinh dị, ngạt thở, nối dài từ các đường phố Paris đến rừng rậm Amazon.. Nhờ đó, những gì sâu đậm thầm kín nhất tưởng chừng vĩnh viễn mất đi đang dần trở lại trong trái tim họ... *** Nhận Định "Bảy năm sau... u tối hơn những tác phẩm trước đó của Guillaume Musso. Một cuốn tiểu thuyết kinh dị nhuốm màu bạo lực, nhưng vẫn vô cùng lãng mạn." - Le Monde "Một cuốn tiểu thuyết trinh thám kinh dị ly kỳ đến ngạt thở và đáng tin cậy từ đầu chí cuối. Guillaume Musso đã trở thành ông hoàng của thể loại này." - Bernard Thomasson, France Info "Guillaume Musso có khả năng ít ai bì kịp trong việc pha trộn các tình tiết đầy cảm xúc với nền tảng trinh thám." - Le Progrès "Hiện tượng của ngành xuất bản Pháp đã viết nên một cuốn tiểu thuyết kinh dị tuyệt hay với tiết tấu nhanh và khai thác tối đa các sắc màu cảm xúc, đưa độc giả chu du đến tận cùng thế giới." - Le journal du Québec *** - Táxi! Táxi! Um táxi para levá-lo ao seu hotel. Không khí ồn ào, những tiếng ù ù khó phân biệt nổi là tiếng gì, những hàng người chờ lấy hành lý hay qua cửa hải quan dài dằng dặc: sân bay Geleão rộng lớn chìm trong cái nóng nhớp nháp và ngột ngạt của lò hơi. - Táxi! Táxi! Um táxi para levá-lo ao seu hotel? Mặt mày nhăn nhó vì mệt mỏi, khi ra đến sảnh, Nikki và Sebastian vượt qua đám tài xế taxi đang mời chào khách du lịch rồi đi về phía quầy cho thuê ô tô. Chuyến quá cảnh dự kiến rất ngắn ở São Palo đã phải kéo dài. Vì một lý do tắc nghẽn đường băng mù mờ mà chuyến bay của họ khởi hành tiếp muộn hơn hai tiếng rưỡi và hạ cánh lúc 11h30. - Em sẽ đi đổi ít tiền trong khi anh lo vụ xe cộ nhé, cô đề nghị. Đồng ý với cách phân công nhiệm vụ này, Sebastian đứng vào dòng người đang xếp hàng chờ đợi rồi lấy ra bằng lái của Botsaris. Khi đến lượt mình, anh do dự chọn kiểu xe. Cuộc tìm kiếm của họ sẽ chỉ nằm trong phạm vi thành phố hay sẽ khiến họ phải đi đến những địa điểm hiểm trở hơn? Vẻ lưỡng lự, anh chọn một chiếc Land Rover chắc chắn rồi ra nhận xe ở một bãi đỗ ngập tràn ánh nắng. Người đầm đìa mồ hôi, anh cởi áo vest rồi ngồi vào ghế lái trong khi Nikki đang nghe trên điện thoại "của cô" tin nhắn mà Constance đã để lại. Theo đúng thỏa thuận, cô cảnh sát đã đặt trước cho họ một phòng khách sạn tại khu phố Ipanema, liền kề bãi biển nơi Flavia làm việc. Về phần mình, cô vẫn tiếp tục cuộc điều tra và cô chúc họ may mắn. Mệt rã rời sau chuyến bay, họ chạy xe trong im lặng, đi theo các biển chỉ đường (Zonna Sul - Centro - Copacabana 6) phác họa hành trình xuống phía Nam từ Ilha do Governada 7 tới tận trung tâm thành phố. Sebastian lau mồ hôi trên trán rồi dụi mắt. Bầu trời thấp hẳn xuống, nặng nề, bóng dầu, không khí ô nhiễm ngột ngạt khiến mắt anh mờ đi và hai mí cồm cộm. Qua cửa kính nhuộm màu, khung cảnh bên ngoài như mờ đi, phủ đầy sắc vàng cam, như hình ảnh lớp mỡ cắt dày thớ. Mới đi được vài cây số, họ đã phải dừng vì tắc đường. Vẻ cam chịu, cả hai nhìn qua cửa sổ xe toàn cảnh không gian xung quanh. Ven đường cao tốc, hàng nghìn ngôi nhà gạch trải dài đến hút tầm mắt. Nhiều ngôi nhà hai tầng mái bằng giăng đầy dây phơi quần áo. Những ngôi nhà đó tạo ấn tượng như đang chồng lên nhau, đan xen với nhau thành một chùm nhà xếp chồng rất chênh vênh. Chằng chịt, lộn xộn, rộng lớn: khu ổ chuột chen ngang vào khung cảnh, phá vỡ và bóp méo viễn cảnh về nơi này, khiến chân trời nứt rạn để biến nó thành một tác phẩm cắt dán lập thể với tông màu đất son, bốc lên mùi khét, han gỉ. Dần dần, khung cảnh đô thị cũng thay đổi. Những khu dân cư nghèo nhường chỗ dần cho các khu công nghiệp. Cứ khoảng một trăm mét lại có những áp phích khổng lồ quảng cáo thông tin về Cúp bóng đá thế giới sắp tới và Thế vận hội 2016. Khẩn trương chuẩn bị cho hai cuộc thi tài thể thao này, cả thành phố dường như đã biến thành công trường. Sau tấm lưới rào đất trống là những công trường khổng lồ đang định hình lại cảnh quan: máy ủi thì phá hủy nốt các bức tường, máy xúc thì đổ đất vào một chỗ nào đó, xe tải ben thì nối đuôi nhau chạy không ngừng. Rồi chiếc xe chạy qua cánh rừng toàn nhà chọc trời của khu phố buôn bán trước khi tiến vào khu phố phía Nam thành phố nơi tọa lạc đa số khách sạn lớn và trung tâm thương mại của thành phố. Thủ phủ vùng Carioca khi ấy trở lại với những hình ảnh quen thuộc trên các tấm bưu thiếp: hình ảnh một cidade maravilbosa 8 được biền cùng những ngọn đồi và núi bao quanh. Đến cuối hành trình, chiếc Land Rover tiến ra trước mặt biển, chạy chậm dọc theo con đường nổi tiếng Avenida Vieira Souto. - Chính là ở đây! Nikki vừa thốt lên vừa chỉ tay về phía một tòa nhà nhỏ có mặt tiền rất khác lạ bằng kính, gỗ và đá cẩm thạch. Họ giao chiếc xe 4x4 cho nhân viên đỗ xe rồi tiến vào tòa nhà. Theo đúng hình ảnh khu phố này, khách sạn có vẻ sang trọng và màu sắc, được bài trí rất có phong cách bằng nội thất từ những năm 1950 và 1960, tạo ấn tượng như trong không gian một tập phim Mad Men. Sảnh khách sạn toát lên một không khí thú vị: gạch trần, nhạc dìu dặt, sàn nhà lát ván, trường kỷ bọc đệm chần, tủ sách phong cách old school. Họ bồn chồn tiến vào quầy lễ tân - được tạc từ một thân cây trong rừng Amazon - rồi lấy phòng dưới danh nghĩa Constance Lagrange và Nicolas Botsaris. Nikki và Sebastian chỉ ở trong phòng đủ để giải khát và ngắm nhìn, từ ban công phòng họ, từng con sóng mạnh mẽ tràn đến rồi vỡ tan trên bờ cát. Tập quảng cáo của khách sạn viết rằng cái tên Ipanema xuất phát từ phương ngữ của người da đỏ châu Mỹ, nó có nghĩa là "vùng nước dữ". Một điềm dữ khiến họ bối rối, và họ đã quyết định không quá bận tâm đến điều đó. Quyết tâm đi tìm bằng được "cô gái ở Ipanema" nên họ rời phòng khách sạn ngay. Vừa đặt chân ra ngoài, họ lại bị cái nóng, mùi khói xe và tiếng ồn ào của xe cộ bao vây. Một dòng chảy bất tận những người chạy bộ, trượt ván và những người đi xe đạp tranh giành vỉa hè với người đi bộ. Khu phố này quy tụ một lượng lớn các cửa hàng sang trọng, các phòng tập thể hình và những viện thẩm mỹ tư nhân. Nikki và Sebastian băng qua đường để sang lối dạo hai bên trồng cọ chạy dọc bãi biển. Đây là khu vực dành cho cánh bán hàng rong tranh giành nhau từng ly một và dùng mọi chiêu trò để thu hút sự chú ý của khách đi đường. Đeo trên người các thùng kem, thùng kim loại, hoặc ngồi hẳn trong một chiếc lán nào đó, họ mời chào nước dừa, trà đá, dưa hấu, bánh quy nướng vàng ươm, bánh cocada phủ caramen giòn tan, và còn cả thịt bò xiên nướng, mùi cay nồng của món quà vặt này phảng phất khắp cả con đường. ... Mời các bạn đón đọc Bảy Năm Sau của tác giả Guillaume Musso.