Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Sóng - Yukio Mishima

Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm". Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Bây giờ thì Shinji đã có thể công nhiên đến chơi gia đình Miyata. Một tối, sau khi đi đánh cá trở về, anh đứng trước cổng réo tên Hatsue mà gọi. Anh chàng mặc cái quần mới giặt, chiếc áo thể thao trắng bong, mỗi tay xách lủng lẳng một con cá điêu to tướng. Hatsue đã sửa soạn sẵn sàng và đang chờ đợi anh chàng. Hai người đã hẹn cùng nhau tới thần xã Yashiro dâng lễ tạ rồi đến ngọn hải đăng báo tin đính hôn. Bóng chiều tăm tối trong căn phòng nền đất chợt rực sáng hẳn lên khi Hatsue bước ra. Nàng mặc tấm áo mỏng mùa hè - may bằng thứ vải mua của ông lão bán hàng rong ngày nọ - in hình lá triêu nhan trên nền trắng - màu vải trắng tinh đến nỗi ban đêm cũng nhìn thấy nổi bật. Dựa lưng vào cổng, Shinji đứng chờ, thế nhưng lúc Hatsue từ trong nhà đi ra, anh chàng lại vội vã cúi mặt nhìn xuống, đưa đẩy một bàn chân đang đi guốc làm như thể đang xua đuổi côn trùng và lẩm bẩm: “Muỗi ghê quá!” “Thế hả?” Hai cô cậu cùng sóng vai đi lên những bậc thềm đá dẫn tới thần xã Yashiro. Họ có thể chạy thẳng một mạch lên tới nơi thực nhẹ nhàng nhưng lòng tràn trề hạnh phúc, họ chậm rãi bước lên từng bậc như để thích thú, say sưa tận hưởng niềm sung sướng của từng bước chân đi. Lên tới bậc thềm thứ một trăm, chàng và nàng dừng lại như tiếc rẻ không muốn lên ngay tới đỉnh. Chàng muốn cầm tay nàng nhưng hai tay vướng hai con cá điêu nên lại đành thôi. Cả thiên nhiên cũng ban ân sủng cho chàng và nàng. Khi lên tới đỉnh rồi, chàng và nàng quay nhìn chung quanh rồi đưa mắt về phía vịnh Ise. Bầu trời ban đêm đầy những sao nhưng chỉ có một vài áng mây thấp vắt ngang chân trời phía bán đảo Chita; những ánh chớp im lìm thỉnh thoảng lại lóe lên, ngoằn ngoèo phía đó. Ngay cả tiếng sóng cũng không ồn ào mà chỉ lùa tới đều đều, êm ả như thể mặt biển đang thở nhẹ trong giấc ngủ ngon lành. Đi qua khu rừng thông nhỏ, chàng và nàng tới ngôi thần xã, ghé vào lễ tạ. Chàng thanh niên cảm thấy kiêu hãnh ngập lòng khi nghe tiếng đôi bàn tay người yêu chắp lại, đập vào nhau vang vang ròn rã, ngân xa. Thế rồi chàng cũng chắp tay vái lạy. Hatsue đã cúi đầu lễ bái và đang khấn khứa thì thầm. Nổi bật trên cổ áo trắng bong, phần thịt da sau gáy nàng trông tuy xạm nắng không được trắng trẻo nhưng lại làm Shinji say sưa ngây ngất hơn là bất cứ cái cần cổ nào trắng nhất trên đời. Một lần nữa, chàng thanh niên lại nhắc nhở lại cho lòng mình niềm hạnh phúc tràn trề mà thần linh đã thực sự ban cho theo đúng những lời mình cầu nguyện. Chàng và nàng nguyện cầu, khấn vái một lúc lâu nữa. Vì chưa bao giờ nghi ngờ sự gia hộ của thần linh nên hai người có thể cảm thấy cả sự gia hộ ấy bao trùm quanh khắp thân mình. Phòng việc của thần xã thắp đèn sáng choang. Shinji cất tiếng gọi và ông thủ từ liền thò mặt ra bên khung cửa sổ. Shinji trình bày qua loa mấy nét chính của câu chuyện nhưng vì anh chàng nói năng có vẻ mơ hồ nên trong một lúc, ông thủ từ chẳng hiểu rõ đầu đuôi hai cô cậu định kéo nhau lên đây làm gì. Nhưng cuối cùng nghe mãi cũng hiểu nhất là khi Shinji đưa ông con cá điêu bảo để làm lễ vật dâng lên thần linh. Nhận món quà biếu từ biển cả đưa lên, ông thủ từ còn được nhắc nhở là ông sẽ được mời dự lễ cưới của chàng và nàng; ông tỏ lời chúc tụng nồng nhiệt cho cả hai cô cậu. Vượt con đường mòn qua khu rừng thông nhỏ phía sau ngôi thần xã, chàng và nàng lại đắm mình trong hương đêm mát dịu êm đềm. Tuy mặt trời đã lặn từ lâu nhưng những con ve sầu hãy còn kêu ra rả. Con đường đất nhỏ dẫn lên ngọn hải đăng dốc tuột thực là nguy hiểm, lúc này một tay rảnh rang không còn vướng mắc gì nữa, Shinji mới nắm tay Hatsue trong tay mình và nói: “Anh đang tính sẽ học thi lấy bằng đệ nhất hàng hải phó quan. Mình có thể học để lấy bằng khi trên hai mươi tuổi, Em ạ!” “Ồ! Như vậy thì hay tuyệt!” “Đến lúc lấy được bằng, anh nghĩ chúng mình cưới nhau là vừa đẹp”. Hatsue không đáp, chỉ e thẹn mỉm cười. Họ đi vòng theo Dốc Bà tới nhà ông trưởng đài hải đăng. Chàng thanh niên lên tiếng chào hỏi như thường lệ ngay khi vừa tới khung cửa kính - nơi họ có thể nhìn thấy bóng bà chủ nhà đi qua đi lại trong lúc làm cơm. Bà chủ nhà mở cửa. Đứng trong tối nhìn ra bà thấy chàng thanh niên và vị hôn thê của anh chàng đang đứng dùng dằng nửa vào, nửa không. “Ồ! hai cô cậu đây rồi, vào nhà đi!” Bà vợ lớn tiếng gọi ra rồi đưa cả hai tay đón nhận con cá to mà Shinji chìa về phía mình. Rồi bà gọi vói vào trong nhà: “Bố nó ơi! Chú Shinji lại đem cho mình con cá điêu đẹp quá là đẹp!” Đang ngồi nghỉ thoải mái trong phòng, ông trưởng đài hải đăng nói vọng ra nhưng vẫn chưa đứng dậy: “Cảm ơn vô cùng. Và lần này, có lời chúc mừng nữa đấy. Hãy vào nhà chơi, vào nhà chơi một lúc đã nào”. Bà trưởng đài nói thêm: “Vào một chút đã nào! Ngày mai em Chiyoko nó cũng về thăm nhà nữa đấy!” Chàng thanh niên chẳng hề hay biết chút gì về những cảm động mình đã khơi dậy trong lòng Chiyoko cùng những khắc khoải nội tâm mà nàng đã chịu đựng vì mình, nên anh đã nghe câu nói đột ngột của bà mẹ mà cũng chẳng thấy một ý nghĩa gì đặc biệt. Vì bị giữ lại ăn cơm tối, chàng và nàng đã nấn ná thêm tới hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó ông trưởng đài hải đăng lại quyết định dẫn cả hai cô cậu đi một vòng xem ngôi hải đăng trước khi ra về. Vì mới trở về đảo nên Hatsue chưa được thấy bên trong ngôi hải đăng một lần nào cả. Thoạt tiên, ông trưởng đài dẫn họ lên xem căn phòng trực nho nhỏ. Muốn đi từ khu nhà ở tới đây, họ phải đi men theo mảnh vườn rau nhỏ bé, nơi vừa mới gieo hạt thìa là hôm trước, rồi trèo lên những bậc thềm xi-măng. Trên cao là ngọn hải đăng dựa lưng vào vách núi và cái phòng trực ngay mép vách đá dốc tuột, dựng đứng, đâm thẳng xuống mặt biển. Ánh ngọn đèn pha trên ngôi hải đăng trông giống như một cột sương mù óng ánh, quét từ bên phải sang bên trái qua gồi phòng trực, phía trông ra ngoài biển. Người gác mở cửa phòng trực, bật đèn lên. Ba người trông thấy những cây thước tam giác định quy treo lủng lẳng trên khung cửa sổ, cái bàn giấy thu xếp hết sức ngăn nắp với tấm bảng ghi tàu bè qua lại và cái kính viễn vọng đặt trên một cái giá ba chân quay mặt về phía các cửa sổ. Ông trưởng đài hải đăng mở một cửa sổ, điều chỉnh viễn vọng kính rồi hạ xuống cho vừa tầm mắt Hatsue. Nàng nhìn qua kính viễn vọng, dừng lại một lúc, lấy tay áo lau ống kính rồi nhìn lại lần nữa, buột một tiếng kêu vui thích: “Ôi, đẹp quá chừng!” Thế rồi trong khi Hatsue xoay ống kính về các đốm sáng ở nhiều phương giác khác nhau, Shinji dùng ngay đôi mắt thị lực mạnh mẽ, sắc bén của mình mà nhìn theo và giải thích cho nàng nghe. Dán chặt mắt vào kính viễn vọng, Hatsue trước tiên chỉ về hàng chục điểm sáng lốm đốm trên mặt biển về phía Đông nam: Những điểm sáng ấy ư? Đó là ánh đèn trên ngọn đèn trên mặt biển đều tìm thấy một hình ảnh chiếu ứng trong vô số các vì sao ở một nơi nào đó trên bầu trời. Ngay trước mặt là ánh đèn từ ngọn hải đăng trên mỏm Irako. Phía sau ngọn hải đăng ấy là ánh đèn rải rác khắp thành phố trên mỏm Irako và ở phía trái những ánh đèn trên đảo Shino lấp lánh tỏ mờ. Thật xa về phía trái, họ có thể nhìn thấy ngọn hải đăng trên mũi Noma tại bán đảo Chita. Bên phải ngọn hải đăng này là những chùm ánh sáng trên hải cảng Toyohama - ở ngay giữa là ngọn đèn trên cái đê ngăn sóng của hải cảng. Và xa hơn, chếch sang bên phải là ngọn đăng đài hàng không lung linh nhấp nháy trên đỉnh núi Oyama. Hatsue một lần nữa lại buột ra một tiếng kêu thích thú. Một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương to lớn vừa đi vào tầm kính viễn vọng. Đối với mắt thường thực khó mà nhìn ra, tuy nhiên trong lúc con tầu hiên ngang tiến vào tầm viễn vọng kính, thì nó ghi vào ống kính một ảnh tượng uyển chuyển, đẹp đẽ, nổi bật đến nỗi chàng thanh niên và nàng thiếu nữ phải thay phiên nhau ghé mắt vào ống kính mà ngắm nhìn. Hình như đó là một chiếc tầu chở cả hàng hóa lẫn hành khách trọng tải đến hai ba ngàn tấn. Trong một căn phòng bên ngoài boong đi dạo mát họ có thể nhìn thấy rõ ràng nhiều chiếc bàn trải khăn trắng và một số ghế ngồi. Không thấy một bóng người ở đó. Căn phòng có vẻ là phòng ăn và trong lúc họ đang ngắm nghía bức vách lát gạch hoa men trắng thì bất thình lình, một người bồi bàn mặc quần áo trắng từ bên phải bước vào rồi đi về phía những khung cửa sổ. Trong khoảnh khắc, con tầu thắp đèn xanh ở đằng mũi cũng như đằng đuôi, vượt ra ngoài tầm viễn vọng kính rồi lướt vào thủy đạo Irako đi ra Thái Bình Dương. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Sóng của tác giả Yukio Mishima.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Trộm Giấc Mơ
Vào khoảng hai tuần trước khi bị bắn chết, Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã  mơ thấy hình ảnh chính bản thân mình bị ám sát. Trước khi anh trai mất mạng trong một vụ nổ, nhà văn Mark Twain đã mơ thấy thi thể của anh mình nằm trong một cỗ quan tài. Những sự kiện có thực, những cái chết có thực… nhưng lại được báo trước ở trong cõi hư ảo do chính con người vẽ nên. Chuyện gì sẽ xảy ra… Khi giấc mơ không đơn thuần chỉ là giấc mơ? Khi sự đấu tranh giữa tham vọng và sự sống trở nên vô cùng khốc liệt? Sợi dây liên kết giữa mộng và thực sẽ đi về đâu khi mà một ngày kia, con người bỗng có khả năng đi vào giấc mơ của nhau? “Kẻ trộm giấc mơ” của Yasutaka Tsutsui - cuốn tiểu thuyết giả tưởng lừng danh về đề tài tâm lý học - có thể sẽ cho bạn một câu trả lời thỏa đáng. Paprika – cô gái tự xưng là thám tử giấc mơ - luôn che giấu danh tính thực sự của mình là Chiba Atsuko, chuyên viên tâm lý hàng đầu Nhật Bản. Với mục đích chữa bệnh, Paprika đã phát minh ra DC Mini, một thiết bị có khả năng giúp các bác sĩ tâm lý xâm nhập vào giấc mơ của bệnh nhân. Mọi việc có lẽ vẫn sẽ tốt đẹp nếu như một ngày kia, 3 chiếc DC Mini không bỗng dưng… biến mất?! Trong cuộc hành trình tìm lại DC Mini của Paprika, những góc khuất đen tối của một xã hội Nhật Bản tù túng đến nghẹt thở đã dần hiện ra. Hóa ra bên trong những lớp mặt nạ che giấu đi bản ngã thực sự, con người đang ngày càng cảm thấy trống rỗng đến vô hồn. Dựa trên học thuyết nổi tiếng về biện giải giấc mơ của nhà tâm lý học đại tài – Sigmund Freud, “Paprika - Kẻ trộm giấc mơ” của Yasutaka Tsutsui không chỉ là một cuốn tiểu thuyết mang yếu tố phiêu lưu giả tưởng đơn thuần, mà đan xen bên trong nó còn lột tả những gì trần trụi nhất trong nội tâm con người ẩn sau những giấc mơ tưởng chừng như đẹp đẽ. *** YASUTAKATSUTSUI Sinh năm 1934 tại Osaka, tốt nghiệp Đại học Doushisha chuyên ngành Văn học. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm: Oinaru joso, Kyojin tachi (đoạt giải thưởng văn học Izumi Kyoka), Asa no gasuparu (đoạt giải thưởng lớn cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Nhật Bản), Watashino guranpa (Đoạt giải thưởng văn học Yomiuri)... *** Tokita Kousaku chậm chạp bước vào phòng điều hành. Thân hình anh dễ phải nặng đến hơn trăm ký. Không khí trong phòng nóng nực và đặc quánh. Phòng điều hành của Tập đoàn tài chính Viện Nghiên cứu Tâm thần học thường chỉ có hai cán bộ thường trực là Tokita Kousaku và Chiba Atsuko, nhưng có tới năm chiếc bàn làm việc. Bàn của hai người được đặt trong góc, cạnh cửa sổ. Phòng điều hành ngay sát phòng nhân viên, vì cửa kính ngăn cách hai bên lúc nào cũng mở toang nên phòng điều hành nhìn giống như phần mở rộng của phòng nhân viên vậy. Chiba Atsuko đặt chiếc bánh mỳ sandwich cùng tách cà phê cô mới mua ở cửa hàng tiện lợi trong Viện lên bàn. Cô không muốn ăn. Đã từ rất lâu, mọi bữa trưa của Atsuko đều như thế này. Thực ra cũng có nhà ăn chung để bệnh nhân và nhân viên trong Viện dùng bữa, nhưng thức ăn thường dở đến không thể nuốt nổi. Vì chẳng có cảm giác thèm ăn nên Atsuko không phải lo lắng về chuyện tăng cân, cô luôn giữ được vẻ ngoài xinh đẹp cần thiết để sẵn sàng tiếp nhận phỏng vấn với đài truyền hình bất cứ lúc nào, thế nên có thể coi đó là một điều may mắn. Nhưng đáng tiếc thay, ngoài việc sử dụng sắc đẹp vì mục đích trị liệu cho bệnh nhân, cô chẳng mảy may quan tâm gì tới diện mạo của bản thân cũng như đài truyền hình. “Đang có tin đồn bệnh tâm thần phân liệt có khả năng lây nhiễm nên mọi người hoảng hốt lắm”, Tokita nói, đặt thân hình đồ sộ của mình vào chỗ ngồi bên cạnh Atsuko. Một chuyên viên trong Viện đã nhiễm chứng hoang tưởng. “Giờ ai cũng sợ không dám đụng đến máy quét và máy chiếu nữa.” “Phiền thật nhỉ”, bản thân Atsuko chẳng nhớ đã trải nghiệm chuyện đó bao nhiêu lần, từ xưa đến nay ai ai cũng biết các chuyên viên tâm lý đều sợ bị nhiễm bệnh tâm thần phân liệt. Thậm chí còn có người ba hoa rằng bệnh có thể lây qua màng nhầy như mụn rộp. Từ khi những máy móc trị liệu tâm thần tân tiến như máy quét và máy chiếu được đưa vào sử dụng, nỗi lo ngại đó càng lúc càng trở nên có căn cứ hơn. “Chỉ những chuyên viên không muốn thấu hiểu bệnh nhân hay có xu hướng thích ‘đổ thừa’ mới hay lo lắng thế. Mà đúng ra, trải qua chuyện đó họ mới có cơ hội tự chữa trị cho bản thân trên cương vị một nhà tâm thần học chứ.” “Đổ thừa” ở đây nghĩa là, khi không thể kết nối với bệnh nhân, bác sỹ trị liệu thường đổ lỗi cho những bất ổn về tâm lý mà bệnh nhân đang gặp phải. Đó chính là cơ sở của việc chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt hai mươi năm trước. “Trời ơi, lại ngưu bàng xào cà rốt với gà chiên kiểu yuan* nữa à!”, Tokita mở nắp hộp cơm bento mẹ làm cho, bĩu đôi môi dày, phàn nàn với vẻ bất mãn. Anh sống cùng mẹ trong căn hộ dành cho chuyên viên của Viện. “Mất cả hứng ăn.” Atsuko ngó vào hộp bento cỡ bự của Tokita, cảm giác thèm ăn bắt đầu trỗi dậy. Chắc chắn là cơm hộp rong biển đây rồi. Dưới đáy hộp là một lớp cơm trắng mỏng, bên trên trải rong biển khô tẩm nước tương, rồi lại thêm một lớp cơm nữa, đó là hộp cơm rong biển ngày xưa cô đã ăn không biết bao nhiêu lần. Trong hộp cơm ấy là những món ăn gia đình quen thuộc Atsuko vẫn hằng mong mỏi, là hương vị của những bữa cơm do chính tay mẹ cô nấu. Atsuko vốn không phải người khảnh ăn, thậm chí bây giờ cô còn cảm thấy mình sắp chết đói tới nơi luôn rồi. “Thế để tôi ăn hộ cho”, cô quả quyết, nhanh chóng với tay qua. Atsuko dùng cả hai tay định nhấc hộp bento lớn đan bằng tre của Tokita lên, nhưng Tokita cũng phản xạ rất nhanh. “Còn lâu nhé”, anh nhấn hộp cơm trên tay Atsuko xuống. “Anh vừa nói không muốn ăn còn gì”, Atsuko khá tự tin vào độ khỏe của đầu ngón tay mình. Cô cố giằng cho bằng được hộp bento từ tay Tokita. Ngoài hộp cơm này ra, trong Viện không còn gì có thể thỏa mãn nổi cái dạ dày của Tokita nên anh cũng hừng hực quyết tâm. “Đã bảo bỏ tay ra cơ mà.” “Ối chà chà”, Viện trưởng Shima Toratarou đứng trước hai người họ, mặt nhăn lại. “Hai ứng cử viên số một cho giải Nobel Sinh lý học và Y khoa lại đi tranh nhau cơm hộp thế này ư?”, ông rầu rĩ. Shima Toratarou hay có thói quen rời phòng Viện trưởng, dạo quanh phòng các nhân viên rồi bất chợt bắt chuyện với mọi người. Vài nhân viên giật bắn mình khi bất thần có tiếng người từ phía sau, điều này chẳng tốt cho tim mạch của mọi người chút nào nên nhiều khi Viện trưởng cũng bị lời ra tiếng vào lắm. Dù cấp trên cong môi buông lời mỉa mai, hai người kia vẫn không ai chịu nhường ai, tiếp tục giằng co trong thầm lặng. Trong một thoáng, Shima quan sát cảnh ấy với vẻ thất vọng thấy rõ, nhưng có lẽ sau khi thông cảm rằng trí óc thiên tài thường đi đôi với hành vi con nít, ông khẽ gật đầu vài lần. “Cô Chiba, lát nữa đến phòng Viện trưởng gặp tôi nhé”, Shima khẽ nói, đoạn chắp hai tay sau tấm lưng hơi khòng của ông và thong thả đi bộ quanh phòng nhân viên như mọi khi. “Nhưng dù là bác sĩ trị liệu đi chăng nữa, mắc chứng hoang tưởng giống bệnh nhân cũng đâu phải chuyện tốt đẹp gì”, Tokita nói, bất đắc dĩ chia nửa phần cơm của mình ra nắp hộp. “Cậu Tsumura lẫn lộn giữa nỗ lực tìm kiếm độc lập siêu việt và nỗ lực tìm kiếm độc lập thực nghiệm ở bệnh nhân. Cũng giống như người nhà họ hay mắc chứng hoang tưởng như chính người bệnh vậy đấy.” Thế lại càng nguy hiểm hơn. Bởi trong mắt bệnh nhân, bác sĩ trị liệu trông sẽ chẳng khác gì một kẻ bịp bợm, cũng tương tự như việc họ cảm thấy bị lừa gạt khi người nhà tỏ ra thấu hiểu những vấn đề của họ. Tự mình phải phân tích anh chàng Tsumura này thôi, Atsuko thầm nghĩ. Mời các bạn đón đọc Kẻ Trộm Giấc Mơ của tác giả Yasutaka Tsutsui.
Chiếc Chìa Khóa
Vẫn motif cuộc tình tay ba tay tư tuy không rối ren như Chữ vạn nhưng lại bệnh hoạn khó hiểu hơn Chữ vạn. Một ông chồng liệt dương lại đi ráp với 1 cô vợ bề ngoài thuỳ mị nết na nhưng ẩn chứa bên trong là một người đàn bà - nói thế nào cho đúng nhỉ ? - đúng là dâm đãng vô độ - nhưng từ này là từ tiêu cực chỉ để chỉ phụ nữ lăng loàn - còn từ điển của chúng ta chẳng có một từ nào để thể hiện cái gọi là “bản chất tình dục mạnh mẽ” của một người phụ nữ. Vậy mới thấy Việt Nam và cả phương Đông nói chung vẫn còn kì thị phụ nữ lắm lắm, và cái quan điểm này như một cái bẫy trói chặt người phụ nữ Á đông vào một khuôn khổ ngàn đời là lúc nào cũng phải “thuỳ mị”, “kín đáo”...mới là người phụ nữ đích thực . Nữ chính trong Chiếc Chìa Khóa ở trong 1 cái bẫy như vậy đó, nàng xinh đẹp và tràn đầy sức sống, bản thân nàng nhận thấy mình “hiếu dâm”, nhưng nàng không biết phải làm sao, vì đó là bản năng cửa nàng, nàng cũng rất đau khổ vì nàng là con nhà gia giáo, yêu chồng nhưng chồng lại khiến nàng không thỏa mãn, một mặt nàng khao khát ái tình, mặt khác lại luôn tỏ ra nết na thuỳ mị và ghê tởm mọi hành động ái tình mà chồng bày ra. Người chồng yêu vợ và hiểu vợ đã bày ra trò viết nhật ký, tuy bề ngoài là giấu diếm nhưng lại cố tình để chìa khoá cho vợ nhìn thấy và mở đọc, rồi người vợ muốn đáp lại chồng và muốn giải phóng bản thân, cũng ghi nhật ký để bày tỏ với chồng những ước muốn thầm kín của mình... Chuyện nếu chỉ có vậy thì cũng còn dễ hiểu , nhưng câu chuyện đã vượt quá xa sự hiểu biết tầm thường của mình về ái tình nam nữ, khiến mình cảm thấy bệnh hoạn và không thực. Mặc dù trước giờ đã đọc nhiều sách Nhật, biết về văn hóa Nhật tuy cũng là văn hoá Á đông nhưng rất khác biệt với Việt nam hay Trung hoa, nhưng motif cuốn sách này quả thực là quá quá khác biệt ???? đến nỗi mình không hiểu ông chồng lẫn bà vợ nghĩ gì khi bày ra trò chơi ái tình như vậy. Mình có nên kể ra mọi trò ấy ở đây không nhỉ ? Hay là cứ úp mở để mọi người tìm đọc cho hấp dẫn nhỉ ? Hehe, dù sao cốt chuyện cũng bình thường thôi, chỉ có văn tả thực hơi sock tí, dâm thư chỉ dành cho trẻ em trên 25 tuổi nha. *** Tanizaki Jun’ichirō (24/7/1886 - 30/7/1965) là một thiên tài văn chương với một văn nghiệp đồ sộ. Ông là người kể chuyện có duyên nhất trong những cây viết tiền chiến, nội dung các tác phẩm của ông phần nhiều khai thác cảnh sống hoan lạc, đồi phế của xã hội cũ đang suy tàn và miền sâu thẳm phong kín của địa ngục nội tâm con người muôn thuở. Văn chương Tanizaki vừa thâm trầm, cổ kính, vừa bóng bẩy, diễm tình, vừa đồi phế bệnh hoạn nhưng không kém phần tinh tế. Một số tác phẩm Tình Khờ Xâm mình (1910) Chữ Vạn (1928) Truyện Shunkin (1933) Con mèo, Shōzō và hai người đàn bà (1936) Chiếc Chìa Khóa (Hai cuốn nhật ký) (1956) Nhật ký giả điên (1961) Mong Manh Hoa Tuyết Nhật Ký Già Si ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Chìa Khóa của tác giả Tanizaki Junichiro.
Bóng Tối Thời Con Gái
Nhã Ca tên thật là Trần Thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế. Từ 1960 chuyển vào sống tại Saigon. Xuất hiện lần đầu trên tạp chí Hiện Đại số ra mắt với 3 bài thơ: Bài Nhã Ca Thứ Nhất, Ngày Tháng Trôi Đi và Thanh Xuân, bút hiệu Trần Thy Nhã Ca đã để lại một ấn tượng sâu sắc.           Thực ra, Nhã Ca đã có thơ, văn đăng từ rất sớm, trên tờ Văn Nghệ Học Sinh của Lê Bá Thảng, khoảng giữa thập niên 1950, với bút hiệu khác. Khi đó, nhà thơ Trần Dạ Từ, người bạn đời của bà sau này, phụ trách phần bài vở.   Trong 15 năm, từ 1960 đến ngày 30-4-1975, bà đã xuất bản 36 tác phẩm. Hai lần được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc. Lần thứ nhất, năm 1965 với thi phẩm “Nhã Ca Mới”. Lần thứ hai, 1966, với truyện dài “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác”.  Nhã Ca Mới ấn hành năm 1964 với Nguyên Sa đề tựa, Dương Nghiễm Mậu viết bạt, Nghiêu Đề vẽ bìa, Duy Thanh, Nguyễn Trung vẽ chân dung, Đằng Giao, Cù Nguyễn, Viên Linh vẽ phụ bản. Tập thơ đã được trao giải Thi Ca Toàn Quốc. Trong số các tác phẩm của Nhã Ca, “Giải Khăn Sô Cho Huế” viết về biến cố tết Mậu Thân 1968 tại Huế, đã khiến bà bị nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội giam cầm một thời gian và đưa bà - nữ tác giả duy nhất - vào danh sách 10 “Biệt kích văn hóa” ác ôn nhất ở Miền Nam Việt Nam cùng với Mai Thảo, Duyên Anh, Chu Tử, Nguyễn Mạnh Côn, v.v… Sau đó,  Nhã Ca được mô tả  thành "nhân vật phản diện" trong tiểu thuyết điệp báo đăng nhiều kỳ trên báo Công An, rồi được in thành sách, dựng thành phim "Vụ Án Hồ Con Rùa". Bà là nhà văn miền Nam đầu tiên và sớm nhất có tác phẩm được dịch qua 2 ngoại ngữ Pháp và Anh. Đó là các cuốn “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác” được Liêu Trương dịch sang tiếng Pháp với nhan đề “Le cannon tonnent la nuit” và cuốn “Đoàn Nữ Binh Mùa Thu” được Barry Hilton dịch sang tiếng Anh với tựa đề “The Short Times”. Từ tháng 9-1988, bà cùng chồng là nhà thơ Trần Dạ Từ và các con rời Việt Nam sang Thụy Điển, nhờ sự can thiệp của P.E.N International và sự bảo lãnh trực tiếp của Thủ Tướng Thụy Điển Ingvar Karlsson. Từ 1992, định cư tại California, tiếp tục viết văn làm báo, cùng chồng sáng lập và điều hành hệ thống Việt Báo Daily News tại Hoa Kỳ. *** NĂM tôi mười bẩy thì chị Hiền lấy chồng. Chị Hiền lấy anh Thân, một giáo sư tư thục. Anh Thân người Bắc, hơi già so với tuổi chị Hiền, nhưng được cái dáng điệu nhanh nhẹn, trẻ trung. Dĩ nhiên tôi cũng ở chung với anh chị, vì chúng tôi không còn bố mẹ. Anh Thân cũng là người mồ côi sớm giống như chị em chúng tôi. Anh di cư vào đây một mình, có một ít chú bác nhưng cũng ít liên lạc. Cuộc sống chung của chúng tôi vì thế cũng dễ chịu. Hai chị em tôi vốn sống đùm bọc nhau từ nhỏ. Tôi không nhìn thấy mặt thầy mẹ tôi bao giờ nhưng theo chị Hiền thì tôi giống mẹ tôi lắm ; còn chị thì giống thầy tôi. Tôi cũng nghĩ như vậy vì hai chị em tôi đều không giống nhau cả về khuôn mặt cũng như tâm tính. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng tôi ít thương yêu nhau. Tôi thương và hết sức nghe lời chị Hiền. Mặc dầu tôi đã mười bẩy tuôi, nhưng đối với chị, tôi còn như một con bé lên mười, lên mười hay lên chín cũng vậy. Chị Hiền có một tính dễ làm tôi khó chịu là không hay nói. Mỗi khi tôi có lỗi, chị chỉ lạnh lùng với tôi và cử chỉ lạnh nhạt đó làm tôi đau đớn còn hơn những vết roi quất. Nhưng từ năm tôi mười bảy và chị lập gia đình với anh Thân rồi thì chị dịu dàng với tôi hơn. Anh Thân cũng rất vui tính. Có lẽ anh cũng rất thương mến tôi nhưng ít khi có dịp biểu lộ tình thương ấy vì tôi đã lớn… Ngày trước, khoảng hai năm trước đó, khi quen và yêu chị Hiền, anh vẫn thường dẫn tôi đi ăn kem, đi xi nê, hoặc tới thăm các bạn bè của anh, nhưng bây giờ thì không. Nhiều lúc, tôi cũng thấy là tôi đã mất luôn chị Hiền, vì chị là một người vợ tốt, thích chiều chuộng chồng và để hết tâm trí vào gia đình. Ngôi nhà chúng tôi ở có hai phòng ở dưới và một căn gác nhỏ phía sau. Kiểu nhà thông thường ở Sàigòn, nhưng sang được một căn ở khu sạch sẽ, yên tĩnh như khu chúng tôi ở không phải là dễ. Tôi chiếm căn gác phía sau và sống một mình hầu như riêng biệt trên đó. Sự riêng biệt cũng nhiều khi làm tôi tủi thân, nhất là khi chị Hiền mang thai. Khi nghe tin chị có thai, tôi thấy tình thương còn lại ở chị Hiền dành cho tôi như mất thêm đi một nửa. Có điều đặc biệt là từ đó anh Thân thường hay vắng nhà hơn trước. Nhưng chị Hiền không buồn. Chị nói với tôi là anh ấy cần phải làm việc nhiều hơn vì sắp làm cha. Gia đình, trong những ngày chị Hiền mang thai, có phần vui vẻ hơn. Anh Thân, chị Hiền đều có vẻ rạng rỡ và tôi chắc anh chị đều vui vẻ thật tình. Anh Thân có nhiều bạn lắm. Thường thường chủ nhật họ hay kéo lại nhà ăn uống, hội họp, bởi chị Hiền làm thức ăn khéo léo nên các buổi hội họp rất vui. Với lại tính anh Thân vốn cởi mở, yêu thích bè bạn. Nhưng tôi thì không thích những ồn ào đó. Trong khi dưới nhà ăn uống vui vẻ, tôi rúc đầu trên căn gác đọc tiểu thuyết. Tôi cũng rất thích viết văn và ưa trở thành văn sĩ. Tôi tập viết đủ loại nhưng tôi không thành công về mặt này. Cuối cùng tôi xoay ra tập vẽ và muốn trở thành một họa sĩ. Thật bất ngờ, tôi có vẻ thành công hết sức về mặt này. Anh Thân cũng như chị Hiền đều không đề ý tới những việc tôi làm. Lần đầu tiên trông thấy một bức tranh bột màu trên căn gác của tôi, anh ngạc nhiên, hỏi : - Hạnh vác bức tranh này ở đâu về vậy ?   Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thời Con Gái của tác giả Nhã Ca.
Thả Mồi Bắt Bóng
Nhà văn Võ Văn Trực sinh năm 1936 tại làng Hậu Luật, tỉnh Nghệ An. Cầm bút từ những năm sáu mươi, ông viết nhiều thể loại: thơ, văn, bút ký và biên khảo. Tác giả nhiều tập thơ trong đó có Trăng phù sa, được giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội năm 1983; nhưng chính hai cuốn tiểu thuyết Chuyện làng ngày ấy (viết năm 1990, in ra bị tịch thu ngay, được nhà xuất bản Lao Động tái bản tại Hà Nội năm 2005, và báo Văn Học California in nhiều kỳ và xuất bản thành sách năm 2006) và cuốn Vết sẹo và cái đầu hói, (nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, in năm 2006) đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. *** Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường. Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh.   Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987.  Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996).  Mời các bạn đón đọc Thả Mồi Bắt Bóng của tác giả Võ Văn Trực.