Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú

Đuổi theo tinh tú… Cũng không khác gì hái sao trên trời, ngụ ý những ước mơ không thể chạm tới. Biết không chạm tới mà vẫn mải miết theo đuổi, là hành động thường chỉ bắt gặp ở tâm hồn không chịu tuyệt vọng như trẻ thơ. Người ngoài nhìn vào thấy rất ngẩn ngơ, nhưng ấm lạnh ra sao chỉ người trong cuộc biết. Giống như người đàn ông vợ chết, cả quãng đời còn lại chỉ ráo riết tìm đường xuống địa ngục phục sinh nàng… Giống như cô bé vì chút tình mới chớm với một anh chàng, mà nồng nhiệt băng mình vào hành trình không thấy ngày mai dưới lòng đất… Bởi nếu không buông bỏ nhịp sống an toàn dù chỉ chốc lát, để đuổi theo những ước mơ dù vô vọng nhất và đối mặt với cảm xúc của mình ở chặng cuối hành trình, thì cuộc đời họ cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Tiếp tục đề tài chia ly, nhưng không đẩy nhân vật lên trời cao như Tiếng gọi từ vì sao xa hay trải ra trên trần như 5 centimet trên giây, lần này câu chuyện của Shinkai Makoto lại dắt tất cả xuống lòng đất, sang thế giới đang mai một bên kia… *** Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú hay câu chuyện về những con người tìm về một giấc mơ Trong quá khứ, đã từng có một Shinkai Makoto dịu dàng, dung dị và tối giản vô cùng vô tận ở những bộ phim, câu chuyện ngắn như Kanojo to kanojo no neko – Nàng và con mèo của nàng. Nhưng hiện tại, lại có một Shinkai Makoto khiến người ta đắm say với các thước phim tráng lệ như một bữa tiệc của tình tiết hòa quyện với đồ họa, âm thanh. Tuy nhiên, dù giản dị hay tráng lệ, dù hiện thực hay hư ảo, điều cuối cùng điều Shinkai Makoto hướng đến vẫn là tái hiện những cảm thức rất riêng của con người, xã hội Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, bộ phim được công chiếu vào năm 2011, một trong các tác phẩm có thời lượng dài nhất của Shinkai cho tới hiện tại, cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy. Để từ đó, tiểu thuyết cùng tên được Akisaka Asahi chắp bút chuyển thể từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương đã phần nào lưu giữ, tái hiện được trọn vẹn “chất Shinkai Makoto”. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review sách Một áng văn đẹp tựa cổ tích Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, cuốn sách nhỏ chưa đầy 200 trang có một tựa đề đầy thơ mộng, rất gợi, rất thơ, đủ mang tới cho độc giả nhiều suy tư cùng liên tưởng. Tại sao lại là “những đứa trẻ”? “Những đứa trẻ” ở đây là chỉ những đối tượng nào? “Tinh tú” là gì? Là một ngôi sao cụ thể hay là hình ảnh mang ý nghĩa biể tượng nào đó. Và những đứa trẻ kia, vì lý do gì lại phải đuổi theo tinh tú, hành trình ấy sẽ diễn ra như thế nào, có thật thuận lợi, kết quả chúng có thể hoàn thành được tâm nguyện của mình? Quả thực, từ một tiêu đề đầy tính gợi hình, gợi tả, Shinkai Makoto đã mở ra cả một không gian truyện tựa như cổ tích. Ngay chính trong lòng đất nước Nhật Bản thời hiện đại, có một mảnh đất tựa rêu phong phủ kín: Mizonofuchi. Mảnh đất ấy, lại ở ngay phía trên một thế giới dưới lòng đất đang mỗi lúc một suy tàn: Agartha. Cho nên, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đấy cứ bảng lảng như thực như hư trong những lời kể, trong những dòng không gian xáo trộn, trong những dòng tâm trạng hay những kí ức, suy tưởng vụn vỡ của con người. Không gian sáng tác tựa như cổ tích, dòng thời gian chảy trôi của các tình tiết cũng như một câu chuyện huyền thoại được viết bằng bút pháp hiện đại. Bởi thời gian ở Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú là một dòng thời lưu có nhiều xáo trộn, đan xen giữa hiện thực – quá khứ; vừa là sự tỉnh lược trong những lời trần thuật, vừa là sự kéo dài mỗi khoảnh khắc, mỗi đêm khó khăn, vất vả của cuộc trình giữa hai thầy trò Asuna – Morisaki. Từ đó, mà cốt truyện dần thành hình và độc giả, không chỉ hiểu về nội dung mà còn hiểu sâu về tư tưởng, tình cảm người viết gửi gắm vào tác phẩm, ngay từ các con chữ đầu tiên, xuất hiện trên tựa đề. Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI, một thị trấn như bị lãng quên, dòng thời gian như ngưng đọng, nơi đấy, có một cô bé 11 tuổi tên Asuna, dịu dàng, tốt bụng nhưng luôn rụt rè, nhút nhát. Hàng ngày, sau khi tan học, Asuna đều đến mỏm đá cao nơi bìa rừng để bắt sóng cho chiếc radio tinh thể. Tại đây, ngày nọ, Asuna gặp gỡ một cậu bé tên Shun, cư dân của vùng đất dưới lòng đất Agartha. Tình bạn chớm nở giữa hai đứa trẻ và Shun đã cứu Asuna thoát khỏi nanh vuốt một con quái vật. Tuy nhiên, lần đầu gặp gỡ cũng là lần cuối chia tay, Shun chết ngay sau đêm ấy. Và trong buổi học sau đó, Asuna lại được nghe thầy giáo Morisaki nhắc tới mảnh đất Agartha, nơi có thể hồi sinh được người chết. Rồi như định mệnh, Asuna gặp gỡ em trai Shun – Shin, người đến mặt đất lấy lại viên tinh thể Shun để lại. Cô bé, vì quá đỗi kinh ngạc trước sự giống nhau giữa Shin – Shun và nhất là với khao khát cứu sống lại người bạn quá cố, đã cố gắng theo chân cậu bé tới mảnh đất xa lạ kia. Giữa đường, họ gặp cuộc tập kích của những kẻ cũng ôm ấp mưu đồ tới Agartha, trong đó có thầy Morisaki, người đang mang tâm nguyện hồi sinh vợ. Ba con người, mang ba nỗi niềm, tiến đến Agartha, miền đất trong truyền thuyết, nơi lưu dấu những tri thức cổ xưa, nơi cất giữ những bí ẩn cổ đại nhất của nhân loại, nơi ẩn chứa những sức mạnh nằm ngoài tầm với, sự hiểu biết của con người. Và cũng như rất nhiều câu chuyện cổ tích khác, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, từ mảnh đất của truyền thuyết, với những huyền thoại được thêu dệt, mà con người gửi gắm vào đấy ước mơ, hi vọng. Ước mơ hồi sinh người đã mất, ước mơ được gặp người quá cố, ước mơ tìm về một phần ký ức đã xa, ước mơ được sống những giây phút chẳng còn cô đơn, phiền muộn. “Tinh tú”, vì thế, đâu chỉ tượng trưng cho bầu trời đêm lấp lánh ánh sao trong lần đầu Asuna và Shun gặp gỡ. Đó còn là biểu tượng cho những giấc mơ đẹp, có phần xa xôi nhưng người ta vẫn mãi kiếm tìm, mãi đuổi theo, mãi vươn đến. Bởi, còn đuổi theo tinh tú, con người còn mục đích để tiếp tục sống, tiếp tục hướng đến ngày mai. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review Câu chuyện cổ tích, nhưng cũng là câu chuyện của thực tại Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đẹp tựa giấc mơ cổ tích ấy như gieo vào lòng người đọc những xúc cảm rất thơ, rất mộng của một thời thơ bé ta vẫn từng mơ: xứ sở dưới lòng đất, nơi biến khát vọng con người thành hiện thực, những loài sinh vật chỉ là tưởng tượng hay các cuộc phiêu lưu căng thẳng, kịch tính. Nhưng khi tỉnh dậy từ trong giấc mộng được Shinkai Makoto cùng Akisaka Asahi chắp cánh, hẳn mỗi độc giả, mỗi chúng ta, đều nhận ra rằng: Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, tưởng như cổ tích mà lại là câu chuyện hết sức đời thường, đời thường đến nỗi quá đỗi dung dị. Như đã nói, những tác phẩm của Shinkai Makoto, dù trước kia hay bây giờ, dù hiện thực hay hư ảo, đều chuyên chở ở đó những tầm sâu văn hóa và tâm thức rất riêng của con người Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy Shinkai. Dẫu rằng phần lớn dung lượng cuốn sách nhắc đến Agartha, một địa danh không có thực; nhưng không vì thế mà bóng hình Nhật Bản với vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm trong cảnh sắc thiên nhiên, trong những dấu tích văn hóa, sinh hoạt đời thường của con người trở nên phai nhạt. Quê hương cô bé Asuna sinh sống, thị trấn Mizonofuchi, nơi có trường tiểu học Mizonofuchi như ngưng đọng lại những trầm tích thời gian, lịch sử của một nước Nhật giàu truyền thống. “Ngôi trường bằng gỗ được dựng từ đầu thời Chiêu Hòa, cổ kính, đượm màu thời gian”. Và chính cái tên Mizonofuchi – nghĩa đen tức đáy sâu cũng như gói ở đó bao lắng đọng của cả vật chất lẫn tinh thần của mỗi bước chuyển thời gian ở xứ sở này. Ngọn núi ở Obuchi, mũi đất cô bé Asuna vẫn thường đến để thu bắt tín hiệu cho chiếc radio tinh thể có ý nghĩa biểu tượng như chiếc cổng Tori trong văn hóa Nhật Bản: nối liền hai không gian, gắn kết những chiều thời gian để mở ra hai thế giới vẫn luôn song song tồn tại. Và ngay chính vùng đất truyền thuyết Agartha, cũng mang dáng dấp một Nhật Bản cổ xưa, với những nét đẹp truyền thống, những tri thức cổ đang dần đến bờ vực mai một, thất truyền giữa dòng xoáy của thời gian, của lòng người. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú Trong một câu chuyện gợi nhiều liên tưởng tới không gian văn hóa đặc trưng của xứ sở mặt trời mọc, thì nhân vật hiện lên, cũng mang nét riêng. Đó là những con người hiện đại đều cùng chung tâm thức giữa cuộc khủng hoảng căn cước: cô đơn vô định giữa cuộc đời, mãi kiếm tìm cái tôi bản ngã hay một lẽ sống, tồn tại trong cuộc sống hay mọi người xung quanh. Họ khao khát được khẳng định chính mình, khao khát được công nhận nhưng đồng thời, họ cũng e sợ, rụt rè trong những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm gay gắt giữa được và mất. Như cô bé Asuna đã cô đơn biết bao trong cuộc sống của hai mẹ con mà người mẹ luôn bận rộn công việc, không có thời gian dành cho cô bé. Asuna khát khao được kết bạn, được nói lên tiếng nói cá nhân từ thẳm sâu trái tim nhạy cảm. Nhưng mãi cô bé chẳng nói được, vì sợ hãi mà Asuna, cứ dần khép chặt lại cánh cửa con tim. Hay như cậu bé Shin, mãi đuổi theo bóng hình người anh trai thiên tài mà cậu bé như quên đi mất, bản thân cũng là một cá nhân độc lập, có suy nghĩ, có cuộc sống riêng. Và đấy còn là người thầy Morisaki, sẵn sàng đánh đổi tất cả, chỉ để hồi sinh người đã khuất; người thầy đó, như bao năm qua vẫn luôn ôm ấp một bóng ma để làm lẽ tồn tại cho cuộc đời nhiều thương đau. Mỗi con người, mỗi cảnh ngộ, dù già hay trẻ, dù trải đời hay chưa thì đó đều là một mảnh ghép để hoàn thiện bức tranh về Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú. Hay có thể nói chăng, chính là con người, nên dù mãi đuổi theo niềm mơ ước riêng của cá nhân, dẫu có xa xôi, dẫu có viển vông, thì đấy vẫn là ước mơ, đích đến cho con người ta sống, tồn tại, vươn lên dưới bầu trời. Shinkai Makoto – từ ngôn ngữ điện ảnh đến ngôn ngữ văn chương. Điểm mạnh dễ nhận thấy nhất trong phim của Shinkai Makoto sau hàng loạt tác phẩm như Tiếng gọi từ vì sao xa, 5cm/s, Khu vườn ngôn từ… là ở mảng đồ họa trong ngôn ngữ điện ảnh. Các thước phim của ông, đều là bữa tiệc thịnh soạn của hình ảnh, âm thanh, ánh sáng, từ đó mà đầy cảm xúc của người xem đến cao trào. Đó là ưu điểm; song cũng là một sự thách thức cho các nhà văn, khi chuyển thể sáng tác của Shinkai Makoto từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương. Bởi văn chương, chỉ có thể dùng ngôn từ để tái hiện lên những gì vốn là hình ảnh, âm thanh mà thôi. Và với Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Akisaka Asahi đã phần nào đáp ứng được thử thách khó khăn đấy. Một cuốn sách dung lượng không quá dài nhưng lại để tái hiện một bộ phim có chiều dài gần hai tiếng. Ngôn từ cô đọng, kể, tả, tạo điểm nhấn vào những sự kiện khá đắt giá: lúc Asuna gặp Shun, Asuna và thầy Morisaki những ngày đầu ở Agartha, khoảnh khắc ba con người đem ba vọng ước trên mảnh đất huyền thoại đối mặt với điều ước cải tử hoàn sinh… Để rồi, dẫu không thể mang tới cho độc giả một bữa tiệc của hình ảnh, âm thanh như thế mạnh của điện ảnh; thì Akisaka Asahi, vẫn mang tới cho người đọc một tác phẩm, đủ gợi hình, gợi tả về những giấc mơ đã xa, và về cả những khát khao trong hiện tại lẫn tương lai. Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú của tác giả Asahi Akisaka & Makoto Shinkai & Lan Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mù Lòa - Jose Saramago
"Mù lòa" giống như câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Mù lòa là cuốn tiểu thuyết siêu thực, đa nghĩa, đầy ẩn dụ được nhà văn José Saramago viết năm 1995. Năm 2008, Mù lòa được chuyển thể thành phim và chiếu mở màn tại Liên hoan phim Cannes. Đó là câu chuyện hư cấu về một thành phố kỳ lạ - thành phố bỗng dưng hóa mù.  ... Căn bệnh mù trắng đã lan ra ngoài bốn bức tường của phòng giam, vỏ bọc của xã hội thành thị văn minh sụp đổ hoàn toàn và trở về trạng thái nguyên thủy man rợ. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của thành phố bị phá hủy, mối liên kết giữa các cá thể trong cộng động sụp đổ hoàn toàn. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ chiếm cứ nhà của người kia, ai cũng làm đủ mọi cách để sinh tồn, bất chấp việc chà đạp lên đồng loại… Chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ấy, vợ ông bác sĩ - người sáng mắt duy nhất đã có lúc thốt lên mong muốn được mù như mọi người, “mù nhưng thấy”. Không phải bỗng dưng tác giả mở đầu cuốn sách bằng câu đề từ: “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát”. Lời đề từ như tiếng sấm truyền từ một cuốn sách cổ xưa để lại, khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, thảng thốt. Thì ra từ “thấy” đến “nhìn” và “quan sát” là cả một chặng đường dài về nhận thức mà không phải kẻ “mắt sáng” nào cũng làm được.  Mù lòa giống như một câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Hơn hết, Mù lòa đặt ra cho người đọc những triết lý nhân sinh cần suy ngẫm qua lời vợ ông bác sĩ nói trong phần kết của tác phẩm: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”. *** Jose Saramago sinh năm 1922 tại Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo, Bồ Đào Nha. Tác phẩm của ông đầy chất huyền thoại và đa nghĩa, gợi lại cổ tích qua cách nhìn độc đáo về lịch sử, xã hội và con người. Văn của ông đi sâu vào chỉ tiết, châm biếm và dí dỏm, siêu thực và đầy ẩn dụ. Mãi đến năm sáu mươi tuổi ông mới được nhiều người biết đến qua tác phẩm Memorial do Convento (Ký ức về nhà tu kín, 1982). Tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi nhất của ông là O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Phúc âm theo Chúa Jesus, 1991), bị Thứ trưởng Ngoại giao Bồ Đào Nha loại khỏi danh sách các tác phẩm đề cử giải Văn chương châu Âu. Ông nhận giải Nobel Văn chương năm 1998. Một số tác phẩm của ông gồm có: Manual de Pintura e Caligrafia (Cẩm nang hội họa và thư pháp, 1977), Viagem a Portugal (Du lịch Bồ Đào Nha, 1981) O Ano da Mortc de Ricardo Reis (Năm vua Ricardo băng hà, 1984), A langada de Pedra (Chiếc bè đá, 1986), História do Cerco de Lisboa (Trận bao vây Lisbon 1989), Todos os Nomes (Mọi cái tên, 1997), O Conto da llha Desconhecida (Chuyện hòn đảo vô danh, 1997), A Caverna (Hang động, 2001), O Homem Duplicado (Kẻ giống hệt, 2003), Ensaio sobre a Lucidez (Trong sáng, 2004), Don Giovanni ou O Dissoluto Absolvido (Don Giovanni hay Gã phóng đãng vô tội, 2005), As Intermitências da Morte (Thần chết tạm nghỉ, 2005), As Pequenas Memórias (Kỷ niệm ấu thơ, 2006), A Viagem do Elefante (Chuyến đi của con voi, 2008), Cain (2009). Mù lòa (Ensaio sobre a Cegueira, 1995) dịch từ bản tiếng Anh, Blindness, của Giovanni Pontiero, ông mất trước khi sửa xong bản dịch; Margaret Jull Costa hoàn tất việc sửa bản tiếng Anh; nhà xuất bản Harcourt, Florida, ấn hành năm 1999. “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát.” Mời các bạn đón đọc Mù Lòa của tác giả Jose Saramago.
Hội Những Trái Tim Cô Đơn - Elizabeth Eulberg
Dành tặng EEC thân yêu. Dành tặng đặc biệt đến Dav Pilkey, người đầu tiên khích lệ tôi viết cuốn sách này. Đều là lỗi của anh hết đấy nhé! Tớ, Penny Lane, trịnh trọng xin thề suốt cuộc đời còn lại sẽ không hẹn hò với đứa con trai nào nữa. Ừm, có lẽ mươi mười lăm năm nữa tớ sẽ cân nhắc lại lời thề này, khi tớ không còn sống ở Parkview, bang Illinois nữa, hoặc khi tớ học xong tại trường Trung học McKinley, nhưng lúc này tớ sẽ không dính líu gì đến tụi con trai nữa. Tụi nó chỉ biết nói dối, lừa phỉnh. Đấy, tất tần tật. Toàn là quỷ dữ. Đúng là vẫn có vài người tử tế, nhưng ngay khi bọn họ đạt được mục đích, họ sẽ đá đít bạn và chạy theo mục tiêu mới. Vì thế tớ chán ngấy rồi. Không hẹn hò gì nữa. Chấm hết. Yesterday "Love is such an easy game to play…" *** “Hài hước, ấn tượng. Một cuốn sách cần phải đọc và thích hợp với bất kỳ ai đã từng yêu – hay thề sẽ vĩnh biệt tình yêu” (Stephen Meyer). 16 tuổi, hâm mộ ban nhạc The Beatles, Penny Lane phát ốm với đám con trai và chán ngấy việc hẹn hò sau khi mối tình với cậu bạn thanh mai trúc mã tan vỡ, mối tình khiến cô cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Bởi vậy cô nàng thề sẽ từ bỏ tình yêu và thành lập “Hội những trái tim cô đơn”, sẽ chỉ tập trung vào việc học và quan tâm tới bản thân mình. Nhưng Penny chẳng ngờ được là có bao nhiêu cô nàng cũng có tâm trạng giống mình và muốn gia nhập hội. Thậm chí cả những cô nàng trước giờ cô chưa từng nghĩ sẽ quan tâm tới nó cũng muốn tham gia. Và rồi có những điều không tưởng nổi đã xảy ra… Thế còn bạn, bạn sẽ làm gì khi bạn là thành viên sáng lập một cái hội chống-hẹn-hò nhưng lại bắt đầu rung rinh trước một anh chàng đẹp trai, dễ thương và quan trọng hơn cả anh ta rõ ràng là muốn hẹn hò với bạn? Đọc qua “Hội những trái tim cô đơn” thoạt tiên ta sẽ ngỡ cuốn sách viết cho lứa tuổi mới lớn và nó quá “trẻ” đối với những người đã trưởng thành, nhưng không hẳn vậy. Với văn phong thực sự hấp dẫn với những chủ đề xoay quanh tình bạn, tình yêu và cả những giá trị đích thực của bản thân mỗi người, Elizabeth Eulberg đã khiến mọi người cảm nhận được những điều thú vị và hấp dẫn mọi lứa tuổi trong tác phẩm của mình. “Hội những trái tim cô đơn” sẽ làm cho bạn đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác cùng với những chi tiết vui nhộn, đáng yêu. Một cuốn sách thú vị trong mùa Valentine dành tặng mọi lứa tuổi, những ai đã hẹn hò và cả những trái tim vẫn chưa tìm được nửa kia của mình. .... Mời các bạn đón đọc Hội Những Trái Tim Cô Đơn của tác giả Elizabeth Eulberg.
Hành Trình Tình Yêu - Katie Fforde
Lời thề từ bỏ đàn ông nhiều khi lại bị phá vỡ bởi chính những người đàn ông giàu lòng kiên nhẫn. Jo Edwards không bao giờ định sống trên một cái sà lan. Cô thậm chí không chắc là mình có thích thuyền hay không. Nhưng khi chồng cô đổi cô để lấy một một người mẫu trẻ hơn, cô nhận ra các lựa chọn của cô bị giới hạn một cách đáng lo ngại. Dora Hamilton không bao giờ lập kế hoạch trốn chạy trong đám cưới của chính mình. Nhưng khi ngày trọng đại đó đến gần, bàn chân lạnh lẽo của cô chẳng có dấu hiệu gì của sự ấm áp – và việc chấp nhận lời mời ẩn náu của Jo trên con tàu Ba Chị Em dường như là sự lựa chọn duy nhất. Khi Jo và Dora bắt đầu làm mới cuộc sống lộn xộn của họ, họ nhận ra cả hai cần có một cái nhìn thực tế để giúp họ ổn định. Nhưng, bất chấp lời thề từ bỏ đàn ông, họ không thể nào chống lại được sự can thiệp đầy kiên trì của anh chàng Marcus điển trai nhưng bí ẩn, cùng anh chàng Tom quyến rũ và giản dị, những người dường như quyết định giúp đỡ họ cho dù họ có thích hay không… *** Dora đặt mấy cái túi xuống và nhìn người phụ nữ đang vẫy tay với cô bên kia mặt nước. Theo hướng dẫn, cô đã bắt taxi từ nhà ga của cái thị trấn xinh xắn bên bờ sông Thames này và được thả xuống ở cổng bến thuyền. Rồi cô gọi điện thông báo mình đã tới. Bà chủ nhà mới của cô sẽ đón cô và dẫn cô vào trong. Cô vẫn nhận ra bà ấy, dĩ nhiên, nhưng mẹ người bạn thân nhất của cô đã thay đổi đôi chút so với lần cuối cô gặp bà. Bà đang mặc áo sơ mi khoác ngoài dài thòng và quần jeans thụng. Trước kia, bà thường mặc kiểu quần áo mà những phụ nữ tỉnh lẻ như mẹ cô hay mặc: váy, áo lụa, hoặc có thể là một cái áo phông ôm sát người, với áo len casơmia tròng ra ngoài. Tóc bà, vốn được chăm chút gọn gàng vì một tuần đến tiệm làm đầu một lần, bây giờ trông khá bù xù, xơ xác. Tuy nhiên, bà đang mỉm cười ấm áp, và Dora cảm thấy rốt cuộc việc tìm đến bà nương tựa có thể chẳng phải một ý kiến tồi. “Làm thế nào mà cháu xoay xở được với đống đồ này trên tàu hỏa thế?” Bà Edwards hỏi khi băng qua cây cầu tới chỗ Dora. Bà nhấc mấy cái túi “dùng được nhiều lần” căng phồng những chiếc áo len dài tay. “Và tại sao cháu lại cần chỗ áo len này? Đang là tháng Năm mà!” “Mẹ cháu nói ở trên thuyền lúc nào cũng lạnh,” Dora giải thích với vẻ áy náy. “Và những người đi cùng chuyến tàu đã giúp đỡ cháu nhiều,” cô nói tiếp, nhớ lại sự tốt bụng của họ đã gần như khiến cô òa khóc thế nào. Cô rất mong manh, điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể khiến cô xúc động. “Cô thực sự nghĩ rằng, nhìn chung thiên hạ vẫn tốt bụng hơn những gì người ta đồn thổi,” bà Edwards nói, lịch sự lờ đi lời nhận xét về cái lạnh và những con thuyền. “Giờ thì theo cô.” Dora đeo ba lô lên lưng và đi theo bà trên con đường dẫn đến một cái cổng thép cao. Bà Edwards rướn người về đằng trước và chạm vào một tấm kim loại. Cánh cửa kêu bíp bíp và bà đẩy nó ra. “Cô cất chìa khóa từ trong áo lót,” bà giải thích. “Tay cô lúc nào cũng bận xách thứ gì đó. Cô sẽ đưa cháu một chìa riêng, để cháu có thể ra vào tùy ý.” Bà liếc nhìn Dora. “Được không?” Dora gật đầu và theo bà Edwards xuôi theo lối đi bộ dẫn đến dãy cầu phao. Mỗi chiếc cầu phao đều cột một con thuyền. Mặc dù rất muốn nhìn chúng, Dora vẫn mừng vì bà Edwards không dừng lại - ba lô của cô quá nặng. Họ đã đi qua khoảng bốn chiếc thuyền, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, trước khi bà Edwards dừng lại cạnh một chiếc thuyền lớn sơn màu xanh lá cây đậm. “Đây là chiếc Ba chị em. Ban đầu nó có một cái tên Hà Lan, nhưng chẳng ai phát âm được, vì thế Michael, chủ sở hữu của nó, đã dịch tên nó ra như vậy. Đó là một cái tên phổ biến dành cho những con thuyền Hà Lan.” Bà Edwards quẳng mấy cái túi lên thuyền rồi nhảy phốc qua mạn thuyền với sự lanh lẹ không ngờ. Dora nghĩ mẹ cô sẽ phải cố hết sức mới làm được việc đó, nhưng rồi nhớ lại rằng mẹ cô đã luôn phải nỗ lực trong mọi việc, đó là một phần lý do tại sao cô ở đây. Bà Edwards quay lại, chìa tay cho Dora. “Đưa cô mấy thứ đó, rồi nếu cháu đặt chân ở kia, cháu có thể lên thuyền khá dễ dàng. Chỉ cần luyện tập một chút thì cháu sẽ nhảy lên nhảy xuống con thuyền này như một con cừu non thôi.” ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Tình Yêu của tác giả Katie Fforde.
Dấu Vết Của Mẹ - Marta Dzido
Kịch bản không có gì đặc biệt. Hai cô cậu học trò cuối cấp và cái thai không mong muốn, cuộc trốn chạy của chàng trai vô trách nhiệm. Cô gái cố gắng sống bình thường, quên đi cậu bạn và chạy trốn sự cô đơn… Nhưng Dấu vết của mẹ là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, với một sự già dặn đặc biệt, nhất là khi tác giả viết nó lúc chưa tròn hai mươi. Với dấu vết của mẹ, Marta Dzido đã bước vào hàng ngũ những nhà văn trẻ quan trọng nhất của Ba Lan. *** Năm 1956. Một mùa hè ngột ngạt. Hai người phụ nữ ngồi chờ trước phòng khám phụ sản. Một người rất trẻ, gần như một cô bé, vì ai cũng chỉ đoán cô mười tám tuổi là cùng mặc dầu cô đã hai mươi sáu tuổi - có hẹn đến phá thai. Cô có hai con nhỏ, một ông chồng lao phổi, không việc làm, không kế sinh nhai. Người phụ nữ thứ hai - già hơn, ăn mặc chỉn chu và lịch sự - bị vô sinh, tuy nhiên bà ta vẫn đến bác sĩ với hy vọng được giúp đỡ. Họ bắt đầu nói chuyện. Cô gái chờ làm thủ thuật nói rằng cô ta không thể có đứa con thứ ba, cô không biết phải xoay sở thế nào, rằng chồng cô sắp chết, rằng cô đã kiệt sức và rằng… Người không thể có con nói: - Em cứ để đẻ đi, chị sẽ nhận cháu bé, chị sẽ nuôi dạy nó, yêu thương nó… - Không, không thể như thế được - cô gái muốn bỏ cái thai nói. - Chị sẽ trả tiền cho em - người thứ hai nài nỉ. - Không mà, chị... - Nhưng chị sẽ trả thật mà. Nhiều… - và chị ta rút từ ví ra một tệp tiền. - Đây, em cầm đi, em cứ cầm rồi suy nghĩ, được không? - Xin chị để cho tôi yên - cô gái chờ làm thủ thuật nói. Cô ta đứng dậy rồi chạy khỏi bệnh viện. Sáu tháng sau cô ta sinh một bé gái. Hai mươi bốn năm sau bé gái ấy sinh một bé gái khác.   Năm 2000. Cô gái út trong số ba chị em gái đã lớn. Mặc dù đã hai mươi tuổi nhưng trông cô như một đứa trẻ con và không một ai có thể nghĩ rằng cô lại là mẹ của một bé gái mấy tháng tuổi. Lại một mùa hè ngột ngạt, và cô gái ngồi trong bệnh viện, chờ vào khoa phụ sản. Bây giờ để phá thai phải trả hai ngàn zloty. Ngồi cạnh cô là một phụ nữ ăn mặc chỉn chu và lịch sự, nhưng họ không chuyện trò gì. Cô gái đã hẹn với bác sĩ, người sẽ làm cái việc phá thai. Từ hai ngàn, anh ta giảm xuống tám trăm, có lẽ anh ta thấy thương cho cô. Cô ta đến chỗ bác sĩ với cái thai năm tuần tuổi và một đứa bé ba tháng tuổi trên tay, cô nói là bác sĩ của bệnh viện bảo cho con bú sữa mẹ đều đặn là biện pháp tránh thai tốt nhất. Rằng hoóc môn của thuốc tránh thai sẽ vào sữa và có hại cho đứa trẻ, còn đặt vòng thì lại quá sớm. Cô ta tin, vì bác sĩ cơ mà, nhất định phải biết thế nào là tốt nhất chứ. Và giờ đây cô đang mang thai, cái thai mà chỉ một tiếng nữa thôi sẽ không còn nữa. Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái như trút được gánh nặng, nhưng lại thấy xấu hổ vì không biết sẽ phải kể về chuyện này như thế nào và với ai. Cô không biết cái việc cô vừa làm xong được gọi là gì. Cô im lặng rất lâu, cho tới khi không giữ nổi nữa cô bèn viết sách. Về phá, nạo, vét, về phương pháp hút chân không, về sẩy thai, về tiết dịch và máu. Cô viết cuốn sách mà chỗ này chỗ kia còn khập khiễng, non nớt, lộn xộn, ngây thơ, một số câu bộc lộ vẻ ngoài kiêu căng của một nữ sinh trung học. Cô viết xong và lại thấy nhẹ nhõm. Cô mang cuốn sách đến nhà xuất bản, nhưng giám đốc nhà xuất bản, chị Beata S. nói với cô rằng không thể để thế được, rằng nếu đã viết cuốn sách về nạo phá thai thì cần phải có quan điểm rõ ràng, ủng hộ hay phản đối, và phải nói được điều đó một cách sáng sủa, dễ hiểu. Làm sao để độc giả không phải băn khoăn. Và nói chung là cần phải đầu tư thêm thời gian công sức. Nhưng cô gái đã không còn muốn nữa, cô cứ để cuốn sách nguyên xi như vậy, và mấy năm sau cô viết một cuốn sách khác. Lần này thì cuốn truyện thành công. Viết về thất nghiệp, về dân thủ đô hợm hĩnh ngạo mạn và về những cuộc hôn nhân thất bại. Cô gái xuất hiện trên báo chí và truyền hình, ở đấy cô không biết phải nói gì, mà họ thì hỏi đủ thứ - về nữ quyền, về giáo hoàng và về thế hệ gì gì đấy. Cô cười tươi, rụt rè nói: “vâng, vâng” hoặc là “không, không”. Không được một câu dài hơn. Cuối cùng người xuất bản, ông Piotr M. thuộc công ty đưa ra dự kiến: - Hay là chúng ta in cái cuốn về phá thai ấy? Nhưng cô gái do dự. Vì đã sáu năm rồi và có lẽ bây giờ tốt hơn nên viết cuốn mới chứ đừng có lôi mấy cái chuyện cũ rích ấy ra, không được đâu, mà cô cũng không muốn mất công vào đó nữa… Cuối cùng cô trả lời: - Nhưng đấy đâu có phải là văn chương hay ho gì… - Không sao - tiếng của người xuất bản trong ống nghe - nó chân thực và nói về một vấn đề quan trọng… - Nhưng em sợ - cô gái nói vào ống nghe - là mọi người sẽ hỏi đây có phải là viết về em không và có đúng là em phá thai không? - Đừng sợ, em có con cơ mà, đó là minh chứng tốt nhất cho việc em không phá thai… - Piotr M. nói. ... Mời các bạn đón đọc Dấu Vết Của Mẹ của tác giả Marta Dzido.