Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nỗi Niềm

Chuyện xảy ra trong một tầng lớp mà ta quen gọi là tri thức. Bốn nữ nhân vật chính gồm một nhà văn, hai giáo sư giảng dạy ở một trường đại học nổi tiếng của nước Mỹ và một minh tinh màn bạc vang bóng một thời. Hẳn chúng ta đã quen nhìn tầng lớp của những con người này bằng con mắt ngưỡng mộ – họ là những con người khả kính, có trình độ uyên thâm, có học vấn sâu rộng và làm việc nghiêm túc với những quy tắc bất di bất dịch của giới…trí thức. Nhưng trong tác phẩm Nỗi Niềm, Paule Constant đã lội ngược dòng, bà đi sâu tìm hiểu vạch vòi đến tận chân tơ kẽ tóc, qua đó, thực chất đã được phơi bày. Thì ra trong tầng lớp cấp tiến này của xã hội cũng tồn tại muôn vàn những thứ cỏn con mà ta không dám gọi là tệ nạn, hay ganh ghét, hay đố kỵ, hay hiềm khích… vì sợ làm vấy bẩn những con người khả kính ấy. Chỉ giữa họ với nhau thôi, giữa bốn nhân vật chính trong truyện, ngoài việc cùng một tầng lớp « trí thức », họ còn là bạn vong liên, còn là những kẻ ngưỡng mộ nhau… Vậy mà chỉ trong có vài ngày chung sống dưới cùng một mái nhà, thì giữa họ đã nảy sinh bao mấu thuẫn, tư tưởng trái nghịch nhau. Lòng ghen ghét đố kỵ, chứng học đòi làm sang, chuyện đạo văn trong giới văn chương, rồi dè bửu lẫn nhau…đã phơi trần ra hết. Paule Constant đã rất thành công vạch trần bộ mặt thật ấy, và tác phẩm đã xứng đáng nhận giải thưởng Goncourt năm 1998. Và do Hiệu Constant đã giới thiệu và chuyển thể sang tiếng Việt, do Nhà XB Hội nhà văn cùng với sự giúp đỡ của Trung tâm văn hoá Việt – Pháp thuộc ĐSQ Pháp tại HN ấn hành đầu năm 2005. *** Với những bạn đọc quan tâm nhiều tới sách dịch, đặc biệt là văn học Pháp đương đại, hẳn đã rất quen thuộc với các tác phẩm như: Nỗi niềm của Paule Constant - tác phẩm được giải Goncourt năm 1998 (NXB Hội Nhà văn), Rừng thẳm của Julien Gracq, tác giả đã từ chối giải Goncourt năm 1951 (NXB Đà Nẵng), Tổng thống François Mitterrand là như thế của Jacques Attali (NXB Công an Nhân dân), Bi kịch của Tổng thống Jacques Chirac của Frank-Olivier Giesbert (NXB Công an Nhân dân), Những điều chưa biết về cố đệ nhất phu nhân Hoa kỳ Jackie Kennedy (NXB Công an Nhân dân), Bóng đen của vầng ánh dương của Christelle Maurin (NXB Công an nhân dân) - tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2006, Người đàn bà thứ bảy của F. Molay (NXB Đà Nẵng) tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2007, Người trả thù cho các hầm mộ (NXB Đà Nẵng) - Tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2008, Bạn tôi tình tôi của Marc Levy (NXB Đà Nẵng),… Vâng, những đầu sách được tôi nhắc tới đều do chị Hiệu dịch và giới thiệu với bạn đọc Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi muốn đề cập tới Lê Thị Hiệu với tư cách một tác giả sáng tác, sống và làm việc ở hải ngoại mà chất văn vẫn mang đậm nguồn văn hóa Việt chảy trong cơ thể, qua mỗi câu văn, lời kể. Trong các tác phẩm dịch, dịch giả không chỉ dùng ngôn ngữ của mình, còn phải dùng cách kể, kết cấu nghệ thuật của tác phẩm dịch. Nhưng ở tác phẩm viết, tác giả có thể “tung hoành trong vùng đất của mình”, thỏa sức sáng tạo, thể hiện, và bộc lộ mình. Ở trong tác phẩm đầu tay này cũng vậy, bằng bút lực cuốn hút, hấp dẫn, Lê Thị Hiệu cố gắng thể hiện mình qua lời kể và lời tâm tình tự sự. Tác phẩm “Côn trùng” chính là những trăn trở, suy tư, khát vọng yêu và được yêu. “Côn trùng” dùng lối viết độc đáo về nhân tình cuộc sống và những mảng đời thực ngoài xã hội. Truyện được giãi bày một cách xa xót và nuối tiếc, một cách dũng cảm và day dứt về một mối tình không bao giờ tàn lụi. Vẻ đẹp của mối tình không bao giờ được xã hội công nhận này vừa như ánh sáng lung linh soi rọi, vừa như loài côn trùng rỉ rả gặm nhấm; vừa làm hồi sinh cõi sống tinh thần, vừa làm héo úa vẻ đẹp của hạnh phúc. Tiểu thuyết này là câu chuyện tình yêu giữa “tôi” và N.V. “Tôi”, một người con gái sinh ra trong chiến tranh và lớn lên trong thời bình, nuôi dưỡng tình yêu thầm lặng, nhiều khi nồng cháy với một người con trai đã kinh qua trong lửa đạn, dạn dày nơi trận mạc  là một chỗ dựa, một nơi tìm về của “tôi”. Và bên cạnh đó, còn một tình yêu khác, không rõ ràng hiện hữu, nhưng thực sự tồn tại là tình yêu, nỗi khắc khoải của một người con xa xứ luôn hướng về đất mẹ, dù nhiều khi chỉ trong tâm thức. Tình yêu của hai con người thuộc hai thế hệ như một định mệnh. Lần gặp gỡ đầu chỉ thoảng qua khi N.V giúp đỡ H (đó là tên của nhân vật tôi) lắp lại xích cho chiếc xe đạp của cô. Cuộc gặp này bình thường như bao cuộc gặp gỡ khác của những con người hàng ngày đối diện nhau. Sau lần đó, phải ba năm sau hai người mới gặp lại. Họ dễ dàng nhận ra nhau giữa biển người, những cô sinh viên hâm mộ vây quanh N.V. Lần gặp này cũng đi qua như một kỷ niệm trong đời, để đến lần thứ ba, hai người gặp nhau thì H không còn là sinh viên năm thứ ba nữa mà đã là một cử nhân. Quan hệ của họ lúc này chỉ như những người bạn xa lâu ngày nay gặp lại. Nào ai có thể rõ trong lòng họ đang nghĩ tới những gì!? Tới lần gặp kế tiếp, cách lần gặp trước tới mấy năm liền, khi mà H cũng đã có gia đình. Hai người đến với nhau, qua nụ hôn thoảng chốc mà H thấy lâu như cả thế kỷ, để rồi khi ra đi, bay về phương trời Tây, “tôi” còn “để lại một trời tình cảm vương vấn”. Tình yêu trong lòng H, cái mối tình cảm đơn phương đeo đẳng bao nhiêu năm giờ bùng cháy thiêu đốt tâm can cô. Sau nhiều lần gặp gỡ đứt đoạn như vậy, hai con người đã tìm đến nhau, để rồi bao ý nghĩ, bao luân thường đạo lý cứ trôi trượt đi. Từ lúc đó trở đi, tình yêu của họ không thể bị ngăn cản bởi không gian nửa vòng trái đất, thời gian dặc dài của năm tháng, thậm chí cả cái chết cũng không chia lìa được tình yêu của họ. Bởi N.V vẫn luôn tồn tại, trong mỗi hơi thở, trong mỗi bước đi, trong mỗi kỷ niệm đọng trong không gian thiên nhiên cây cỏ. Chắc hẳn, N.V trước khi nhắm mắt đã phóng ánh mắt ra xa, về phía phương trời Tây xa xôi – nơi có người phụ nữ anh yêu, và tự nhủ rằng nàng là một phần của cuộc đời ta, là thiên thần, là cả vũ trụ lúc rạng rỡ, lúc đam mê, ngay cả khi biết mình sắp lìa đời vì bệnh tật (Không biết rằng lúc đó, những hình ảnh ngay trước mắt là vợ anh, là con anh có in dấu được vào đáy mắt anh không?). Khi mất đi rồi, anh vẫn muốn H đừng khóc, hãy coi như anh đi có chút việc sang phía bên kia cuộc đời, và có thể gọi anh khi muốn, tâm sự với anh khi cần. N.V mất rồi, tình yêu của cô với anh vẫn không suy suyển. Những dấu hiệu của chứng trầm cảm, những bài nhật ký, những việc H làm để thoát ra, vươn tới cuộc đời thực chỉ càng chứng tỏ tình yêu của cô với N.V. Tình yêu của họ nồng cháy, thăng hoa trong mỗi cảm xúc, trong mỗi lúc được gần nhau, dù N.V đã có gia đình và vẫn luôn yêu quý trân trọng gia đình nhỏ bé đó. Và cả H nữa, H yêu N.V bằng cả tấm lòng, dù bao khó khăn cách trở trong cuộc đời, bao gồm cả trách nhiệm với gia đình, hay bất cứ vì một lý do gì khác, cô vẫn yêu N.V cháy lòng. Nhiều người sẽ nghĩ rằng, cuốn sách này không trọn vẹn vì kết cuộc 2 người yêu nhau không đến được với nhau, theo tôi, nếu đến được với nhau, liệu họ có hạnh phúc không hay tình yêu tôn thờ cao đẹp của H lại bị tan vỡ như “giấc mộng yêu đương” của cô sinh viên mắc nghiện mà N.V có lần kể cho H nghe. Cuối cùng, N.V và H không thể đến bên nhau nhưng lại càng không thể rời bỏ nhau. Đến tận khi, N.V vĩnh viễn ra đi, H mới nhận biết rằng mình yêu anh biết bao. Nước mắt cô rơi bao lần trên trang nhật ký, tâm tình cô trút vào bác sĩ tâm lý. Tất cả những điều đó có thể ích gì nữa khi N.V đã về với cuộc đời khác. Những việc làm lúc đó, chắc chỉ có thể cứu vãn mình H với cuộc sống thực đời thường mà thôi. Bằng lối văn phong mới mẻ của mình, tác giả đã cuốn hút người đọc ngay từ những dòng chữ đầu tiên, để rồi cứ bị lời văn cuốn đi mãi. Tất cả lời kể chuyện, tâm tình giãi bày trong đoạn văn dài, với những sự kiện, chi tiết, không chỉ liên quan đến N.V mà còn nhiều những sự lý thú trong cuộc sống trên khắp hành tinh này. Cách kể chuyện của Lê Thị Hiệu có thể đưa ta tới nhiều vùng đất, không chỉ là những miền đất quê hương như Hòa Bình, nơi có bà mẹ già sống neo đơn mà nhất định không chịu về quê hương bản quán, muốn ở lại vùng đất nơi in dấu những hình ảnh, kỷ niệm của con mình; Đó là vùng đất Huế với sự tự hào của Việt Nam trước thế giới - di sản phi vật thể: Nhã nhạc cung đình; Đó là bản làng Ve, nơi cứu chữa, chở che, nuôi dưỡng những con người vào sinh ra tử hiến mình cho lý tưởng cao đẹp. Còn nhiều vùng đất lạ trên khắp thế giới. Vùng đất với cuộc sống như trong một nghìn lẻ một đêm, những giá trị văn hóa Hồi giáo tồn tại, những sự kiện kỳ bí tại vùng đất này. Hay có thể đó là những vẻ đẹp của nước Pháp cổ kính… Lê Thị Hiệu có lối văn thật lạ lùng, nhưng cũng thật hấp dẫn. Cả câu chuyện chỉ là tâm sự dài, không bị ngắt quãng bởi bất cứ điều gì. Câu chuyện cứ đều đều diễn ra, các sự kiện đan xen, gối lên nhau nối tiếp, lúc rõ ràng, lúc mờ mờ ảo ảo vô thực. Thực ra, nếu không chịu làm quen với một lối viết văn mới lạ như vậy, bạn đọc thật khó tiếp cận và hiểu câu chuyện. Lối văn của chị sống động như một con cá đang bơi, bên trong là một khung xương vững chãi, nơi xương dăm, xương lồng ngực nối kết với xương cột sống - là tình yêu của H với N.V. Với kiểu văn như vậy, nếu ta không tập trung chọn lọc sẽ thấy thật lúng túng khi tiếp cận, thấy chúng thật lủng củng xa lạ. Nhưng khi gắn kết toàn bộ những chi tiết đó thì câu chuyện mới hoàn thiện, cuốn hút người đọc. Bạn đọc trẻ giờ đây, rất nhiều người dễ dàng chấp nhận và cho là hay những câu chuyện tình yêu nhàn nhạt, hoặc những tình yêu với xung đột mãnh liệt, hay thích tìm kiếm, chấp nhận những câu chuyện như cổ tích. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận những tác phẩm như nó vốn có, là cuộc sống đời thường. Tình yêu trong tác phẩm là một tình yêu có thể hiện diện trong cuộc sống. Những nhân vật như H, N.V, B và H.H (con gái của H), C (chồng H), nhà văn TDA, nếu ai quen Lê Thị Hiệu sẽ dễ dàng luận ra những cái tên đó trong cuộc đời. Tuy nhiên, cách làm như vậy cũng không cần thiết, bởi văn chương chỉ phản ảnh một phần hiện thực qua lăng kính chủ quan của nhà văn mà thôi. H vẫn là H, và N.V vẫn là N.V với tình yêu nồng cháy, luôn bên nhau ngay khi một người chỉ còn là ký ức. T.V (nguồn: TCSH số 239 - 01 - 2009)   ***   Paule Constant sinh năm 1944 tại xứ Gan, Pyrénées-Anlantiques.   Bà tốt nghiệp trường Đại học Paris-Sorbonne với văn bằng Tiến sĩ.     Giải thưởng:   Năm 1988, bà đoạt giải Goncourt cho tác phẩm Confidence pour confidence (Nỗi niềm).   Năm 1989, bà đoạt giải thưởng lớn cho tiểu thuyết Académie française (Học viện Pháp).     Những tác phẩm chính:   Ouregano, 1980, NXB Gallimard   Propriété privée, 1981, NXB Gallimard   Balta, 1983, NXB Gallimard   Un monde à l'usage des demoiselles, 1987, NXB Gallimard   White Spirit, 1989, NXB Gallimard   Le Grand Ghâpal, 1991, NXB Gallimard - Prix Jackie Bouquin   La Fille du Gobernator, 1994, NXB Gallimard   Confidence pour confidence, 1998, NXB Gallimard   Sucre et secret, 2003, NXB Gallimard   La bête à chagrin: roman, 2007, NXB Gallimard   Mời các bạn đón đọc Nỗi Niềm của tác giả Paule Constant.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Làm Sao Yêu - Cecelia Ahern
Cô gái Christine sau khi ly hôn, trong khi bận giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống cá nhân, thì lại tình cờ cứu được một anh chàng sắp nhảy cầu tự tử. Cô tìm mọi cách để giúp anh vui sống trở lại và nhờ đó chính cô cũng vui trở lại. *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương Tình Làm Sao Yêu ... Mời các bạn đón đọc Tình Làm Sao Yêu của tác giả Cecelia Ahern.
Thuỷ Vân Gian (Dấu Ấn Tình Yêu) - Quỳnh Dao
Dân Quốc năm thứ mười tám, Tây Hồ Hàng Châu. Lần gặp gỡ đầu tiên giữa Mai Nhược Hồng và Đỗ Tiên Tiên, ở ngay tại Tô Đề, trên chiếc cầu mang tên “Vọng Sơn Kiều”. Sau đó, Mai Nhược Hồng vẫn thường nghĩ, chuyện này cũng giống như Hứa Tiên gặp Bạch Tố Trinh ở “Đoạn Kiều”, trong truyện Bạch Xà Thanh Xà. “Vọng Sơn Kiều” và “Đoạn Kiều” của Tây Hồ, đều đã được định sẵn, là sẽ viết lại vận mệnh của một số người. Điều không giống nhau là, truyện Bạch Xà Thanh Xà chỉ là truyền thuyết, vai nữ chính dù sao cũng chỉ là một con rắn, không phải là người. Còn “Vọng Sơn Kiều”, thì lại dẫn ra câu chuyện của một đám người sống động, câu chuyện của “người”. Hôm ấy, là ngày tụ họp định kỳ của “Túy Mã Họa Hội” ở “Yên Vũ Lầu”. Mai hoa lạc nằm trong bộ ba tiểu thuyết Mai hoa tam lộng của Quỳnh Dao (hai tác phẩm còn lại là Người chồng ma và Thủy vân gian). Cả ba tác phẩm này khi chuyển thể thành phim đều gây sốt nhưng thành công nhất vẫn là Mai hoa lạc. Bộ phim đã đưa cặp diễn viên chính Mã Cảnh Đào và Trần Đức Dung nổi đình nổi đám. Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Thuỷ Vân Gian (Dấu Ấn Tình Yêu) của tác giả Quỳnh Dao.
Giấc Mộng Sau Rèm - Quỳnh Dao
Giấc Mộng Sau Rèm xoay quanh cuộc sống của hai cô tiểu thư nhà họ Uông - Uông Tử Lăng và Uông Lục Bình. Trong khi cô chị Lục Bình xinh đẹp và là một diễn viên múa tài năng thì cô em Tử Lăng lại kém nổi bật.  Lục Bình yêu Sở Liêm và hai bên gia đình đều ra sức tác thành cho hai người. Thế nhưng Sở Liêm lại thầm yêu cô em Tử Lăng. Trong đúng ngày Sở Liêm và Tử Lăng quyết định nói ra tình cảm thì Lục Bình lại bị tai nạn mất đi một chân. Vì trách nhiệm, Sở Liêm đành kết hôn với Lục Bình. Sau này, Tử Lăng tìm được tình yêu đích thực bên Phí Vân Phàm.   Câu chuyện đã được chuyển thể thành phim hai lần. - Giấc Mộng Sau Rèm (1995) - Một Thoáng Mộng Mơ (2007) Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Giấc Mộng Sau Rèm của tác giả Quỳnh Dao.
Dòng Sông Ly Biệt - Quỳnh Dao
Có nhiều người thắc mắc tại sao tôi lại thích truyện của văn sĩ Quỳnh Dao, một thể loại truyện bi lụy về tình yêu. Thích thì có cần giải thích lý do không? ^^ Nhưng chính xác thì tôi không thích, mà là “cảm” nội dung về thời cuộc và niềm đa cảm trong cốt truyện nhiều dư vị cổ điển đó. Tôi đồng ý truyện của Quỳnh Dao đa cảm, nhưng đa cảm lại là dấu ấn hiện thực lớn nhất mà cuộc đời mang tặng đến ngòi bút một thời vang bóng của văn đàn Đài Loan. Những bộ truyện đi vào lòng khán giả cũng chính bằng niềm đa cảm mà một thời người ta rung động trong nó. Những truyện đó không phải để đời, nó đi ngang vào thế hệ nào đó và có lẽ dứt ở những thế hệ đó, nhưng mãi là một thoáng quá khứ lất phất nếu người đọc ngã đúng điểm rơi để hiểu về một thời đại nhiều biến động trong bước giao thời của lịch sử. Truyện mang trong nó hơi thở hiện đại-thời bấy giờ với những cách tân và dấu ấn của những tâm tư ngổn ngang của thế hệ đã trãi qua. Yên Vũ Mông Mông (hay khán giả Việt thường gọi là Dòng sông ly biệt, và sau đây tôi sẽ gọi theo tên đó) là tác phẩm tôi nhớ nhất của Quỳnh Dao, một phần vì truyện có một đoạn kết đáng nhớ nhất, một phần vì nó được dựng thành phim vài lần và đều tạo được hiệu ứng đáng kể đối với khán giả. Tôi xem hai bản dựng 86 và 2001, nhưng chưa được xem bản dựng năm 75 và bản movie năm 65. Bản 86 khá trung thành với nguyên tác, trừ đoạn kết, bản 2001 thay đổi nhiều để tấu hài và biểu diễn nhằm chiều lòng khán giả. Như tôi đã nói, tôi “cảm” cốt truyện được đặt đúng thời điểm tạo dấu ấn tư tưởng nên cũng “cảm” bộ phim phả được làn hơi đó. Khi bản 2001 thay đổi nhiều tư tưởng cũ thì tác phẩm không còn “hồn” để “cảm” nữa, riêng bản 86 làm được nên bài viết này sẽ nói nhiều hơn một chút về truyện và bản dựng 86 với sự tham gia của Tần Hán, Lưu Tuyết Hoa và đặc biệt là nữ diễn viên có vẻ đẹp nhu mì thục nữ Triệu Vĩnh Hinh, ngọc nữ của văn sĩ Quỳnh Dao. Câu chuyện kể về nhà họ Lục với cảnh gia đình-giao thời nhiều biến động vần vũ tâm tư của nhân vật. Cảnh đa thế tứ thiếp còn sót lại từ thời phong kiến, cảnh con riêng và những khoảng cách lẫn bất đồng giữa hai thế hệ khơi mào cho mâu thuẩn nung nấu trực trào gợi nên những rạn nứt tình cảm giữa các nhân vật. Để đánh đổ và xây đắp lại thế giới quan, để thông cảm và thấu hiểu lẫn nhau mà bước đi tiếp trong cuộc đời. Tôi thường thích câu chuyện rạn nứt rồi hàn gắn hơn nguyên vẹn lành lặn, vì lành lặn thì xem mấy diễn viên quấn nhau như sam hết ôm lại hôn, hết hôn lại quờ chân chọt tay như phim dạo này xem phải khiến tôi thấy mình thật rỗi hơi, mấy vụ đó để dành thực hành riêng tư chứ xem thì chẳng xi-nhê gì, mà chỉ phí thời giờ :d. Dòng sông ly biệt chuyên chở những con sóng mênh mang về cuộc đời, bao hàm trong đó là tình cha con, mẹ con, anh chị em và tình yêu, tình bạn. Trọng tâm câu chuyện kể về ba thanh niên Lục Y Bình, Lục Như Bình và Hà Thư Hoàn. Với diễn xuất đặc sắc của cặp đôi vàng thời đó Tần Hán-Lưu Tuyết Hoa cùng Triệu Vĩnh Hinh đã tạo nên nên “hồn” nhân vật mang nhân sinh quan sống, tâm tư, trăn trở khiến khán giả liên hệ và ghi nhớ. Lưu Tuyết Hoa vẫn mang ánh mắt cương nghị ngang ngạnh rất thật của cô vào nhân vật Lục Y Bình, Tần Hán thì vẫn hào hoa trong dáng vẻ hiền lành của mình, nhưng ấn tượng nhất đối với tôi là “hồn” nhân vật Như Bình thông qua cách đặc tả của Triệu Vĩnh Hinh, đây là lần thứ 3 tôi nhắc đến tên diễn viên trong một bài viết, một điều rất ít khi xảy ra, vì khi ngồi viết bài này thì dáng vẻ nhu mì mơ hồ của Như Bình hiện lên rất đậm, bàng bạc nhưng lại khó quên trong điệu cười cũng như cách khóc xen trong hạnh phúc cũng như niềm bất lực của cô gái-vừa tròn đôi mươi, khi cô lạc lõng-nhu mì trong một gia đình ai cũng nóng nảy và cương quyết đến ương bướng. Như Bình lạc lõng ngay từ đầu trong chiếc tổ của chính mình khi sức đề kháng của cô đối với cuộc đời yếu ớt, cô như nàng công chúa yên phận công chúa, nhưng thời cuộc biến động nên chẳng thể yên phận dài lâu. Như Bình như dấu ấn còn sót lại của quá khứ, trầm lặng và thụ động đón chờ định mệnh, không giành giật với cuộc đời và chỉ nhận những gì mình sẽ có thể có. Như Bình thiếu đi bản lĩnh nắm lấy tham vọng, cô đẹp người đẹp nết nhưng là vẻ đẹp thụ động cần có một hoàng tử mới tạo thành câu chuyện hạnh phúc, chứ không thể tự thân tìm kiếm hạnh phúc. Và rất tiếc người cô trao trọn tình yêu là Hà Thư Hoàn lại không phải hoàng tử của cô nên cô như nàng tiên cá đứng lặng thinh chấp nhận chìm vào niềm cô độc mà sống. Hà Thư Hoàn là chàng trai đi tìm nhịp đập con tim mình chứ không phải đi tìm điểm dừng bình yên nên người anh chọn không phải là một hình bóng lặng thầm, mà là một cô gái sống động như Y Bình khiến anh được “điên” lên. Tình yêu mà Hà Thư Hoàn chọn đầy cảm tính, anh chưa từng trãi, anh như một chàng công tử bị cuốn vào hơi thở tình yêu nên đâu biết đeo đẳng theo anh là một người con gái do anh cứ lằng nhằng, để người con gái đó cứ chập chờn hy vọng-làm người đứng bên cạnh anh những lúc anh mỏi mệt tìm chỗ trốn chạy. Như Bình là người đến trước nhưng chậm chân nên lại trở nên kẻ đến sau đứng bên nhịp trái tim Thư Hoàn, để mãi mãi vấn vương. Như Bình chưa bao giờ tranh giành tình yêu, cô yên phận và chấp nhận số phận một cách dễ dàng vì tự ti về bản thân do mọi người thân không hiểu để cổ vũ mà toàn nhiếc móc và “muốn” sống thay cô. Vòng tham vọng của người thân ám vào số phận Như Bình như tơ rối khiến cô không thể thoát khỏi hệ lụy để trôi vào sự bình lặng của cuộc đời như cô muốn, vì bản năng của cô không sống để tranh giành. Như Bình thiếu đi một luồng ánh sáng dẫn đường đi về tương lai, khi giá trị gia đình là thứ cô bám víu vào để lay lắt tồn tại sau lúc buông xuôi tương lai, tình cảm của mình thì nó cũng bung rễ khiến Như Bình đã cô độc trở nên ngập ngụa trong niềm cô độc đó. Đã sẵn tự ti nay cuộc đời bế tắc nối tiếp ngõ cụt khiến cô tự nhận đời là một chuỗi thất bại, là gánh nặng chuôi cô kẹt vào lưỡi dao kép trong tư tưởng. Như Bình bịt bùng sau khi mẹ bỏ đi theo nhân tình và khoắn hết tiền cha cô để dành, bà đi để lại mặc cảm tội lỗi nhuốm vào tư tưởng cô con gái-đã giải thoát cho bà trước cửa tử, khiến người con gái ấy bơ vơ giữa cuộc đời đã chẳng còn ham muốn sống nay cũng chẳng còn gì níu kéo, cuộc đời tăm tối và thay đổi choáng ngợp vượt quá khả năng kiểm soát nên Như Bình tự tìm lối thoát cho mình bằng cách buông thõng sự sống. Cô đã thôi chấp nhận và thôi chịu đựng nên can đảm tìm một lối thoát, dù là trốn tránh đương đầu số phận. Với tôi ít nhất Như Bình đã tự quyết định đời mình, đã biết mặc kệ những người ở lại để thôi nghĩ về họ nữa, thôi quan tâm đến họ nghĩ gì mà chỉ cần biết riêng mình thôi. Cô ra đi trong đau lòng nhưng đã dám cắt đứt sự sống đã bị buông thõng từ lâu, mà nếu cô không ra đi thì sự sống đó có lẽ đã thui chột lại càng thui chột mà thôi, chỉ là sớm hay muộn. Quyết định trốn tránh ấy không đáng ca ngợi, nhưng ít nhất cần được tôn trọng về một đời người đã biết tự mình nắm lấy số phận, dù là trốn tránh số phận ấy. Bởi Như Bình như mưa lất phất lại cuộc đời thôi, nhẹ nhàng, hắt hiu chẳng thể thay đổi được ai nhưng để lại một góc quá khứ lất phất rơi, u sầu rớt lại rồi nhẹ nhàng tan đi… *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Ly Biệt của tác giả Quỳnh Dao.