Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hêrôin Trong Nhà Trắng - Jerry Cotton
Lưu ý là quyển này có trùng nội dung với quyển "Lương Tâm Và Tội Ác" cũng được NXB Công An Nhân Dân ấn hành cùng năm 2005 Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland ... Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** ...Vào khoảng chín giờ ba mươi, Mel Corlet bước vào ngôi nhà nghỉ cuối tuần của anh nằm giữa một cánh rừng bên dòng sông Potomac. Anh thấy đầu váng rất đau, nhưng nhìn chung thì anh còn tương đối tỉnh táo. Món cà phê của Marny Davenport đi kèm với bánh mỳ nướng, đùi lợn xông khói, trứng ốp-la và rất nhiều nước cam ép thật sự đã có một hiệu ứng thần kỳ. Mặc dầu vậy, lẽ ra anh không được phép lái xe sau một đêm dài tới thế. Nhưng rồi người đàn ông tự an ủi mình rằng thật ra anh chỉ đi qua những đoạn đường dành riêng cho xe lâm nghiệp và xe của những người sống quanh đây. Trong số những người sống quanh dây thì anh đang là người duy nhất có mặt trong cả một khu đất rộng. Ngôi nhà gỗ nằm cô đơn, hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng được sống những ngày nghỉ hiếm hoi trong cảnh tĩnh mịch tuyệt đối, hoàn toàn không bị ai khuấy đảo, đủ tĩnh mịch cho anh quên được cuộc sống lao động vất vả hàng ngày. Vừa bước chân vào cái buồng tắm đứng nhỏ xíu và đóng cửa lại, Corlet vừa nghĩ rằng nếu được chia sẽ sự cô đơn này với một người phụ nữ dễ thương thì có lẽ cuộc sống sẽ trở nên rất dễ chịu. Anh đang nhớ đến một người cụ thể: tóc vàng, mắt xanh, có duyên, một thân hình lý tưởng và một bộ não chững chạc. Nhưng Liza là chiêu đãi viên hàng không và rất yêu nghề. Mà lịch bay của cô và lịch làm việc của anh lại khác biệt tới mức hiếm hoi lắm họ mới gặp được nhau. Mel Corlet đưa chiếc lược ướt chải qua mái tóc thẫm mầu gợn sóng, quan sát chút ánh bạc thấp thoáng hai bên thái dương và ở hai đường chân mày. Nếu không cẩn thận, rồi anh sẽ thành một gã trai ế vợ già nua. Bốn mươi tuổi! Thật ra thì đã quá tuổi cưới vợ một chút rồi. Nhưng từ xưa đến nay anh luôn ngại ngùng cái việc xem xét ngó nghiêng trong hàng ngũ con gái của những gia đình cầu tiến. Anh không thích dạng phụ nữ chỉ biết chăm con và coi con đường danh vọng của chồng là nhiệm vụ của đời mình. Ngược lại, Liza là một cô gái khiến cho anh thích thú. Nhưng đối với một người đàn ông mang trọng trách thì mối quan hệ với một cô gái độc lập và cũng rất thành công trong nghề nghiệp thật sự là một chuyện đầy khó khăn. ... Mời các bạn đón đọc Hêrôin Trong Nhà Trắng của tác giả Jerry Cotton.
Đứa Trẻ Hư - Tử Kim Trần
Sách Nói Đứa Trẻ Hư Chu Triều Dương, cậu học sinh có thành tích học tập xuất sắc nhất toàn trường cấp 2. Phổ Phổ và Đinh Hạo bỏ trốn khỏi cô nhi viện và đến tìm cậu để ở nhờ. Ba đửa trẻ tình cờ quay được đoạn video Trương Đống Thăng giết bố mẹ vợ anh ta và tiến hành tống tiền. Chu Triều Dương vô tình ngộ sát đứa em gái cùng cha khác mẹ, lúc đó chỉ có Phổ Phổ và Đinh Hạo chứng kiến. Bà mẹ kế nghi ngờ cậu chính là hung thủ nên dã tìm mọi cách trả thù cậu. Cảnh sát hoàn toàn không nghi ngờ gì Chu Triều Dương nhưng vẫn luôn tìm kiếm tung tích của kẻ giết chết Chu Tinh Tinh và đã dần điều tra được một số manh mối. Liệu Chu Triều Dương sẽ xử trí ra sao? Mối quan hệ giữa ba đứa trẻ và Trương Đống Thăng sẽ diễn biến như thế nào? Liệu Trương Đống Thăng có thể thực hiện được kế hoạch của anh ta một cách thuận lợi? Số phận của ba đứa trẻ sẽ ra sao? Và sau cùng, mọi hành vi của Chu Triều Dương có bị phát giác hay không? Cậu sẽ có một cuộc sống hoàn toàn mới hay phải chịu sụ trừng phạt của pháp luật? *** Đứa trẻ hư đã đề cập đến một vấn nạn nhức nhối cần được quan tâm – tội phạm vị thành niên. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, Tử Kim Trần đã phác họa lên bức tranh những thiếu niên nổi loạn chân thực và sống động, khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Chúng là những đứa trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, tâm hồn chứa đựng những tổn thương tâm lý nặng nề. Đó là một Triều Dương ngoan ngoãn, thành tích học tập xuất sắc nhưng thiếu thốn tình thương của cha; là Đinh Hạo – từ bé đã mang tiếng là con trai kẻ sát nhân; là Phổ Phổ xinh xắn nhưng mồ côi cha mẹ, là nạn nhân của việc xâm hại tình dục. Những đứa trẻ ấy không “hư” từ khi mới sinh ra. Mọi hành động của chúng đều nhằm mục đích bảo vệ chính bản thân mình. Tất cả chúng vừa đáng thương lại vừa đáng trách. Thông qua Đứa trẻ hư, tác giả Tử Kim Trần đã gióng lên một hồi chuông cảnh tình đối với toàn xã hội, nhắc nhở mỗi người lớn về trách nhiệm của mình. Hành động của mỗi đứa trẻ phần nào phản ánh nhân cách của bố mẹ chúng.  *** Năm thứ tư sau khi kết hôn, Từ Tịnh ngoại tình, đề nghị ly hôn với Trương Đông Thăng. Trương Đông Thăng vốn là người đàn ông ở rể, trước khi cưới đã làm giấy chứng minh tài sản, nếu ly hôn, gần như là ra đi tay trắng. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, anh ta quyết định làm vài việc để thay đổi kết cục này. Sau khi lên kế hoạch gần một năm, anh ta giả vờ đưa bố mẹ vợ đi du lịch, đi lên ngắm cảnh núi ở vùng ngoại ô thành phố, rồi đột ngột đẩy ngã hai người từ trên núi xuống mất mạng. Đây vốn là kế hoạch phạm tội hoàn mỹ mà anh ta đã dày công dàn dựng, nào ngờ, màn biểu diễn này lại bị ba học sinh đang nô đùa ở gần đó vô tình dùng máy ảnh quay lại, anh ta càng không thể nào biết được rằng, ba đứa trẻ này không hề lương thiện chút nào. ... Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Hư của tác giả Tử Kim Trần.
Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - Jerry Cotton
Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** Phil lái xe. Tôi ngồi bên bà Oliphant trên hàng ghế sau. Máy điện đàm được bật liên tục, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới có một thông báo liên quan đến chúng tôi. Vừa nghe xong tin Mario Aldina lái xe chở hoa đến hầm ngầm Holland thì bà Oliphant đột ngột mở miệng. - Tôi biết anh ấy đã 12 năm nay, từ khi tôi còn ở với Henry Olphant. Henry và Hugh là bạn, cho tới khi Henry và tôi ly dị. Chuyện đó xãy ra cách đây tám năm. Ngày ấy tình hình của tôi rất tồi tệ, Hugh đã quan tâm đến tôi. Anh là một người bạn thật sự. Tình yêu của chúng tôi mãi sau này mới dần dần hình thành. Mới từ ba năm nay chúng tôi mới có với nhau một … một quan hệ. Ba năm mà còn ít sao, tôi nghĩ thầm. Rồi tôi nói thành tiếng: - Nếu bà không khai ra, người ta sẽ cáo buộc bà nội trợ giúp, hay chí ít ra cũng tội biết mà không khai báo trong vụ giết Donna Hayes. Bà rõ điều đó không, bà Oliphant? Người ta sẽ buộc tội bà đã biết tất cả mọi chuyện, tất cả những gì Greenfield đã làm hay bỏ qua không làm. Bà hãy suy nghĩ kỹ! Cô ta là nữ nhân viên của một luật gia hạng nhất. Cô ta biết điều gì đang chờ phía trước va cô ta có được cơ hội nao, tùy theo việc cô ta khai ra hay im lặng. Giờ người đàn bà lại im lặng. Xe của chúng tôi lăn bánh qua Manhanttan trong đêm. Đến Phố Số 34, Phil rẽ vào Đại Lộ Số Năm, con phố cắt với đường Broadway ở quảng trường Madison. Ngôi nhà Empire State Building chọc lên trên trời cao như một ngón tay sáng rỡ. Đến quảng trường Madison, Phil rẽ theo Broadway đi về hướng Nam. Nằm bên đoạn cuối của Broadway là tòa nhà văn phòng liên bang với những phòng làm việc mới của chúng tôi và cách đó không xa là nhà ngục điều tra liên bang. BÀ Oliphant chắc sẽ được hưởng một phòng riêng. Có cả phòng tắm. Nhà ngục điều tra ở đó được trang trí nội thất rất đầy đủ. Phil nghiêng đầu khi một giọng nói vang ra từ loa: - Chiến dịch K gọi trung tâm! Chiến dịch K, đó là chúng tôi. Cùng với ba chiếc xe theo dõi Mario Aldina. George Baker là người đã đưa ra mã hiệu này. - Trung tâm nghe, - George nói. - Đi về phía phố Canal. - Rõ, - George trả lời. Phil xoay đầu về. - Bên dưới cái vỏ ngụy trang chợ hoa nửa đêm, gã có thể làm rất nhiều thứ khác, - anh nói. - Vì thế mà mình cũng đòi cho người theo dõi gã. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát của tác giả Jerry Cotton.
Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - Jerry Cotton
Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** Fu Yung cảm nhận rõ rệt ánh mắt khẩn cầu của tay cấp dưới Li Tang, nhưng hắn không nghĩ tới chuyện trả lời. Gã con trai ngồi bất động, ánh mắt trân trân hướng tới dòng Hudson trước mặt. Cả hai gã trai người Tàu đang ngồi trong một chiếc xe chở hàng loại nhỏ, nhãn Ford và màu xám, bên ngoài có sơn tên của một doanh nghiệp Tàu chuyên phụ trách việc cung cấp phụ liệu cho tàu thủy miền châu Á. Nhưng nếu có hỏi, chắc chắn người ở hãng chẳng một ai biết đến sự tồn tại của chiếc xe này. Biển số xe cũng giả tạo như hàng chữ sơn trên xe vậy. Mới 7 giờ sáng, trời đã rất oi. Ngày hôm nay sẽ còn rất nóng, sẽ còn vắt kiệt đến giọt mồ hôi cuối cùng của mỗi người dân New York. Fu Yung nhìn về hướng dãy nhà hải quan đứng cách chúng chẳng bao xa. Khu vực hoàn toàn yên ắng. Tàu Shanghai Express đã trễ quá một tiếng đồng hồ rồi. Lẽ ra nó phải có mặt ở đây từ 6 giờ, vậy mà giờ vẫn hoàn toàn chưa có một dấu hiệu gì. Suốt cả một tiếng đồng hồ ngồi chờ, hai gã trai chỉ nhìn thấy có hai con tàu kéo lầm lũi đi qua. Fu Yung vất vả chống chọi với ý muốn bước ra khỏi xe, đi về hướng dãy nhà hải quan để hỏi xem liệu họ có biết gì về Shanghai Express hay không, hoặc đi hỏi bộ phận phụ trách cảng. Một tiếng đồng hồ quả là rất dài khi người ta phải chờ đợi, nhưng mặt khác, nó lại chưa phải là khoảng thời gian đủ lớn để người ta phải thật sự lo lắng. Đúng 8 giờ, sau khi ra lệnh cho Li Tang ngồi yên tại chỗ, Fu Yung mở cửa xe ra. Hắn thong thả đi tới dãy nhà hải quan rồi bước vào phòng trước. Trong thái độ nửa khúm núm giả tạo, nửa lo lắng thật sự, hắn bước đến gần quầy gỗ. Đằng sau quầy có một công chức trung niên, anh ta đã ngẩng lên và nhìn gã chăm chú ngay từ khi Fu Yung bước qua ngưỡng cửa. — Xin lỗi quí ông, - Fu Yung thoáng tỏ vẻ cúi chào. - Chúng tôi đang chờ một con tàu từ Thượng Hải, chúng tôi có nhiệm vụ cung cấp thực phẩm và đồ dùng vật dụng cho thủy thủ đoàn. Theo lịch thì nó phải tới đây từ 6 giờ. — Con Shanghai Express phải không? ... Mời các bạn đón đọc Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster của tác giả Jerry Cotton.