Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF VIỆT HÁN TÂN TỰ ĐIỂN (1955) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Việt Hán tân tự điển được biên soạn trong bối cảnh có rất nhiều học sinh Hoa Kiều ở Sài Gòn tham gia các lớp học tiếng Việt tại trường tư thục. Cuốn sách ra đời rất hợp thời.Tuy chưa được toàn mỹ nhưng cuốn sách được soạn với rất nhiều công phu, hứa hẹn sẽ giúp học sinh Hoa Kiều hiểu thêm về tiếng Việt, cũng như việc so sánh, đối chiếu giữa hai thứ tiếng Việt và tiếng Hoa. Từ cuốn sách, người Việt cũng có thể học thêm tiếng của người Hoa.Mỗi chữ hoặc mỗi tiếng đều được giải thích bằng chữ Hán. Vì vậy, người Việt khi muốn nghiên cứu Hoa ngữ có thể dò chữ Việt để tìm ra nghĩa tương đương bằng chữ Hán.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

PDF TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC - ĐOÀN TRUNG CÒN (Trọn bộ 3 tập)
Phật học từ điển là một cuốn từ điển nổi tiếng của Đoàn Trung Còn - một cư sĩ Phật giáo và là một học giả Phật học có tiếng của Việt Nam. Trong thời gian nghiên cứu Kinh sách Phật giáo bằng chữ Pháp, chữ Hán, chữ Việt, Đoàn Trung Còn ghi chú những danh từ Phật-học theo vần A-B-C, để khi nào cần thì giở ra mà tra đặng tiện việc phiên dịch.Lần lần về sau, những danh từ ấy càng ngày càng nhiều, sự ghi chú càng ngày càng dồi dào, Đoàn Trung Còn bèn quyết định làm thành sách đặng lưu lại hận thế đề là “Phật-học từ-điển”.
Từ Điển Trái Nghĩa-Đồng Nghĩa Tiếng Việt PDF
Từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong tiếng Việt là một đề tài hết sức thú vị. Chúng ta bắt gặp chúng rất nhiều trong đời sống hàng ngày nhưng đôi khi lại lúng túng khi sử dụng. Trong kho tàng của tiếng Việt, những từ đồng nghĩa và trái nghĩa khá phong phú và đa dạng, chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi vậy để nói và viết đúng tiếng Việt không thể không tìm hiểu những từ đồng nghĩa và trái nghĩa. Đó cũng là lí do chúng tôi biên soạn cuốn “Từ điển đồng nghĩa - trái nghĩa tiếng Việt” (dành cho học sinh). Tựa đề của cuốn sách đã nói đến đối tượng chủ yếu mà chúng tôi muốn hướng đến đó là học sinh, sinh viên - những người còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Ngoài ra, cuốn từ điển này còn hướng đến đông đảo bạn đọc trong hầu khắp các lĩnh vực. Với tiêu chí dễ hiểu, tiện lợi, dễ tra cứu nên chúng tôi chỉ giải thích mọc từ một cách cô đọng và ngắn gọn nhất, các từ ngoại lai, từ cổ, từ địa phương cũng được chúng tôi mạnh dạn lược bớt.Từ Điển Trái Nghĩa-Đồng Nghĩa Tiếng ViệtNXB Giáo Dục 1994Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào209 TrangFile PDF-SCAN
PDF VIỆT NGỮ CHÍNH TẢ TỰ VỊ - LÊ NGỌC TRỤ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của giáo sư Lê Ngọc Trụ do nhà xuất bản Thanh Tân in lần đầu ở Sài Gòn năm 1959 đã đoạt giải thưởng văn chương bộ môn biên khảo.Giáo sư Lê Ngọc Trụ (1909 - 1979) là nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam. Trong gần nửa thế kỷ nghiên cứu ngôn ngữ học và văn hóa Việt Nam, ông đã đóng góp cho xã hội 5 cuốn sách, 56 bài viết về ngôn ngữ, 8 bài về sử học, viết tựa cho 5 cuốn sách, hiệu đính cho 1 bộ từ điển (Việt Nam Từ điển của Lê Văn Đức, 1970, dày trên 2.000 trang) và 12 bài báo khác.Với số lượng công trình trên, có thể nói ông là một trong những nhà ngôn ngữ học viết nhiều nhất ở nước ta vào giữa thế kỷ này. Đóng góp lớn nhất của giáo sư Lê Ngọc Trụ thuộc hai lĩnh vực chính tả và từ nguyên.  
Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt (NXB Đà Nẵng 2004) - Trần Văn Kiệm
Nhìn vào hai hàng chữ tiếng Việt, chúng ta thấy hàng chữ Quốc ngữ ngày nay trông đơn giản hơn hàng chữ Nôm mà tổ tiên chúng ta đã từng dùng rất nhiều. Nhưng hàng chữ Quốc ngữ diễn tả âm thanh hay cách phát âm của ngôn ngữ, trong khi hàng chữ Nôm cho chúng ta thấy sự diễn tả ý nghĩa (tượng hình) của ngôn ngữ. Đó là hai đặc điểm khác biệt cơ bản nhất của hệ thống chữ La Tinh (biểu âm) và hệ thống chữ Hán (biểu hình). Ngày nay, sau hơn một thế kỷ chúng ta chính thức dùng chữ Quốc ngữ (hệ thống phiên âm chữ La tinh) để viết tiếng Việt thay thế hoàn toàn cho hệ chữ Hán Nôm, chữ viết của chúng ta trở thành chữ viết rất dễ nhớ và dễ học. Tuy nhiên chính việc dùng chữ Quốc ngữ và ngừng dạy chữ Hán Nôm sau một khoảng thời gian dài đã càng làm cho tiếng Việt của chúng ta ngày càng xa rời cội nguồn của nó. Tiếng Việt của chúng ta có cội nguồn từ hệ thống chữ viết tượng hình nằm trong khối Hán văn (bao gồm Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên và Việt Nam), và cũng là một thứ ngôn ngữ có khá nhiều từ đồng âm dị nghĩa mà vốn dĩ trước kia chúng ta dùng hệ thống chữ Hán Nôm để phân biệt. Ngày nay dùng chữ Quốc ngữ, sự phân biệt này thường thông qua văn cảnh. Tuy nhiên, nếu so sánh với nguồn gốc của từ ngữ trong tiếng Việt thì chúng ta có thể liệt kê ra nhiều từ được viết bằng chữ Quốc ngữ được hiểu sai và dùng sai, và khi dùng nhiều trở thành thông dụng và đương nhiên những từ sai cũng được chấp nhận và đưa vào trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện đại. Hệ thống chữ Hán là chữ tượng hình dùng để viết lên thứ ngôn ngữ theo lối diễn tả hình tượng và ý nghĩa. Trong khi hệ thống chữ viết theo mẫu tự La Tinh biểu diễn âm thanh, qua âm thanh chúng ta mới hiểu được ý nghĩa. Theo tôi nghĩ, mỗi một thứ chữ viết có những ưu nhược điểm khác nhau. Nếu chữ viết của chúng ta ngày nay dùng hệ phiên âm chữ La tinh có ưu điểm là dễ nhớ dễ học, nhưng lại có nhược điểm là chỉ nhằm cấu tạo phần âm thanh mà không làm nổi bật được đặc tính cấu tạo hình ảnh và nghĩa. Còn chữ Hán, và chữ Nôm của Việt Nam, tuy phức tạp nhưng lại diễn tả được phần nghĩa và giải quyết được phần lớn hiện tượng các từ đồng âm dị nghĩa vốn có rất nhiều trong ngữ vựng của các ngôn ngữ khối Hán văn.Giúp Đọc Nôm Và Hán ViệtNXB Đà Nẵng 2004Trần Văn Kiệm918 TrangFile PDF-SCAN