Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma

Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường đặt ra và gây được ấn tượng ở các vấn đề chìm và nổi, ở bề mặt và bề sâu trong sự đan xen giữa nền nếp ý thức và sinh hoạt tinh thần ở nông thôn nói chung, trong những người nông dân nói riêng; các vấn đề gia tộc và dòng họ; hôn nhân và gia đình; các quan hệ làng xã và lề thói nông xã... Không chỉ là chất thơ mà còn là bi kịch, và là những bi kịch gọi nhau. Không chỉ những con người nhân danh đủ dạng trong thế bài trừ tiêu diệt lẫn nhau mà còn là đủ những người dị dạng bị đẩy ra hoặc hút vào những giao tranh quyết liệt đó. Tóm lại đó là nông thôn trong một tổng chân dung những con người vừa là tội nhân vừa là nạn nhân, mà lịch sử đang giao cho họ một trách nhiệm có lẽ là quá lớn, quá tầm của họ; nhưng lại không thể chuyển cho ai khác, vì nói như Ăng-ghen, vẫn phải rđặt lên vai những con người do lịch sử để lại... Tuy vậy, truyện không làm cho người đọc bi quan. Có thể do giọng điệu hài hước của tác phẩm. Có thể do kết thúc sáng sủa của câu chuyện tình, sự thức tỉnh của chiến thắng của cá nhân và hạnh phúc cá nhân trước uy quyền dòng họ. Nhưng chủ yếu có lẽ là ở chỗ tác phẩm cho người ta nghe thấy tiếng dội của một thời đại mới đang vang động từ trong hậu trường: nhân dân đang thực hiện quyền dân chủ của mình. Âm khí còn nặng nề nhưng dương khí đã bắt đầu phát triển. Thế giới ma quỷ đã rơi vào khủng hoảng dữ dội để tự huỷ diệt do những xung đột của chính bản thân nó. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc miêu tả mối quan hệ dòng họ, nhưng những trang tâm đắc nhất hình như không ngoài việc miêu tả ấy. Một văn phong mang dáng dấp của Tắt đèn, từ cách lựa chọn thời gian để biểu đạt (thời kỳ giáp hạt ở nông thôn luôn mang ý nghĩa điển hình), đến số phận của bà Son, cô Đào, lão Quềnh... Nhưng nét hiện đại đã chen vào trong câu văn của Mảnh đất lắm người nhiều ma. Từ sử dụng độc đáo và đích đáng các khẩu ngữ, thành ngữ, đến việc ẩn giấu, lẩn quẩn một giọng điệu bi hài để soi xét và nghiền ngẫm tận tâm can con người. Trang viết của Nguyễn Khắc Trường, vì vậy quánh đặc hệt như một thứ nước cốt mà ai đó, những nhà văn ít tài năng có thể pha loãng ra làm văn của mình. *** Trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma nhân vật dường như tự bộc bạch nỗi lòng của mình mà không cần đến sự khơi gợi hay thúc ép của tác giả.Tất cả những tình huống bi kịch trong tiểu thuyết được tác giả giải thích dưới hình thức châm biếm, hài hước. Đằng sau giọng điệu cười đùa bỡn cợt là một tấm lòng yêu thương ưu ái với đời. Đọc những dòng viết về lão Quềnh bị chôn lần thứ hai, bạn không khỏi thấy đau đớn “lão phải hy sinh một lần nữa để cứu danh dự cho người khác đấy”. Mỗi một nhân vật của Nguyễn Khắc Trường đều có một cá tính riêng biệt độc đáo không giống bất cứ ai, không trùng lặp. Mưu mô thủ đoạn như Thủ, Phúc, láu lỉnh cơ hội như Sửu, nhu nhược cả tin như Son, mạnh mẽ, quyết liệt, bộc trực như Đào, Tùng, Minh... tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống của những người dân quê. Bên trong những con người dân quê đó, bên cái phần người là phần ma, ma quỷ ám ảnh cuộc sống con người. Nó chi phối làm tê liệt các giác quan khỏe khoắn của biết bao người về cuộc sống. Nhiều đoạn văn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma sắc lạnh gây một cảm giác rờn rợn khi đọc.Giá trị thẩm mỹ cao nhất của tác phẩm văn học là hình tượng nghệ thuật. Tác giả Nguyễn Khắc Tường đã góp phần vào cho nền tiểu thuyết hôm nay những hình tượng nhân vật mang giá trị thẩm mỹ giáo dục sâu sắc. *** Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa. Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên. Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh đời. Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu phong và cổ kính. ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngật, người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì, cá chép cả con còn giãy đành đạch. Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà, thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba, rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng tối. Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng choé cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng, răng đen,khăn mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối đầu, chín đỏ lìm lịm. Khối người còn rỉ tai là ông có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe loé ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì, hãi thế! Mời các bạn đón đọc Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma của tác giả Nguyễn Khắc Trường.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Lít Nước Mắt - Kito Aya
“Hãy sống! Mình muốn hít thở thật sâu dưới trời xanh.”   Một tâm hồn nhạy cảm. Một gia đình ấm áp. Một căn bệnh hiểm nghèo. Một cơ thể tật nguyền.   Đó là những gì Kito Aya có trong hơn 20 năm cuộc đời. Với Aya, tương lai của cô là một con đường hẹp, và càng ngày nó càng trở nên hẹp hơn. Căn bệnh ngăn trở Aya khỏi tất cả những ước mơ và dự định, thậm chí việc tự mình bước ra ngoài phố để đi tới hiệu sách cũng trở thành một khao khát cháy bỏng. Hơn 6 năm kiên trì viết nhật ký, cô kể về những cảm nhận và suy tư của bản thân trong suốt quãng thời gian chứng kiến cơ thể mình từng bước từng bước gánh lấy một số phận đau đớn. Nhưng từ trong nước mắt và tật nguyền, cuộc tìm kiếm giá trị bản thân của cô đã làm rúng động cả Nhật Bản.   “Có những người mà sự tồn tại của họ giống như không khí, êm dịu, nhẹ nhàng, chỉ khi họ mất đi người ta mới nhận ra họ quan trọng nhường nào. Mình muốn trở thành một sự tồn tại như thế.” — Trích Một lít nước mắt *** Bước vào tuổi 15, một căn bệnh mang tên Thoái hóa tiểu não (Spinocerebellar Atrophy) bỗng giáng xuống đầu Kitou Aya (19/07/1962 – 23/05/1988). Căn bệnh phát triển khiến Aya dần mất đi khả năng kiểm soát cơ thể. Theo thời gian Aya phải ngồi xe lăn, không phát âm được như ý muốn, không thể cầm đũa, rồi cuối cùng là nằm liệt giường. Aya kể lại cuộc chiến dai dẳng hàng năm trời với căn bệnh hiểm nghèo qua những dòng nhật ký đẫm nước mắt. Năm 1986, nhật ký của Aya lần đầu được phát hành thành sách với tên gọi Một lít nước mắt, được dựng thành phim hai lần, và khiến hàng triệu người xem cảm động rơi lệ. Từ đó đến nay chỉ riêng ở Nhật Bản cuốn sách đã bán được hơn 1.1 triệu bản.   “Vấp ngã ư? Chẳng vấn đề. Dù thế nào ta vẫn có thể đứng lên. Lúc vấp ngã hãy ngước lên nhìn trời kia. Bầu trời xanh bao la ngút ngàn tầm mắt. Có thấy nó đang mỉm cười với bạn không? Bạn đang còn sống.” Mời các bạn đón đọc Một Lít Nước Mắt của tác giả Kito Aya.
Trường Trung Học Avalon - Meg Cabot
Học sinh mới Elaine ‘Ellie’ Harrison không thể tin được vận may sững sờ của mình! Hội trưởng hội học sinh năm cuối kiêm ngôi sao tiền vệ và cũng là một chàng đẹp trai tuyệt vời, A.Will Wagner lại quan tâm đặc biệt tới cô. Bất ngờ hơn nữa, có vẻ như anh chàng hấp dẫn chết người này lại đang hẹn hò với đội trưởng đội cổ vũ xinh đẹp choáng váng, Jennifer Gold. Ellie chỉ biết rằng, Will nói với cô, “Tôi cảm thấy chúng ta đã từng gặp nhau trong kiếp trước”. Rõ ràng, huyền thoại về Camelot vẫn còn tồn tại! Sự tương đồng kỳ lạ giữa cuộc sống hiện tại của họ và những huyền thoại thời Arthur khiến một Ellie hoài nghi phải chấp nhận sự thực rằng Vua Arthur cổ xưa đã tái sinh thành Will Wagner. Như thế vẫn chưa đủ kỳ lạ, Ellie còn được cho là “Elaine xứ Astolat”, tái sinh!!! Trường Trung học Avalon dường như tập hợp đầy những nhân vật lịch sử và sự trùng hợp ngỡ ngàng. Và khi các thế lực bóng tối trỗi dậy lần nữa để hủy diệt Vua Arthur, Ellie phát hiện ra rằng chính mình đang liều mạng đâm đầu vào những mưu mô lắt léo và tình huống hiểm nguy. Sự pha trộn huyền ảo giữa ma thuật thời trung cổ với tuổi trẻ hiện đại, Trường Trung học Avalon là một tập hợp những bất ngờ thán phục, mở ra một cái nhìn mới đầy hấp dẫn về cuộc đời và thời đại của một trong những vị vua gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử… Arthur Pendragon. Mời các bạn đón đọc Trường Trung Học Avalon của tác giả Meg Cabot.
Cô Gái Đồng Trinh và Chàng Du Tử - D. H. Lawrence
Cô gái đồng trinh và chàng du tử là một tiểu thuyết ngắn rực rỡ, mãnh liệt. Nó thức tỉnh niềm đam mê, tình yêu và tự do. Ðó là cuộc thức tỉnh của nàng Yvette. Nàng sống trong nhà đạo của người cha mục sư. Nhưng đời sống thì ở bên ngoài. Mà đời sống thì khác, “tựa như một mặt trời quay nhanh và nguy hiểm” Một khát vọng thoát ly. Một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa nàng và chàng du mục. Rồi cơn lũ ập đến. Ðến từ dòng sông. Ðến từ đời sống. Ðến từ tâm hồn nàng. Cơn lũ có sức mạnh hủy diệt. Cuốn phăng tòa nhà đạo. Nàng đối mặt với Nước, với Ðời, với Du Tử. Yvette ơi, nàng hãy sống! ***   David Herbert Lawrence (1885-1930) là một trong vài biểu tượng có ý nghĩa nhất trong văn học thế kỷ hai mươi. Ông đem đến cho văn học Anh và thế giới một cái nhìn mới về bản năng, thân xác và tình yêu, kể cả một cái nhìn mới về tiểu thuyết. Con trai và Người tình, Công Chúa, Cầu vồng, Người đàn bà đang yêu, Con rắn có lông, Người tình của phu nhân Chatterley Ông cũng viết nhiều truyện ngắn độc đáo, làm thơ và vẽ tranh. Lawrence nhìn tiểu thuyết như thế này“Tiểu thuyết là một khám phá vĩ đại… Tiểu thuyết là hình thức biểu hiện cao nhất mà con người có thể đạt tới. Tại sao? Bởi vì nó không thể tuyệt đối. Trong tiểu thuyết, mọi điều thì tương đối đối với mọi điều khác, nếu như tiểu thuyết đó ít ra là nghệ thuật. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đồng Trinh và Chàng Du Tử của tác giả D. H. Lawrence.
Dịch Hạch - Albert Camus
Anbe Camuy (bút danh: Albert Camus - 1913 - 1960) là một trong những tên tuổi nổi bật trên văn đàn Pháp trong những thập kỷ giữa và sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tác phẩm của Camuy - tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, tùy bút và tiểu luận - gây nên những cuộc tranh luận sôi nổi ở Pháp và nhiều nước trên thế giới. Camuy được giải thưởng Noben về văn học năm 1957 vì sáng tác văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”. Trong số những tác phẩm của ông, cuốn tiểu thuyết “Dịch Hạch” (La Peste) được đánh giá cao hơn cả. Nội dung tác phẩm là nạn dịch hạch và cuộc chiến đấu thầm lặng, cực kỳ gian khổ để dập tắt nạn dịch, cứu sống thành phố Orăng trên bờ biển Angiêri. Thành phố đang sống thanh bình thì bỗng những con chuột lăn ra chết ở khắp nơi. Rồi đến một người, hai người, hàng chục, hàng trăm người bị chết. Orăng biến thành một địa ngục khủng khiếp, quằn quại trong nguy cơ bị diệt vong như bao thành phố trước kia ở châu Âu, châu Á, châu Phi. Giữa cái không khí chết chóc bi thảm ấy và bất chấp hiểm họa bị lây nhiễm, bác sĩ Riơ - nhân vật chính diện và trung tâm quán xuyến toàn bộ tác phẩm - cùng đồng nghiệp và bạn bè lao vào cuộc chiến đấu để cứu vớt nhân dân thành phố. Theo ông, chỉ có cách là dấn mình vào cuộc, cầm lấy vũ khí để đấu tranh, ngăn chặn, vì… “nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng hèn nhát mới cam chịu buông tay trước dịch hạch”. Thái độ ông thật rõ ràng. Ông khẳng định khi có người bệnh thì cấp bách hơn hết là chữa bệnh cho họ. “Sức lực tôi đến đâu thì tôi bảo vệ họ đến đó…”. Và chính trong lúc vợ ông ốm đau đang đi điều dưỡng ở xa - và sau này chết mà ông không được gặp, - ông tổ chức việc cứu chữa những người bị dịch hạch và tự bản thân mình, tự hai bàn tay mình, làm phẫu thuật cho biết bao người bệnh. Để cứu sống họ, ông không tiếc công sức, hạnh phúc và cả tính mệnh. Lời nói và việc làm của Riơ thuyết phục và thu phục nhiều người khác. Trong đó đáng lưu ý hơn cả là nhà báo Rămbe và linh mục Panơlu. Rămbe đến Orăng với nhiệm vụ điều tra về đời sống của người Arập cho một tờ báo lớn ở Pari. Thế là anh bị mắc kẹt từ khi có lệnh đóng cửa thành phố vì dịch hạch. Anh làm mọi cuộc vận động để ra khỏi thành phố, trở về với người yêu đang ngày đêm mong ngóng. Nhưng đến khi có người thu xếp để anh ra về thì anh tình nguyện ở lại và trực tiếp tham gia cứu chữa người bệnh. Trở về với người thân là niềm hạnh phúc chính đáng, nhưng anh khước từ, vì như anh nói với Riơ: “Hưởng hạnh phúc lấy một mình thì thật đáng hổ thẹn”. Đặc biệt hơn nữa là trường hợp Panơlu. Giữa lúc dịch bệnh đang hoành hành, gieo rắc chết chóc và đau thương, thì Panơlu giảng cho con chiên phải yên lòng đón nhận lấy “sự trừng phạt” và “cơn giận” bất thần của Chúa để chóng được trở về với Chúa. Nhưng tấm gương hy sinh, tận tụy của Riơ, của Rămbe và của những người khác đã cảm hóa ông, nhất là sau khi ông chứng kiến cái chết thảm thương của một đứa trẻ bị dịch hạch. Trong một buổi cầu kinh thứ hai, khi nói với các tín đồ, ông dùng đại từ xưng hô “chúng ta” thay thế cho “các con” trước kia và nắm tay lại đấm mạnh vào mặt bàn, thiết tha kêu gọi: “Hỡi những người anh em, chúng ta phải là những người ở lại!”. Bản thân ông cũng tự nguyện xung vào đội cứu chữa, cuối cùng lây bệnh và chết. Cùng với Riơ, nổi bật trong tác phẩm là hình tượng Taru, một trí thức căm ghét xã hội, căm ghét bạo lực tư sản với những bản án tử hình ngàn lần đáng nguyền rủa. Là con trai một phó tổng chưởng lý, - người quyết hướng con đi theo sự nghiệp của mình - Taru đã bỏ nhà và từ giã cuộc sống nhung lụa của một gia đình quyền quý ra đi sau khi nghe những lời buộc tội độc ác của cha anh và chứng kiến tòa án kết tội tử hình bị cáo. Anh lưu lạc ở nhiều nước, tham gia nhiều cuộc chiến đấu. Trước nạn dịch hạch hoành hành, anh sốt sắng tự nguyện tổ chức những đội y tế, cùng với Riơ lao vào cuộc chiến đấu một mất một còn với vi trùng dịch bệnh. Mục đích của anh, tâm niệm của anh là sống vì con người, cho con người. Anh cho xã hội anh đang sống là một xã hội “dựa trên sự kết án tử tình”, và chiến đấu chống lại xã hội ấy, anh “chiến đấu chống lại sự giết người”. *** DỊCH HẠCH là một cuốn tiểu thuyết biểu tượng. Thông qua hình tượng nhân vật, hành vi và nhất là tâm tư cùng ngôn ngữ của họ, người đọc dễ dàng cảm nhận chiều sâu tác phẩm và ý định tác giả là phủ định chiến tranh và bạo lực, khẳng định ý chí chiến đấu chống tai họa đe dọa cuộc sống con người. Tác giả xây dựng một loạt nhân vật tích cực tuy đường đi nước bước có khác nhau nhưng cuối cùng đều tự nguyện xông vào trận tuyến chiến đấu chống dịch hạch, đem lại cuộc sống yên lành cho con người, trả lại hòa bình cho xã hội. Trong lúc một số người cho là làm gì cũng vô ích, chỉ nên quỳ gối cầu xin Thượng đế, thì Riơ, Taru và bè bạn đều khẳng định là phải chiến đấu bằng cách này hay cách khác, chứ không quỳ gối: “Toàn bộ vấn đề là ra sức ngăn cản không để người ta chết và vĩnh viễn xa nhau. Muốn vậy, chỉ có một cách duy nhất là chống lại dịch hạch”. Tinh thần cảnh giác toát ra từ tác phẩm cũng đầy ý nghĩa. Giữa tiếng nói cười hân hoan, rộn ràng của những người thoát dịch bênh, bác sĩ Riơ vẫn nghĩ đám người đang hò reo đó không biết rằng “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có thể nằm yên hàng chục năm trong đồ đạc, áo quần, chăn chiếu…; nó kiên nhẫn đợi chờ trong các căn buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng… và một ngày nào đó, để gây tai họa và dạy cho họ bài học, dịch hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra chết ở một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh. Tác giả mượn lời kể của bác sĩ Riơ để “tỏ rõ thiện chí” của mình “đối với các nạn nhân dịch hạch, để ghi lại ít nhất là một dấu vết của bất công và bạo lực, và nói lên cái bài học rút ra được giữa lúc gặp tai hoạ là trong loài người có nhiều điều đáng khâm phục hơn là cái đáng khinh ghét”. Rõ ràng nhân vật trung tâm của tác phẩm - bác sĩ Riơ - tượng trưng cho những con người kháng chiến, những con người hành động. Riơ mang hơi hướng của những năm kháng chiến chống phát xít Đức mà chính Anbe Camuy đã tích cực tham gia. Và tác giả đã thành công trong việc xây dưng nhân vật này để thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm: chiến đấu chống tội ác, chống khủng bố, chống chết chóc vì hạnh phúc và cuộc sống hòa bình của con người. Mời các bạn đón đọc Dịch Hạch của tác giả Albert Camus.