Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bà Chúa Hòn

Cuốn tiểu thuyết Bà Chúa Hòn mang màu sắc lịch sử và không khí miệt vườn Lối dẫn dắt tự nhiên, ngôn ngữ mộc mạc đậm chất Nam Bộ Không chỉ mang giá trị nghệ thuật, tác phẩm còn là những bài học sâu sắc về tình người *** Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng. - Ngày mai cho con ra ruộng nghe ba! Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái đĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Cuốn tiểu thuyết  "Bà chúa hòn"  bắt đầu như thế với nhân vật cô bé tên Huôi. Số phận đã sắp đặt cho cô, khi lớn lên, sẽ trở thành bà chúa Hòn. Hòn Chông là dãy đồi thấy, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chái lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi lớn nhất vẫn là nghề trồng hồ tiêu. Ông Xìn Phóc là người Triều Châu lai Cao Miên, trở thành ông Chúa Hòn đầu tiên, sau khi ông chết, người kế vị là con trai ông, Hai Minh. Bá Vạn là người nắm giữ sổ sách thu chi cho Hai Minh. Ông này là người Triều Châu lai Việt Nam, tuổi chừng 60, lắm mưu nhiều kế, có ý định giết ông Chúa Hòn, lật con bà cả để dành tất cả tài sản về tay mình. Mười mấy năm trôi qua, nay Huôi đã trở thành hoa khôi trong vùng, xinh đẹp tuyệt trần, vóc dáng cao ráo, nước da trắng mịn, trán cao, môi đỏ như thoa son... Bá Vạn muốn mượn sắc đẹp của Huôi để lung lạc ông Chúa Hòn... *** Sơn Nam  (1926 - 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, ông là người thành công ở nhiều lĩnh vực: lĩnh vực nghiên cứu, ông có nhiều biên khảo công phu, khoa học, khoảng 20 tác phẩm. Có những tác phẩm rất có giá trị cho việc tìm hiểu về vùng đất Nam Bộ, như: “Ấn tượng 300 năm, Bến Nghé xưa, Cá tính miền Nam, Danh thắng miền Nam, Đất Gia Định xưa, Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa, Giới thiệu Sài Gòn xưa, Lịch sử An Giang, Lịch sự khẩn hoang miền Nam, Người Sài Gòn... “Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam nhưng tác phẩm vẫn được in liền mạch sau giải phóng, điều đó không phải dễ. Trước hết, tác phẩm của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là rất cao tay. Có lần người viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu mà tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và nếu là truyện thì đi vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc...” *** HÀ TIÊN LÀ TỈNH XA XUÔI NHỨT của miền Nam thời xưa cũng như thời nay nếu ta lấy Huế hoặc Saigon làm tiêu chuẩn. Khác với vùng sình lầy mũi Cà Mau, Hà Tiên có khung cảnh khá ngoạn mục, trong đất liền là đồi núi trùng điệp, ngoài biển là năm bảy chu4c hải đảo lớn nhỏ, Hà Tiên còn là nơi ‘‘ba biên giới’’ :Việt Nam, Cao Miên và vượt qua eo biển là đến Thái Lan . Mỗi ngọn đồi, mỗi hải đảo đều có một ông Chúa hay bà Chúa thống trị, khi chết, các ông bà này được tôn thờ trong miếu nhỏ, giống như trường hợp mấy ông Thành Hoàng. Lẽ dĩ nhiên các ông bà đều là người phàm mắt thịt, nhờ mưu mô, nhờ tài kinh doanh mà gây được thế lực với đám dân chúng ở xung quanh. Vài ông bà Chúa nếu còn sống đến năm nay chỉ độ non trăm tuổi, bởi vậy thành tích của họ còn được nhắc nhở tỉ mỉ với bao nhiêu tánh tốt và thói xấu. Chúng tôi xin thuật lại những giai đoạn gay cấn và thơ mộng nhứt của bà chúa hòn Me, một ngọn đồi nhỏ dính vào đất liền sát mé biển phía Bắc chợ Rạch Giá. Trước kia, bà là con gái một nông dân nghèo tên là Tư Thính, có lẽ họ Huỳnh ; Tư Thính cất căn nhà nhỏ ở chân đồi, giữa tư bề rừng rậm. Như đã nói, hòn Me xưa kia là hải đảo, đất phù sa lấn ra biển, nối hòn vào đất liền. Vùng chung quanh hòn quá ẩm thấp chịu ảnh hưởng nước mặn ngoài biển tràn vào nên cây cối mọc xơ rơ. Hằng năm, Tư Thính cày chừng một mẫu ruộng, kiếm chút ít lúa gạo đủ ăn trong gia đình. Buổi chiều đầu mùa mưa, cảnh vật buồn bã làm sao! Ếch nhái kêu vang bên chòi, trong bóng tối chập chờn, xa lắm qua rặng cây tràm mới thấy vài ánh đèn. Ở trên hòn là đói, khó cày cấy trồng tỉa. Bởi vậy Tư Thính đến tận vùng sình lầy mà chịu đựng muỗi mòng. – Ngày mai, cho con ra ruộng nghe ba! Tư Thính day lại. Đứa con gái vừa lên tám tuổi bưng chén cơm đến gần. Chú vuốt tóc con, bùi ngùi thương xót. Mẹ nó mất hồi năm ngoái. Ngày nào cũng, vậy, trước khi ra ruộng, chú bới sẵn chén cơm, gắp khứa cá để trong cái dĩa nhỏ. Khi thức dậy, đứa con ăn cơm một mình rồi ra ngồi ở góc sân, trông ra ruộng. Chú từ chối khéo léo: – Con ở nhà, ra ruộng nắng lắm. Nhưng bé Huôi vịn vai chú, nói thật nhanh: – Ngoài ruộng có cây thị, bóng mát. Nghe qua, chú Tư Thính giựt mình. Đành rằng đến tám chín tuổi thì đứa bé có chút ít trí khôn, ghi nhớ những gì mà người lớn thường nói nhiều lần. Tại sao bé Huôi biết ở ngoài ruộng có một cây thị, cây ấy to lắm, ở xa nhà, bé Huôi chưa ra tới đó lần nào? Hồi năm ngoái trái thị sai quằn, chú với tay hái năm sáu trái đem về nhà cho bé Huôi, trái thị mầu vàng da láng tỏa ra mùi thơm kỳ diệu mà nhiều người cho rằng có thể quyến rủ ma quỉ hoặc thần thánh. Chú Tư Thính hơi e ngại: – Mùa nầy thị chưa có trái. Ra đó, làm sao con ngủ trưa? Bé Huôi nói rành rọt như người lớn. – Con đội nón, ngồi dựa vô gốc cây. Vì không muốn quở mắng vô lý đứa con thân yêu, Tư Thính tìm cách từ chối: – Bữa nào rảnh, ba cho con ra ruộng. Ngoài đó muỗi mòng, đủ thứ kiến lửa, kiến vàng. Lâu lâu, vài con rắn bò ra… Bé Huôi cười dòn: – Con đâu sợ rắn. Ba hứa lâu rồi. Ngày mai, con ra ruộng mới được. Ba không bồng con thì con đi một mình. Gương mặt bé Huôi lúc bấy giờ trông thật dễ thương, mà cũng dễ sợ. Mắt nó sáng lên, hai tròng mắt đen lánh, hàm răng đều đặn, chói màu trắng ngà. Tư Thính ngỡ rằng người khuất mặt đã thúc giục bé Huôi nói những câu quá khôn ngoan, dành riêng cho mấy đứa bé ít lắm là mười bốn, mười lăm tuổi. Chú đốt đèn lên. Bé Huôi nghiêm nét mặt, đôi môi ửng đỏ như tô son. Chú Tư Thính nhìn kỹ đứa con gái rồi tự trấn an: “Lớn lên, nó xinh đẹp nhứt làng nầy. Con nít khôn trước tuổi là sự thường”. Bé Huôi ngáp dài: – Con muốn đi ngủ, sáng mai con ra ngoài gốc cây thị để coi ba cày ruộng. Ngoài đó vui lắm. Hôm sau, Tư Thính cố ý thức thật trể. Chú vác cày trên vai, cho đôi trâu đi trước, bé Huôi lững thững theo sau, đến gốc cây thị, nó ngồi xuống. Mặt trời lên cao, chưa chi, chú đã đổ mồ hôi lưng, bao nhiêu ý nghĩ đen tối hồi chiều hôm qua đều tan biến. Chú được yên tâm vì bé Huôi đã dựa lưng vào gốc cây thị. Nó nằm yên, như đã ngủ. Đôi trâu đi tới rồi đi lui, được ba rồi đến bốn, năm, sáu, bảy luống cày. Trong khi đó, từ dưới hang sâu bên gốc cây thị, một con rắn hổ to tướng bò lên. Rắn quấn mình chung quanh bụng bé Huôi, quấn một vòng, hai vòng, ba vòng rồi đến bốn vòng. Sau rốt, rắn ngẫng cổ lên, cao khỏi đầu bé Huôi. Rắn quơ đầu, hất mạnh cái nón lá trên đầu con bé rồi nghiêng cổ tới, im lìm. Đột nhiên Tư Thính giựt mình. Đôi trâu đứng lại, không chịu bước tới. Chú quơ roi quất mạnh: – Xe! Pháo! Hai con trâu Xe và Pháo rống lên quậy chân sau xuống bùn. Cả hai day mặt về phía Tư Thính, mắt trợn tròn như giận dữ. Tư Thính hỏi: – Điên rồi sao chớ? Cái gì? Nhưng đôi trâu dường như nhìn xéo về gốc cây thị. Tư Thính chợt nhớ tới bé Huôi. Chú trố mắt: – Trời ơi! Rắn quấn con tôi! Rồi bỏ đôi trâu, chú cố gắng chạy đến gò đất. Chú lê lết như có sức mạnh nào níu đôi chân trở lại. Bé Huôi vẫn ngồi yên, con rắn hổ quá to, nào kém gì con trăn. Kỳ dị nhứt là cái đầu rắn, cái đầu vươn lên nghiêng tới như cố ý che nắng cho bé Huôi. Vì sợ con rắn nọ siết chặt khiến bé Huôi nghẹt thở hoặc gãy xương ngực, chú đành liều bước đến gần với dụng ý xua đuổi con rắn, nếu cần, chú sẵn sàng chịu chết thay con. Con rắn nọ day mỏ về phía Tư Thính. Dưới ánh nắng tỏ rõ buổi trưa, chú thấy nó trợn mắt, mớ vảy lấp lánh như hàng trăm miếng kiếng màu xanh đậm. Nó hạ cái đầu xuống rồi từ từ tháo ra. Trong lúc ấy, Bé Huôi vẫn ngồi xếp bằng, xuôi tay. Khi rắn tháo mình đến vòng chót, Tư Thính chẳng còn kiên nhẫn được nữa. Chú la lớn: – Con ơi, chạy cho mau! Nhưng Tư Thính không đủ can đảm và không còn đường nào để chạy. Nhanh như cơn gió lốc, con rắn to tướng nó phóng ngang mặt chú, như để chận đường. Chú té quị xuống bùn rồi lồm cồm đứng dậy, vuốt mặt. Bé Huôi từ từ cựa quậy: – Ba! Sao ba té? Chú mừng quýnh vì đứa con thân yêu vẫn mạnh khỏe và tỉnh táo. Để vững bụng hơn, chú hỏi đôi ba lượt: – Con! Biết ba đây là ai không? Tay chú véo mạnh vào lưng bé Huôi, miệng nói lia lia: – Con có đau không? Con thức hay ngủ? Bé từ từ đứng dậy, đôi môi đỏ thắm hé nụ cười: – Ba nói, con tức cười quá… Nhưng Tư Thính cứ tiếp tục mở nút áo đứa con gái, xem kỹ làn da. Bấy lâu chú nghe đồn đãi rằng rắn hổ có hơi độc từ trong miệng phun ra. Bé Huôi nói: – Đói bụng rồi, về nhà ba nấu cơm cho con ăn nghe ba. Lập lức chú cõng đứa bé sau lưng, bước nhanh về căn chòi, hai con trâu rống lên, kéo mạnh cái cày vô chủ. Mâm cơm dọn ra, chú ăn sơ sài vài miếng rồi tháo ách cho đôi trâu vào chuồng. Con rắn to tướng ấy là điềm lạ, chưa biết lành dữ thế nào. Chú muốn gặp ông đạo Đất ở trong cốc phía Đông hòn Me để nhờ giải đáp. Bé Huôi lại đòi ngủ. Chú khuyên lơn: – Con đi xóm với ba, nghe con? – Con muốn ở nhà. – Rủi con rắn tới đây thì ai cứu con? Ba cõng trên vai, con cứ ngủ. Phải con ở nhà thì nãy giờ ba cày xong công ruộng rồi. Từ rày về sau, con đừng đòi ra gốc cây thị nữa. Bé Huôi trả lời: – Hồi nãy đâu phải con rắn! Cốc của ông đạo Đất hiện ra. Đó là cái chòi nhỏ bé lợp bằng tranh. Theo chữ nho, cốc là hang đá. Vùng Hòn Me thiếu những hang đá thiên nhiên. Đá xanh mọc nhô ra từng tảng lớn chỉ vừa cho đôi người ngồi núp mưa nắng mà thôi. Mùa mưa đến, nước chảy tuôn tràn, thỉnh thoảng mấy tảng đá sụp xuống, mang theo mấy giề đất sỏi. Mấy ông lên non tầm đạo vì không tìm được cái hang thiên tạo nên cất tạm căn chòi nhỏ bằng cây. Gọi cốc cho có vẻ huyền bí của một đạo sĩ tu tiên. Ông đạo Đất gây được khá nhiều uy tín nhờ tài trị bịnh. Bất cứ bịnh nhân nào đến, ông cũng hốt cho một mớ đất để làm thuốc: bỏ cục đất trong một cái túi nhỏ, đeo dưới ngực để trị bịnh tà ma, đem cục đất nướng cho dòn rồi tán nhỏ, uống với nước nóng để trị bịnh ăn uống khó tiêu, đau bao tử. Gặp trường hợp trặc chân gãy tay, ông đạo vẫn dùng đất sét mà bó rịt vết thương. Tư Thính giữ thái độ im lặng kính cẩn khi đến cốc. Ông đạo nằm dài trên nền đất, không trải chiếu đắp mền gì cả. Khi Tư Thính lên tiếng: – Kinh chào thầy…. Ông đạo vẫn lim dim, hồi lâu mới chịu gật đầu. Bé Huôi nói khá to, phá rối sư yên tĩnh: – Ở đây buồn quá, ba ơi! Con muốn về nhà. Ông đạo Đất lồm cồm ngồi dậy, nhìn bé Huôi. Tư Thính bèn lên tiếng như để biện hộ cho đứa con: – Nó còn nhỏ, thầy tha thứ cho. Mấy ngày rày nó nói bậy bạ, lại xảy ra vài điều lạ. Bởi vậy tôi tới đây nhờ thầy giúp giùm. Sau khi sờ tay lên trán bé Huôi, ông Đạo nói: – Cháu nó vui chơi nhưng mà cặp mắt hơi khác thường. Không đợi Tư Thính trả lời, ông Đạo nói giọng bí mật: – Chắc là vừa xẩy ra chuyện gì xúc phạm tới…đất! ‘‘ Xúc phạm tới đất’’ là lời nói mà ông Đạo thốt ra trước tiên, khi gặp bất cứ bệnh nhân nào. Vì quá tin tưởng nên ai nấy đều nhìn nhận rằng ông nói đúng: đau bụng, trúng thực đều do sự ăn uống, thức ăn vẫn là cơm gạo, thịt cá, những món từ đất mọc lên, hoặc đứng trên đất, cảm mạo là do hơi đất ẩm ướt gây ra… Tư Thính nói: – Thầy ở trong cốc mà nói chuyện ngoài đời quá đúng. Vậy thì điềm lúc nãy tốt hay xấu đối với gia đình tôi? Con gái tôi sau nầy ra sao? – Điềm gì? Cứ nói đầu đuôi tự sự. Tôi thấy nó… ngồi trên đất, thiệt là lạ lùng, chú nói trước, tôi nói sau. – Dạ, nó ngồi trên mô đất cao, ỏ gốc cây thị ngoài ruộng. Tôi lo cày nên không chú ý, dè đâu… Thế là Tư Thính thuật lại tất cả chi tiết với sự tưởng tượng khá dồi dào của chú. Chú cho rằng con rắn nọ to bằng cây cột nhà, vảy lấp lánh ngũ sắc, khi biến mất thì gió thổi rung chuyển mấy gốc cây cổ thụ. Lúc rắn quấn vào bé Huôi, gió như ngừng thổi, chim trên trời như ngừng bay và hai con trâu như chết đứng trên mặt đất. Ông đạo Đất chắp tay xá bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc rồi nói: – Mô Phật! Cháu bé ngồi trên đất gặp con rắn hổ đất. Tất cả đều là đất. Nhưng con rắn hổ đất to lớn ấy là thuộc vào loại phi thường, tên nó là gì chú biết không? Tư Thính chắp tay thưa: – Dạ… chắc là mãng xà vương! Ông đạo lắc đầu: – Đó là con rồng đất! Trên mặt đất nầy nó là vua. Vua của đất phù hộ, chầu chực cháu bé chẳng khác nào con rồng vàng chầu chực ông vua ở chốn đế đô. Rồng đất là vua của đất. Rồng đến tìm cháu bé, đó là điềm mai sau có ông vua ông chúa nào đó đến ra mắt. Rồng quấn chung quanh cháu bé để che chở phò hộ, đó là sau nầy cháu bé trở thành một bà hoàng, bà chúa. Chú nên vui mừng đi, ráng chịu cực chừng năm bảy năm nữa. Tư Thính chắp tay lạy ông đạo Đất: – Thiệt vậy hả ông? Trời Phật giúp tôi, làm sao tôi tạ ơn? Dè đâu con tôi tốt phước như vậy? Ông vua nào, ông chúa nào tới đây cưới con tôi? – Ông chúa hòn hoặc ông chúa đảo, hoặc ông chúa tàu, tàu buôn Hải Nam. Tôi chưa biết rõ. Mai chiều, chú đưa cháu bé trở lại. Nghĩ một lát, ông đạo hỏi: – Cháu tên gì, năm nay mấy tuổi? Bé Huôi cất tiếng sỗ sàng: – Tên Huôi. Hỏi bao nhiêu tuổi để làm gì? Bộ tôi ngu dại phải không? Nãy giờ, tôi đâu làm điều gì sai quấy với thầy. Ông đạo càng tin tưởng nơi tài đoán điềm giải mộng của mình. Lập tức ông khều Tư Thính ra sân mà nói khẽ: – Thấy chưa? Nó là đứa khôn trước tuổi, ăn nói lanh lợi đâu thua gì người hai ba chục tuổi. Chú nên nuôi dưỡng tử tế. Nó có trí khôn, có nhan sắc. Tôi xem không lầm đâu. Năm bảy chục năm, con Rồng đất mới xuất hiện một lần. Rồng đất mà phò hộ che nắng che mưa cho con Huôi thì phải biết. Tư Thính chắp tay xá ông đạo; – Cám ơn ông, về sau nầy nếu may ra con tôi nên danh nên phận thì tôi chẳng bao giờ dám quên ơn lớn. – Kìa! Ngón tay ông đạo Đất chỉ ra ngoài sân. Lần nầy chú Tư Thính không khỏi kinh ngạc vì bé Huôi đứng xớ rớ bên bụi cây quỳnh hoa. Nó nâng niu từng lá dài rồi đột nhiên nói to: – Cây gì mà trồng hoài không trổ bông? Ông đạo giải thích: – Cháu ơi! Nhiều khi đôi ba năm nó mới trổ một lần. – Ông cho cháu vài lá, đem về trồng vài tháng thì nó trổ hàng chục cái bông cho ông coi. Để chiều theo ý bé Huôi và để biết thêm về tương lai của đứa con gái kỳ lạ nọ, ông đạo Đất hái một lá dài trao cho Tư Thính. Hai cha con lững thững về nhà theo con đường mòn sình lầy. Tư Thính nghe tim đập mạnh trong lồng ngực. Chú muốn kêu to: – Con tôi trở thành bà chúa! Thiệt vậy sao? Trời đất xui khiến hay ma quỷ xúi giục? Nhiều đứa bé khôn ngoan nhưng chết yểu hoặc là trở thành điên khùng, lên đồng lên bóng. Chú nắm tay con. Căn chòi hiện ra. Trong phút giây chú ngỡ là cung vàng điện ngọc. Chắc còn nhiều năm nữa bé Huôi mới trở thành bà chúa. Chừng đó chú già nua rồi. Chú chỉ muốn có căn nhà cao ráo để dưỡng già…   Hòn Chông là dẫy đồi thấp, sát mé biển vịnh Xiêm La. Dân chúng sống bằng nghề chài lưới ở mé biển nhưng nguồn lợi to nhứt vẫn là nghề trồng tiêu (hồ tiêu). Với mười lăm hay hai chục dây chăm bón kỹ lưỡng là một gia đình sống dễ dàng. Bao nhiêu đất tốt để trồng tiêu đều thuộc về ông Thần Phước cai quản, vì là người Triều Châu lai Cao Miên rồi lai Việt Nam nên tên ông được đọc là Xìn Phóc. Mấy người kỳ lão ở địa phương, nhứt là người tá điền, đều kiêng nể, gọi ông là ông Chúa Hòn, ông vua nho nhỏ giàu có và sang trọng nhứt của vùng Hòn Chông. Với số vốn tích trữ từ mấy đời trước, ông thuê nhân công để khai thác mấy ngọn đồi ở vùng kế cận: núi Còm, núi Mo So. Khi bán hồ tiêu cho bọn thương gia Mã Lai, ông chỉ lấy vàng, không dùng hình thức tiền bạc nào khác. Bọn gia nhân đồn đãi ông dùng số vàng ấy để trấn ếm một vài “linh huyệt” trên Hòn Chông, nơi có phủ thờ của tiên nhân – một người từ Triều Châu qua lập nghiệp ở Hà Tiên, theo chân họ Mạc vào thế kỷ thứ XVIII. Năm được 86 tuổi, ông Thần Phước giao cho đứa con trai đầu lòng là cậu Hai Minh cai quản tài sản. Cậu Hai chưa được bốn mươi tuổi nhưng đã có một vợ chánh và hàng chục tì thiếp. Ở vùng hẻo lánh, thú vui duy nhất của cậu Hai vẫn là uống rượu và tìm gái đẹp. Vợ chánh sanh đứa con trai duy nhất là cậu Hai Điền. Ăn ở với khá đông tì thiếp từ mười năm qua, cậu Hai Minh không hài lòng cho lắm, vì chẳng nàng nào sanh được con trai. Một buổi chiều, cậu Hai Minh ra lịnh cho gia nhân: – Đưa tao qua núi Mo So. Bọn gia nhân dạ rân lên, đem chiếu bông trải xuống chiếc ghe mui vuông sơn son thếp vàng. Bấy giờ là mùa hạn, sông rạch đều cạn ráo. Bọn gia nhân buộc bốn sợi dây luộc trước mũi và sau lái ghe, mỗi sợi dây chắc chắn ấy nối liền vào một con trâu đực to tướng, gọi là trâu cổ. Đáy sông quá cạn phơi lớp bùn sình. Ấy thế, mà chiếc ghe vẫn lướt nhanh. Bốn đứa bé mặc áo xanh cỡi trên lưng trâu, quất roi thật mạnh. Cậu Hai Minh nằm dài, dựa tay vào cái gối thêu: – Chừng nầy, ở núi Mo So…mình làm cái gì cho vui? Hai Ú trả lời: – Dạ, chừng nầy con gái trong xóm tới bờ mới gánh nước và tắm… – Hay quá! Vừa cười, cậu Hai vừa vỗ tay lia lịa. Lát sau, cậu gật đầu nhòm Hai Ú: – Mầy giỏi quá. Mầy chưa dở lần nào hết. Lát nữa tao tới đó bất ngờ. Mầy làm thế nào cho mấy cô gái cứ gánh nước tự nhiên, đừng chào đón. – Thưa cậu, vậy thì tôi phải đi trước mới được. – Họ biết trước thì mất vui. Phải tình cờ mới vui. Hai Ú chắp tay thưa: – Dạ, đón rước long trọng là chuyện dễ, đón rước tự nhiên là chuyện khó, cần sắp đặt trước. Không khéo mấy cô gái e lệ rồi hoảng chạy thì sao? Cậu cứ tin lời tôi. Lập tức, Hai Ú đến trước mũi ghe, nhảy lên bờ rất nhẹ nhàng. Anh ta giành lấy một con trâu cổ, cởi sợi dây ra rồi quất mạnh cho trâu chạy nhanh đến núi Mo So. Vì chỉ có ba con trâu kéo nên chiếc ghe tiến chậm. Cậu Hai khen ngợi: – Thằng Ú giỏi quá, nó biết lo trước lo sau. À! Cái gì mà chộn rộn ở chân núi? Bọn gia nhân phía sau reo lên: – Cậu Hai ơi, họ đốt đuốc… Xóm nhỏ ở chân núi Mo So hiện ra, náo nhiệt như buổi chợ phiên. Khi đến chân núi, cậu Hai Minh gặp ngay Hai Ú. Anh ta cầm bó đuốc đứng sẵn: – Thưa cậu, mời cậu đến bờ suối… – Ủa! Tại sao xóm giềng im lặng quá vậy? – Dạ, tôi ra lịnh cho ai nấy đóng cửa lại ngủ sớm để một mình cậu tới bờ suối, mặc tình nói chuyện với các cô. Tôi đã khuyên các cô cứ gánh nước tự nhiên. Các cô cười giỡn kìa! Cậu nghe không? Trong phút giây, cậu Hai ngỡ mình sống trong khung cảnh thần tiên nơi thượng giới. Ánh đuốc rọi chập chờn vào vách đá hai bên con đường dốc. Đêm mười bốn, trăng khá sáng tỏ. Lúc cao hứng, cậu Hai Minh ra lịnh: – Hai Ú cứ đi trước, thật xa. Tao đi dưới bóng trăng vui hơn. Cần gì qua bên Tàu mới hưởng được vui thú. Nhưng Hai Ú như còn ngập ngừng. Anh ta khoát tay đôi ba lần như làm dấu hiệu riêng với người phía sau. Cậu Hai Minh chẳng mảy may chú ý đến chi tiết đó, cứ hỏi đồn dập: – Tới chưa? Chà! Mấy cô cười nghe dòn quá. Còn ở phía sau, ai mà đông dữ vậy? Hai Ú đáp: – Cậu coi thử! Đó là mấy người khiêng rượu cho cậu uống. – Thằng nầy giỏi thiệt. Thật ra Hai Ú đã dàn cảnh khéo léo từ lúc nãy với Mười Hấu – người có khá nhiều quyền thế ở vùng núi Mo So. Mười Hấu rất tinh thông võ nghệ, con gái ông ta thuộc vào hàng đẹp nhứt trong vùng. Khi gặp Mười Hấu, Hai Ú đưa ra ý kiến: – Ông Mười muốn làm giàu không? Đây là dịp may hiếm có. Cậu Hai Minh tới để tìm gái đẹp. Nếu ông Mười vui lòng, làm thế nào cho cậu Hai được thỏa mãn thì… Mười Hấu nhớ đến đứa con gái tên là Ngó: – Con gái tôi chắc hạp nhãn với cậu Hai Minh. Hai Ú đáp: – Cậu Hai chỉ thích như vậy thôi! Ông Xìn Phóc già khú rồi. Bây giờ, cậu Hai Minh là ông Chúa Hòn chớ còn ai đâu xa lạ. Ngọn suối ở núi Mo So quá nhỏ hẹp. So với vùng cao nguvên thì đó là nơi dơ bẩn kém thơ mộng, nhưng ở chốn sình lầy nước mặn đồng chua thì quả là mạch nước tiên ngọt ngào và tinh khiết. Hai Ú dừng lại báo tin trước: – Mấy cô nên vui vẻ… bởi vì cậu Hai thương mấy cô, chịu khó lặn lội tới đây. Cậu tới kìa. Đừng làm cho cậu giận. Ngày mai các cô sẽ được ban thưởng, mỗi cô ít nhất được một lượng vàng. Đó là chưa nói sau nầy hễ túng thiếu tiền bạc thì các cô tới gặp tôi, tôi nói giùm một tiếng với cậu Hai là xong. Câu Hai Minh cười dòn: – A ha ha! Đêm nay là đêm vui sướng nhất của đời tôi! Mấy cô cứ tự nhién, đẹp quá. Hai Ú đâu rồi? Đốt thêm vài ngọn đuốc. Mười Hấu và đứa gia nhân để cần xé đựng hàng chục hũ rượu trên tảng đá rồi nói nhanh: – Thưa cậu, tôi có đuốc… Cậu Hai vỗ vai Mười Hấu: – Chú ở đâu? Tôi nhớ gặp mặt vài lần rồi. Đuốc ở đâu? Đốt lên. Ba ngọn đuốc cháy chập chờn. Trong đám thôn nữ rõ ràng cô Ngó là hoa khôi. Nàng mặc áo ngắn tay, đứng bỡ ngỡ trong dòng suối, nước ngập lên tận gối. Ánh sáng chói chang làm nàng giựt mình: – Ai làm chi vậy? Chỗ này… của người ta gánh nước. Mười Hấu hơi e ngại, nói khéo cho con nghe: – Ngó ơi! Cậu Hai tới thăm là vinh hạnh cho con. Con cứ vui cười. Cậu Hai Minh hơi xúc động. Mấy tháng qua, cậu chỉ lân la với mấy nàng hầu thiếp ở trong phòng kín đáo, toàn là những cô gái ăn mặc sạch sẽ và ốm yếu mảnh khảnh. Cô Ngó đúng là một pho tượng, căng đầy nhựa sống. Cậu Hai cầm ngọn đuốc, đến gần. Cô lính quýnh, bước ra giữa dòng. Cậu vói tới, nắm tay cô mà kéo lại: – Lên bờ cho vui. Tôi đã nói là cứ tự nhiên. Tôi tới đây để tìm cái… tự nhiên mà. Cô Ngó mỉm cười, để lộ hai hàm răng đều đặn: – Dạ, mắc cỡ lắm, cậu Hai! Mình mẩy ướt mem như vầy khó coi quá, thành ra vô lễ với cậu. Hai Ú nói: – Cô Ngó cứ lên bờ, ngồi bên tảng đá để nghe cậu Hai dạy việc. Cậu Hai dìu người đẹp lên bờ, Mười Hấu bèn đem bầu rượu trao tận tay: – Xin mời cậu… – Ngon lắm! Ngon Iắm. Tôi uống rượu một mình coi sao được? Xưa nay vua đâu uống ruợu một mình. Vua uống thì các quan đại thần và hoàng hậu đều uống. Đem rượu ra, uống không hết thì đổ bỏ xuống dòng suối tiên nầy. Hai ba cô gái gánh nước đứng gần cô Ngó cũng hưởng được chút ân huệ, nhưng làm sao các cô nuốt được thứ rượu đế quá cay, quá nồng! Hai Ú nhắc nhở từng chập: – Cứ uống. Uống không nổi thì cứ làm bộ đưa lên môi. Bầu rượu được cậu Hai đưa sát môi cô Ngó. Cô nhăn mặt liếc qua Mười Hấu như để hỏi ý kiến. Mười Hấu nói: – Uống đi con. Cậu Hai đoái tưởng tới con đó. Cậu Hai lim dim đôi mắt, một tay vuốt mái tóc người đẹp, một tay nghiêng bầu rượu. Rượu đổ tràn xuống ngực người đẹp. Cậu đưa tay ra phía sau: – Rượu nữa! Rượu nữa! Cô tên gì? Uống rượu không được thì chắc là tắm bằng rượu được… Cô Ngó ôm ngực van nài: – Lạnh lắm… Cho tôi về. – Tôi cho cô về… chiếc ghe của tôi. Hai Ú đâu rồi? Sửa soạn về. Nãy giờ tao cũng hơi lạnh. Muỗi cắn quá. Xứ nầy nhiều muỗi. Bây giờ cô Ngó cầm đuốc dẫn đường cho tôi xuống bến. Hai Ú đi sát bên cô Ngó mà nói khẽ: – Nên hầu hạ khéo léo cho cậu Hai vui. Tài sản của ông Chúa Hòn để lại cho cậu Hai, nghĩa là để cho cô. Cậu Hai nhiều khi khờ dại, cô nên hy sinh để cho cha mẹ và chòm xóm được nhờ. Dân chúng hai bên đường ngồi nép mình bên cánh cửa mà trông ra. Họ vừa mừng vừa sợ. Nếu cô Ngó được cậu Hai đem về Hòn Chông làm tì thiếp thì cha cô là Mười Hấu trở nên hách dịch, ai chịu cho nổi. Cô Ngó vào nhà, thay quần áo mới, trong khi cậu Hai Minh nằm trên ghe, thúc hối từng chập: – Trốn rồi sao chớ! Muỗi cắn chết. Tụi bây lo cho tao chớ.Tao hơi mệt rồi đó. Đắp mền cho tao. Con nhỏ đó sao chưa xuống đây quạt muỗi cho tao! Lát sau, chiếc ghe hầu trở về Hòn Chông, bốn con trâu kéo hì hục. Tội nghiệp cho mấy thằng bé cỡi trâu. Chúng nó ngủ gục từng chập, bị Hai Ú chửi rủa không ngớt mồm. Cô Ngó ngồi bên gối của cậu Hai, cầm cây quạt lông mà phe phẩy, cậu Hai khen ngợi từng chập: – Giỏi quá, khỏe quá! Quạt mạnh tay cho muỗi bay bớt thì ta mới ngủ được. Về Hòn Chông ít muỗi mòng hơn. Mỗi ngày, cô em cứ ở không mà quạt cho ta ngủ, khỏi gánh nước. Cậu Hai Minh đến Hòn Chông vào lúc hừng sáng. Hai Ú cõng cậu lên nhà. Cô Ngó hơi sợ vì lần đầu tiên trong đời, cô bước vào căn nhà sang trọng, đúng ra là ba bốn căn nhà cất chung trong vòng rào kiên cố. Năm sau cô Ngó hạ sanh một đứa con trai. Mấy nàng tì thiếp khác lấy làm bất mãn và ganh tị. Bà chánh thất lo ngại hơn ai cả, vì đứa bé nọ có thể tranh giành gia tài và ngôi vị với đứa con của bà. Bà đến gặp cậu Hai để cằn nhằn: – Ông làm như vầy còn gì thể diện! Cậu Hai đáp: – Tôi là… ông Chúa Hòn. Ba tôi đã trao quyền hạn cho tôi. Hằng ngày, nếu không đùa giỡn thì tôi làm gì bây giờ? Tôi thích đi đó đi đây, lâu lâu uống rượu say một lần. Bà chánh thất nói khẽ: – Con Ngó là đứa mà tôi không ưa. Nó làm mất thể diện dòng họ. – Trời ơi! Bà đừng vu cáo mà tội nghiệp nó. Nó là gái quê, là tì thiếp, hằng đêm cầm quạt đuổi muỗi cho tôi ngủ. Nhờ nó mà bà được rảnh rang, vả lại, hễ gặp bà là nó chắp tay xá… – Nó sanh đứa con trai. Nó là con của thằng Mười Hấu quê mùa dốt nát ở núi Mo So. Mười Hấu trở thành… cha vợ của ông Chúa Hòn, thiên hạ đàm tiếu nhiều lắm rồi. Cậu Hai bị chạm tự ái nên quát to: – Bà đừng nói vậy. Muốn tôi đuổi con Ngó sao? Tôi chưa đuổi nó được trong năm nay, nhưng tôi hứa là vài năm nữa nó không còn ở nhà nầy. – Nhưng thằng con của con Ngó! Nay mai nó tranh quyền hạn với con tôi thì sao? Ông nên suy nghĩ lại… Câu nói ấy khiến cậu Hai Minh bâng khuâng. Lập tức, ông vào phòng riêng nằm dài, vỗ trán cho bớt nhức đầu. Nãy giờ, cô Ngó đã nghe ngóng được câu chuyện. Chờ khi cậu Hai ngồi dậy uống chén trà, cô mới than thở; – Tội nghiệp em, nếu ở đây hoài, chắc có ngày em chết vì bà lớn. Tốt hơn, ông cho em bồng con về núi Mo So để rồi xin vô chùa, đi tu. – Đâu được! Đôi mắt đen huyền và làn da trắng mịn của cô Ngó khiến cậu Hai ngây ngất. Cậu vuốt ve cô nhưng cô ngồi lui ra, cầm cây quạt mà phe phẩy, cánh tay với tới. Những cảnh ghen tương giận hờn và tranh chấp quyền lợi đã xảy ra quá nhiều lần, nào riêng gì trong năm nay. Tin rằng thời gian trôi qua thì mọi việc đều tự dàn xếp êm thấm, cậu Hai uống thêm vài chén rượu rồi ngủ khò. Cô Ngó ngưng tay, không quạt nữa. Đến trưa, khi cậu mở mắt thức dậy thì cô lanh tay cầm cây quạt đứng thẳng người phía sau lưng. Đột nhiên cô buông tay. Cây quạt rơi xuống nền gạch, cán bằng ngà gây tiếng động vừa khô khan, vừa tức tối. Cậu day lại. Cô Ngó giả vờ như giựt mình, vội cúi mình lượm cây quạt đem lên, xem kỹ rồi run rẩy đến quì bên cạnh cậu Hai: – Ông tha cho tôi. Cán quạt nứt bể rồi. Cây quạt nầy quý giá lắm. Nói xong, nàng ngả người, quơ tay lên trời, kêu lên ú ớ mấy tiếng rồi nằm dài trên gạch. Cậu Hai đứng dậy quì bên cạnh đỡ nàng lên: – Em! Sao vậy? Tôi ở đây thì em cứ ở đây. Tôi chưa nói điều gì mất lòng em mà. Làm vậy tôi buồn… Cô mở mắt ra, nói khẽ: – Em chưa đủ sức để hầu hạ ông, ông nên tìm người khác. Em đâu dám hờn giận ai. Chẳng qua là em thức quá nhiều. Nãy giờ, em đứng mà quạt không nghỉ tay. Mấy ngón tay tê cóng, phần thì hồi sáng đến giờ em chưa rảnh để ăn món gì ráo… Lần đầu tiên trong đời, cậu Hai để rơi hai giọt nước mắt. Suốt đêm rồi, Ngó ngồi ngoài mùng mà quạt cho cậu được mát mẻ, đến canh ba, khi giật mình thức dậy, cậu vẫn thấy cô ngồi lì một chỗ, bảo đi ngủ thì cô trả lời rằng còn đủ sức quạt hầu. Rồi đến trưa nay, cô Ngó lại đứng quạt. Đúng là một cực hình mà cô chịu đựng không một lời than thở. Cậu Hai nói: – Mệt thì em lên giường tôi. Cô Ngó lắc đầu: – Em đâu dám. Rủị bà chánh thất bắt gặp, chắc em bị giết… – Tôi gọi đứa khác vô đây để em nghỉ tay. Từ rày về sau, em khỏi làm công việc cực nhọc nầy. – Thôi, cho em về mà nuôi con. Nó là con trai, em thương nó lắm. Hai tiếng ‘‘con trai’’ khiến cậu Hai thêm kiêu hãnh. Đây là đứa con trai thứ nhì của cậu, phải nuôi nó bằng được để dự phòng trường hợp đứa con trai của bà vợ lớn chết thình lình. Cậu đáp: – Em ở đây. Người chánh thất giận vì em có con trai, tôi biết. Bây giờ, em tìm cách gởi đứa con đó đi xa, đặt tên xấu xí. Hễ mang tên xấu thì làm sao nó trở về đây chia gia tài được? Thế là hôm sau, mọi sự thắc mắc trong gia đình cậu Hai Minh đều được giải quyết êm ái. Đứa con mới sanh phải mang tên là thằng Cẩu – nghĩa là con chó. Mười Hấu được mời đến Hòn Chông để lãnh đứa cháu ngoại đem về, nuôi tại núi Mo So. Cậu Hai ban cho Mười Hấu mười lượng vàng. Cô Ngó bị đày xuống nhà bếp, lo cơm nước cho cậu Hai. Mời các bạn đón đọc Bà Chúa Hòn của tác giả Sơn Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Danh Nghĩa Nhân Dân
Danh nghĩa nhân dân xuất bản tháng 1/2017, đến tháng 5 đã được tái bản lần thứ mười, tổng lượng bán ra hơn 1 triệu 500 ngàn bản. Tại Liên hoan truyền hình quốc tế Macao lần thứ 8 năm 2017, bộ phim truyền hình chuyển thể cùng tên đã đoạt bốn giải thưởng lớn, trong đó có giải Phim truyền hình xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất. Nội dung kể về cuộc chiến chống tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng. Lấy bối cảnh chính trường tỉnh H, Trung Quốc, tác giả miêu tả cuộc chiến cam go giữa một bên là Hầu Cảnh Bình, cục trưởng cục chống tham nhũng tỉnh H và các kiểm sát viên viện kiểm sát, với một bên các quan chức cao cấp đã tha hóa trong bộ máy tỉnh chuyên lấy danh nghĩa nhân dân ra để biện minh, phục vụ cho lợi ích của mình. Vốn dĩ, viết về quyền lực chính trị của các phe phái trong một bộ máy cán bộ chính quyền không bao giờ là việc dễ dàng. Nhưng Danh nghĩa nhân dân của Chu Mai Sâm đã thực sự làm được điều đó. Không đơn giản hư cấu nên một cuộc đấu đá chốn quan trường, tác phẩm đã trở thành một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội Trung Quốc trong thời đại phát triển mới, sâu hơn nữa soi tỏ nội tâm đấu tranh giữa danh lợi và sự công minh, để lộ phần nhân tính bản chất trong mỗi con người. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Chu Mai Sâm sinh năm 1956, người Từ Châu, Giang Tô. Là nhà văn chuyên nghiệp, phó chủ tịch Hội Nhà văn tỉnh Giang Tô, ủy viên Hội Nhà văn Trung Quốc các khóa 7, 8, 9. Các tác phẩm của Chu Mai Sâm thường xoay quanh chủ đề chính trị, quan trường, giành được nhiều giải thưởng cao, như Nhân gian chính đạo đoạt giải Sách Quốc gia năm 1996, Made in China đoạt giải Sách Quốc gia và giải Năm Công trình năm 1998, Lợi ích tối cao đoạt giải Sách Quốc gia năm 1999, Quyền lực tuyệt đối đoạt giải Sách Quốc gia năm 2002. Nhiều tác phẩm của Chu Mai Sâm được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập do chính ông là biên kịch, và được khán giả vô cùng yêu thích. Danh nghĩa nhân dân xuất bản tháng 1/2017, đến tháng 5 đã được tái bản lần thứ mười, tổng lượng bán ra hơn 1 triệu 500 ngàn bản. Tại Liên hoan truyền hình quốc tế Macao lần thứ 8 năm 2017, bộ phim truyền hình chuyển thể cùng tên đã đoạt bốn giải thưởng lớn, trong đó có giải Phim truyền hình xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất. *** Danh nghĩa nhân dân: Lời nhắc nhở những người làm phòng tuyến chống tham nhũng Mỗi khi hai chữ nhân dân được viết ra trên trang giấy, người đọc như khựng lại mấy nhịp: có phải một tên quan tham nữa sắp lộ nguyên hình rồi không? Tiểu thuyết Danh nghĩa nhân dân (Lục Hương dịch) của nhà văn Chu Mai Sâm ra đời trong bối cảnh chiến dịch chống tham nhũng "đả hổ diệt ruồi" dâng lên cao trào ở Trung Quốc.  Viết về một đề tài khó cả nghề văn lẫn nghề chính trị, Chu Mai Sâm đã lão luyện vẽ ra màn kịch đấu trí ở chốn quan trường tỉnh H, giữa một bên chống tham nhũng và bên kia là bè lũ đã bị danh lợi làm cho hủ bại. Vào cái đêm lời khai của một viên trưởng phòng thuộc Bộ Xây dựng tuôn ra, chính trường tỉnh H đã không còn được trở về như cũ, từng thớ đất bị trốc lên để tìm kẻ tham nhũng, những vụ án mạng nhằm vào cán bộ điều tra được thi triển lạnh lùng. Trung tâm của cuộc chiến là Hầu Lượng Bình - cục trưởng Cục Chống tham nhũng tỉnh H. Như Tôn Hành Giả trở mình phá ngọn núi tảng bằng ý chí sắt đá, Hầu Lượng Bình đã từng bước đưa bè phái hủ bại ra ánh sáng công lý, chỉ có điều sợi dây tham nhũng càng kéo càng dài, càng giật càng thấy người thân... "Lượng Bình, cậu nhớ kỹ cho tôi, viện kiểm sát của chúng ta là viện kiểm sát nhân dân, tòa án của chúng ta là tòa án nhân dân, công an của chúng ta gọi là công an nhân dân.  Vì vậy chúng ta vĩnh viễn phải đặt lợi ích của nhân dân trong lòng mình, vĩnh viễn, vĩnh viễn" - những lời nói khiến người ta run run xúc động này là từ Cao Dục Lương, thầy giáo cũ của Hầu Lượng Bình và nay là bí thư ủy ban chính trị tỉnh H. Khoảnh khắc nghe được lời khuyên nhủ, Hầu Lượng Bình thực sự đã bị kích động mãnh liệt, trong lòng tự nhủ sẽ đeo đuổi vụ án tham nhũng đến cùng. Cả anh cũng không ngờ người nói ra câu chữ hùng hồn kia lại chính là kẻ sừng sỏ nhất đứng đằng sau tấm màn trướng giăng biểu ngữ nhân dân. Các nhân vật trong cuốn sách của Chu Mai Sâm ngoài mặt chữ thì được chia làm hai tuyến chính - tà nhưng tựu trung lại chỉ là một tuyến: chính trị gia. Nói như vậy có nghĩa là những mưu kế chính trị được rải lớp lang khắp các trang sách.  Người ngay thẳng cũng muốn leo lên địa vị cao hơn, kẻ dính chàm lại càng muốn cao hơn nữa, nếu chống tham nhũng mà không có nghề chính trị thì sớm muộn cũng bị người ủng hộ mình quay lưng lại. Sự nghiệp tiểu thuyết của Chu Mai Sâm đều là về chốn quan trường, cách ông viết về thủ thuật Hầu Lượng Bình lách qua những cạm bẫy chính trị cũng khiến người đọc phải rùng mình vì sự liều lĩnh trong ngòi bút, sự sắc bén trong tư duy. Nhân dân là tầng lớp ít xuất hiện nhất trong tập sách. Những quan chức đấu đá nhau, nhân dân chính là người chịu hậu quả sau rốt, nhưng trên mặt trận danh nghĩa, mặt trận phát biểu, mặt trận hội nghị... lúc nào cũng nghe bô bô hai chữ này.  Đương đầu với những kẻ giả nhân giả nghĩa, lại có quyền thế, có chỗ dựa (tài nguyên chính trị nói như lời tác giả Chu Mai Sâm), cục trưởng Hầu Lượng Bình như một người đi giữa bão lửa. Dẫu đến cuối truyện, "củi ướt củi khô" từ địa phương đến trung ương đều bị cháy rụi nhưng mầm mống tham nhũng vẫn tiếp tục sinh sôi. Cuốn sách như một lời nhắc nhở đến những con người làm phòng tuyến chống tham nhũng: khi nào còn có người dựa vào quyền lực để mưu cầu hư vinh cho bản thân, ngày ấy tham nhũng còn cơ hội ngóc dậy từ tro tàn. Cuốn sách đi sâu vào bản chất của con người, nơi lương tri phải đấu tranh với quyền lực để giành giật lại chính mình. Chỉ trong hoàn cảnh cam go, thử thách như vậy, chúng ta mới biết được chỗ đứng của nhân dân là ở đâu. *** Hầu Lượng Bình nhận được tin chuyến bay bị hoãn vô thời hạn, sốt ruột muốn nhảy dựng lên. Anh vốn định đáp chuyến bay cuối cùng đến tỉnh H, phối hợp chỉ huy hành động bắt giữ phó thị trưởng thành phố Kinh Châu Đinh Nghĩa Trân, phen này thì kế hoạch lỡ dở hết cả. Trên loa vang lên tiếng nữ phát thanh viên hết lượt này đến lượt khác thông báo cáo lỗi bằng tiếng Anh và tiếng Trung, bầu trời phía trên sân bay có vùng mây dông, vì sự an toàn của hành khách, máy bay tạm thời không thể cất cánh. Trán Hầu Lượng Bình rịn mồ hôi lấm tấm, anh đã biết nỗi khổ bị giam chân ở sân bay, giờ lại phải nếm mùi đau khổ thêm lần nữa rồi. Màn hình tivi cỡ lớn đang chiếu hình ảnh khí tượng, từng đám từng đám mây trắng dày đặc đang xoay tròn theo hình lốc xoáy, trông có vẻ rất nguy hiểm. Hàng chữ thuyết minh là kiến thức phổ cập ngành hàng không: dông sét gây nguy hiểm cho an toàn bay như thế nào, lọt vào vùng mây dông sẽ dẫn đến tai nạn hàng không ra sao. Nhưng tất cả đều không thể làm tâm trạng lo lắng bồn chồn của mọi người lắng xuống, thời điểm này, cả sảnh chờ máy bay dường như đã biến thành một cái tổ ong khổng lồ, tiếng người nhao nhao ồn ào, cũng không ngoài hỏi thăm thời gian chuyến bay của mình có thể cất cánh, truy hỏi phương án bồi thường, vân vân và vân vân. Hầu Lượng Bình chẳng cần chen lên phía trước cũng hiểu được một điều: chỉ cần vùng mây dông ấy vẫn còn trên đỉnh đầu mình, đừng hòng có chuyến bay nào được cất cánh. Hầu Lượng Bình rảo bước đi ra khỏi sảnh chờ, tìm một chỗ yên tĩnh vắng vẻ, gọi hết số di động này đến số di động khác. Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh H Quý Xương Minh tắt máy. Cục trưởng Cục chống tham nhũng Trần Hải tắt máy. Đương khi bận rộn thì mất tích bà nó hết. Đương nhiên, Hầu Lượng Bình biết bọn họ không mất tích, mà đang tham gia một cuộc họp khẩn cấp, báo cáo về vụ án Đinh Nghĩa Trân với phó bí thư tỉnh ủy phụ trách công tác chính trị pháp luật Cao Dục Lương, thông thường, những người tham gia họp đều phải tắt máy. Nhưng Hầu Lượng Bình thà tin rằng bọn họ cố tình tắt máy, chơi trò mất tích với anh. Với tư cách trưởng phòng điều tra của Tổng cục chống tham nhũng thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hầu Lượng Bình đã nhiều lần nhấn mạnh, thậm chí là thỉnh cầu các đồng nghiệp ở tỉnh H: bắt người trước, rồi họp sau! Gã phó thị trưởng họ Đinh này quá quan trọng, là một mắt xích then chốt trong vụ án Triệu Đức Hán nhận hối lộ vừa phá được. Nếu để lộ phong thanh làm hắn ta chạy mất, rất nhiều bí mật trong quan trường của tỉnh H có thể sẽ như đá chìm đáy biển. Hầu Lượng Bình cực kỳ bất mãn với người bạn học cùng đại học Trần Hải, anh đã đặc biệt dặn đi dặn lại Trần Hải đừng báo cáo, cứ khống chế Đinh Nghĩa Trân trước rồi tính sau, nhưng Trần Hải nhát gan, quanh co mấy câu rồi rốt cuộc vẫn báo lên cấp trên. Hầu Lượng Bình chính là sợ đêm dài lắm mộng, bắt Triệu Đức Hán xong liền lập tức lên chuyến bay đêm đến tỉnh H, không ngờ lại gặp phải vùng mây dông thế này. Hầu Lượng Bình đột nhiên phát hiện, bên ngoài chẳng có gió cũng chẳng có mưa, bình yên tĩnh lặng, đến cả tiếng xe đưa đón khách như thoi dệt cửi ồn ã cũng đã biến mất. Dông sét ở đâu ra? Vùng mây dông ở chỗ quái nào? Anh chạy ra cửa sảnh chờ, ngước nhìn bầu trời đêm. Bầu không tuy mây đen mờ mịt, trăng lu sao mờ, nhưng chẳng thấy ánh chớp mà cũng càng không nghe thấy tiếng sấm đâu, hình như máy bay không thể cất cánh là một sai lầm! Vừa khéo bên cạnh anh có một nhân viên sân bay đi qua bên cạnh, Hầu Lượng Bình chặn ông ta lại chất vấn. Vị cán bộ sân bay đã có tuổi này liếc nhìn anh một cái đầy ngụ ý, rồi ra vẻ triết lý nói, nhìn sự vật không thể chỉ nhìn bề ngoài, anh thấy được phía bên trên tầng mây kia à? Đằng sau sự tĩnh lặng bao giờ cũng ẩn chứa bão giông. Hầu Lượng Bình nhìn theo bóng lưng ông ta mà ngẩn người, tựa như vừa nghe được một ẩn dụ nào đó, những lời nói ấy khiến anh không ngừng liên tưởng... Hầu Lượng Bình tốt nghiệp khoa chính trị pháp luật trường đại học H, thầy giáo và bạn học rải khắp cả quan trường tỉnh H, khiến anh có một tình cảm vướng vít đặc biệt với tỉnh này. Cơn bão chống hủ bại tham nhũng đang càng lúc càng mạnh lên ở khắp nơi, chỉ riêng tỉnh H lại bình lặng khác thường, các lời đồn khi nổi chỗ này khi chìm chỗ khác bao năm nay đa phần đều chỉ dừng lại ở mức độ lời đồn mà thôi. Đương nhiên, Hầu Lượng Bình hiểu đây chỉ là hiện tượng giả tạo, người trần mắt thịt không thể thấy được thế giới bên trên tầng mây dày đặc, cũng không thể nhìn thấy những chỗ tối tăm ẩn giấu bên dưới ánh mặt trời. Vụ Đinh Nghĩa Trân nổi lên mặt nước cơ hồ là một sự ngẫu nhiên, nếu không phải vụ án động trời của Triệu Đức Hán dính dáng đến hắn, nhất thời cũng khó mà nắm được chứng cứ nào chắc chắn. Trưởng phòng điều tra hiểu rõ tầm quan trọng của thời cơ, bước chân đầu tiên ra cửa lúc nào cũng là mấu chốt quyết định thắng hay bại. Hầu Lượng Bình sốt ruột lắm, nhưng sốt ruột cũng chẳng ích gì, trên trời có dông sét ngăn cản anh lại. Anh đi qua cửa kiểm tra an toàn lần nữa, quay lại sảnh chờ. Trong sảnh vẫn hết sức ồn ào. Anh cố ép mình bình tĩnh lại, đứng trước máy nước sạch uống mấy ngụm, tìm một ghế trống ngồi xuống, nhắm mắt nghỉ ngơi. Hình ảnh Triệu Đức Hán sa lưới liền hiện lên trước mắt anh, Hầu Lượng Bình không kìm được, lại chìm vào những hồi ức về Triệu Đức Hán. Tối hôm qua, khi người này đang bê cái bát tô lên ăn mì tương đen, cánh cửa gỗ cũ kỹ "cót két" mở ra, anh chính là người thay mặt cho số mệnh đến gõ cửa nhà tay tham quan này. Ông ta có gương mặt trung hậu thật thà, thoạt nhìn không giống một cán bộ cơ quan nhà nước cho lắm, mà như một lão nông dân vừa ở ruộng về nhà. Tay nông dân này rất bình tĩnh, tố chất tâm lý cực tốt, gặp biến mà không kinh hoảng. Hầu Lượng Bình liếc qua đã nhìn thấu, đây là trạng thái mạnh mẽ do nắm quyền lớn trong tay thời gian dài rèn nên. Đương nhiên, có lẽ ông ta đã đoán trước được cảnh tượng ấy từ lâu, đã có chuẩn bị tâm lý. Chỉ có điều, Hầu Lượng Bình không ngờ, một trưởng phòng dự án của ủy ban cấp bộ bị chỉ đích danh tố cáo nhận hối lộ đến mấy chục triệu nhân dân tệ lại sống ở nơi tồi tàn thế này! Đây là một căn hộ cơ quan cải tạo lại khá phổ biến, khoảng bảy mươi mét vuông, đã cũ kỹ lắm rồi. Đồ đạc trong nhà toàn là mua từ thời Triệu Đức Hán kết hôn, quê kệch hết sức, góc xô pha đã mòn bục cả ra. Ngoài cửa chỏng chơ mấy đôi dép lê rách nát, có vứt ra đường cũng chẳng ai thèm nhặt. Bồn cầu trong nhà vệ sinh đang rò nước, cứ hai ba giây lại nghe "tí tách" một tiếng. Vòi nước trong nhà bếp cũng đang nhỏ nước, nhưng hình như không phải bị rò, mà là cố ý trộm nước. Chứng cứ rất rõ ràng, chậu rửa mặt bên dưới vòi đã hứng được nửa chậu nước sạch không phải trả tiền. Mời các bạn đón đọc Danh Nghĩa Nhân Dân của tác giả Chu Mai Sâm & Lục Hương (dịch).
Con Gái Người Kỹ Nữ
Kamada là con gái của một kỹ nữ chuyên phục vụ cho các quý ông giàu có ở thành phố Mumbai, Ấn Độ. Kamada thích sống trong thế giới kì diệu của riêng mình, nơi mà trí tưởng tượng đã che chở cho cô khỏi thực tế cuộc sống khắc nghiệt. Cô bé đang thực hiện sứ mệnh thoát khỏi ngôi nhà của mẹ, thoát khỏi những cung đường của thành phố, nơi cô cảm thấy như tù ngục. Chỉ có những người bạn kì diệu của cô, một con vẹt tiên tri, chú vẹt đã nói cho cô biết về tương lai và gia đình của một người bạn hàng xóm, biết được về giấc mơ trốn thoát khỏi nhà và được tiếp tục học tập tại Mĩ. Vì lí do này, cô bé đã chuẩn bị một cách chu toàn cho kế hoạch của mình - học tập miệt mài cho chứng chỉ GRE, thu thập tất cả các giấy tờ cần thiết, và bắt đầu quan tâm tới vấn đề tài chính.Trong khi cô bé đang lên kế hoạch cho cuộc tẩu thoát của mình, thì thế giới của cô bị đảo lộn bởi một bí mật mà mẹ cô đã lột trần, bí mật ấy đã gây chấn động tâm lý cho cô bé tuổi mới lớn. Liệu rằng giấc mơ về tương lai đến với một vùng đất xa xôi mà cô bé đang phải đương đầu với bao gian nan để thực hiện có thể trở thành hiện thực hay không? *** 'Con gái người kỹ nữ' - ước vọng thoát khỏi xã hội đen tối: Tác phẩm văn học của Juliet Philip kể về cô bé Kamada sống trong hoàn cảnh tăm tối nhưng luôn tìm mọi cách để hướng tới tri thức, hạnh phúc và tương lai. Kamada là con của một người làm gái gọi cao cấp, chuyên phục vụ các quý ông giàu có ở Mumbai, Ấn Độ. Cô không biết cha mình là ai. Kamada cảm thấy thế giới mà mẹ cô thuộc về đầy tệ nạn, dơ bẩn và luôn muốn thoát khỏi ngôi nhà của mình. Kamada chuẩn bị kế hoạch chu đáo để rời khỏi chốn mà cô cho là tù ngục. Cô chăm chỉ học tập, thu nhận kiến thức, đạt các chứng chỉ và mong có thể đến Mỹ. Mọi việc tưởng chừng êm xuôi thì Kamada bị chấn động tâm lý bởi một bí mật mà mẹ cô đưa ra.  Vốn là cô bé lạc quan, Kamada không chìm trong tuyệt vọng. Cô bé "trốn" khỏi thực tại tàn khốc bằng trí tưởng tượng. Cô nhìn xung quanh bằng con mắt tươi sáng, thổi hồn cho những loài hoa trái trong cửa hàng ven đường, tạo âm thanh cho những ổ gà trên phố... Thế giới khắc nghiệt được cô bao phủ bởi những điều kỳ diệu. Ứng xử của Kamada thể hiện một khát vọng về cuộc sống mới, tốt đẹp.  Con gái người kỹ nữ được kể bằng lời của nhân vật xưng "tôi". Xen vào những tình tiết kể về cuộc đời là những đoạn độc thoại nội tâm, khiến tác phẩm mang chiều sâu tâm lý. Qua câu chuyện về Kamada, tác giả Juliet Philip phác họa một góc đời sống đương đại. Nơi thị thành Mumbai ấy không chỉ có nét văn hóa truyền thống độc đáo mà luôn ẩn chứa một thế giới với những mặt đen tối. Trong thế giới ấy, những người có cốt cách như Kamada phải đối diện với sự thật đầy bi kịch để rồi tìm mọi cách vượt thoát khỏi nơi mình đang thuộc về.  *** Tôi là Kamada, con gái người kỹ nữ Taras, tôi sẽ là người hùng trong chính câu chuyện kể về cuộc đời mình. Tôi sẽ có những sự lựa chọn thận trọng để viết nên số phận cho riêng mình và thoát khỏi thế giới dơ bẩn mà mẹ tôi đã sống. Hôm nay, tôi sải bước trên con đường đông đúc, ôm khư khư trên tay một đống tài liệu quý giá, người bạn đồng hành của tôi trong suốt buổi tối, tập tài liệu này là một mớ hỗn độn về cuộc sống và cũng là những kế hoạch chạy trốn của tôi. Đống tài liệu màu xanh này còn đóng một vai trò quan trọng nữa: nó là “chiếc khiên” che ngực cho tôi. Nếu tôi không đủ khôn ngoan để bảo vệ mình trong khi sải bước trên những đường phố đông đúc của thành phố Bombay, tôi không thể tiếp tục mơ mộng được nữa. Những sự mơ mộng cho phép tôi thoát khỏi nơi bẩn thỉu này và trôi dạt vào một thế giới khác của sự tưởng tượng và tràn đầy những niềm hi vọng. Tâm trí tôi thường hay lơ đễnh, vì vậy tôi phải luôn nhớ mang theo tập tài liệu của mình đến bất cứ đâu. Tôi đã trải qua những năm đầu của thời niên thiếu để cố luyện cái được gọi là “nghệ thuật tự bảo vệ bản thân”, và mặc dù khả năng này của tôi đã quá đỗi “điêu luyện”, tôi vẫn miệt mài trau dồi thêm. Đôi khi, một gã đàn ông vô tình đâm sầm vào tôi với một sự ngạc nhiên vờ vịt và một câu xin lỗi “Ồ tôi xin lỗi, thưa cô”. Động cơ của lời xin lỗi ấy được thốt lên khi tôi ném vào hắn một ánh nhìn sắc lẹm để xác định xem nó chỉ là một tai nạn hay chủ ý. Chủ yếu, tôi dựa vào trực giác và kinh nghiệm trước đây để đánh giá sự khác biệt này. Những gã đàn ông như vậy gợi cho tôi nhớ về những người đàn ông mà tôi đặt cho họ một cái tên là “Brazilian wandering spiderat”, một loại đàn ông có đặc tính giống như những con nhện Brazil và những con chuột. Họ lẩn trốn trong những khu vực đông đúc và có đôi chút hiểu biết xã hội. Tôi phải cảnh giác vì sự tấn công của họ rất mạnh mẽ và có thể gây ra cho tôi những nỗi đau về thể xác. Một gã thuộc vào một nhóm đàn ông khác, thể hiện ý đồ xấu xa của mình mà không màng tới những hậu quả mà họ mang lại. Khi tim tôi đang đập loạn xạ, tôi tát hắn một cái và dĩ nhiên tôi có nguy cơ bị làm nhục một lần nữa. Một vài trong số những gã đàn ông này cảm thấy phấn khích với cái tát. Một vài gã khác thì nổi điên. Tôi đặt tên cho những gã này là “Chimpigog” - thứ đàn ông có đặc tính của loài tinh tinh kết hợp với lợn và chó - nhóm đàn ông này không có khả năng kiểm soát ham muốn tình dục của mình. Họ có dáng đi khệnh khạng giống như tổ tiên tinh tinh và cũng giậm trống ngực thình thịch để “thu hút bạn tình”. Với những gã này, tất cả chỉ là sự thỏa mãn tình dục. Một nhiễm sắc thể Y khác nữa nằm giữa hai thái cực này. Loại đàn ông này là những kẻ chuyên rình rập hay còn được gọi là “Snakepig”, một sự lai tạo đặc tính giữa những con rắn ghê tởm và những con lợn rừng bẩn thỉu. Họ lởn vởn một cách kín đáo và chờ đợi thời cơ để tấn công. Họ là một trong những loại đàn ông khiến tôi cảm thấy ghê sợ nhất. Tập tài liệu này có nhiệm vụ trông chừng tất cả các “loại” đàn ông này. Và đây quả là một nhiệm vụ khó khăn. Trong khi một người bình thường dành ra khoảng 47% quỹ thời gian trong ngày để mơ mộng, thì với tôi, con số này là 80%. Kinh nghiệm đã dạy tôi cách mơ mộng trong khi vẫn phải cẩn trọng với những gã đàn ông lảng vảng quanh mình, kinh nghiệm còn chỉ cho tôi cách tự bảo vệ bộ ngực chỉ khiêm tốn như hai nốt muỗi đốt trên cơ thể mình bằng tập tài liệu “quyền lực” trên tay mỗi lần tôi mơ màng trên phố đông. Tuy nhiên có vẻ hầu hết đàn ông ở đây đều coi tôi như một con mồi. Tôi tin vào điều này bởi vì thành phố Bombay chỉ có 750 nữ giới / 1000 nam giới. Tôi không biết ai hay cơ quan nào phải chịu trách nhiệm cho việc này, nhưng tôi không thể không đổ lỗi, vì vậy tôi quy trách nhiệm cho chính phủ, cho chế độ phụ hệ, cho những gã đàn ông không sử dụng bao cao su, cho những người phụ nữ mang thai mà không màng tới trách nhiệm của tình mẫu tử. Tôi luôn luôn đổ lỗi cho mẹ tôi, người lựa chọn cách sống của một người kỹ nữ thượng lưu ở cái thành phố nhơ nhuốc này. Mời các bạn đón đọc Con Gái Người Kỹ Nữ của tác giả Juliet Philip & Trịnh Thúy Ngàn (dịch).
Casanova Ở Bolzano
Năm 1756, trốn thoát khỏi buồng chì kiên cố ở Venice, không cưỡng nổi sự thôi thúc bí ẩn của định mệnh, kẻ phiêu lưu khét tiếng và phong tình lừng danh của thế kỷ 18 Giacomo Casanova tìm đường trở về Bolzano, nơi chàng từng chạm trán Tử thần trong cuộc quyết đấu cùng vị hôn phu quyền lực của thiếu nữ Francesca tuyệt sắc. Lần trở lại này của Casanova khiến cả thành phố chấn động. Tin tức cũng lan tới lâu đài của Bá tước Parma, lúc này đã kết hôn cùng Francesca. Bá tước tới nơi chàng Casanova trọ để làm một cuộc thương lượng lạ lùng. Một bí mật sẽ vĩnh viễn trở thành kỷ niệm, một nỗi đau sẽ được gói lại lần cuối, để không gì còn xen vào cuộc sống của người đàn bà quý giá của đời ông...  Hư cấu và tưởng tượng, không vay mượn từ Histoire de ma vie của nhân vật có thực Giacomo Cassanova nổi tiếng trong lịch sử, Márai Sándor  đã tạo nên một kiệt tác văn chương tràn ngập hơi thở mãnh liệt, cám dỗ nồng nàn của cuộc sống, với những đối thoại lạ lùng, thông thái, đam mê, bất ngờ và đầy tính cách ngôn sâu xa xoay quanh một tình yêu khắc khoải. Casanova ở Bolzano chứng minh rằng Márai Sándor - một trong những bậc thầy xuất sắc của nền văn học Hungary và thế giới - đã in dấu ấn vô cùng đặc biệt trên diện mạo văn chương thế kỷ 20. *** Lời khen tặng dành cho Casanova ở Bolzano “Câu chuyện mê đắm về tình yêu, tình bạn và sự phản bội…  Phong phú, cám dỗ, nồng nàn và châm biếm.” - Elle   “Sâu sắc và đầy chiêm nghiệm… Tràn ngập niềm vui cuộc sống.” - Vogue “Sáng chói… Cuộc đấu phức tạp của những trí tuệ… Casanova ở Bolzano cung cấp thêm bằng chứng về sự xuất sắc bị quên lãng của tác gia lớn trong thời đại chúng ta: Márai Sándor.”  - Chicago Tribune *** Ghi chú Trong gương mặt và tính cách nhân vật của tôi chắc hẳn độc giả tưởng mình nhận ra diện mạo đặc trưng của Giacomo Casanova1 kẻ phiêu lưu khét tiếng vào thế kỷ 18. Thật khó cưỡng lại nổi sự nhận biết này, mà trong mắt một số người có thể nó cũng là sự phê phán. Nhân vật của tôi cực kỳ giống anh chàng liều lĩnh, vô gia cư và dẫu sao có lẽ vẫn bất hạnh, người vào nửa đêm ngày 31 tháng Mười năm 1756 đã dùng thang dây trèo từ buồng giam mái lợp chì của Công quốc Venice, còn gọi là buồng chì, xuống eo biển và cùng một tu sĩ đã bị tước quyền hành đạo tên là Balbi bỏ trốn khỏi lãnh địa của Nước Cộng hòa2 về phía Munchen. Điều biện hộ cho tôi là từ câu chuyện cuộc đời của nhân vật, tôi không quan tâm đến câu chuyện lãng mạn, mà quan tâm đến tính cách lãng mạn của anh ta. Vì thế những thứ khác, như thời điểm và hoàn cảnh cuộc trốn thoát, tôi không vay mượn từ cuốn Những hồi tưởng3lừng danh. Tất cả những thứ khác mà độc giả tìm thấy trong tiểu thuyết này, đều là chuyện hư cấu và tưởng tượng. M.S. *** Một đức ông, từ Venice Chàng từ biệt những người chèo thuyền ở Mestré; người bạn hư hỏng Balbi thiếu chút nữa đã làm chàng rơi vào tay cảnh sát ở đây, vì đúng lúc chiếc xe ngựa chở khách khởi hành thì chàng hoài công tìm kiếm, mãi rồi mới thấy anh ta trong một quán cà phê - đang vô tư nhâm nhi một cốc sô cô la - và tán tỉnh cô hầu bàn. Đến Treviso thì chàng hết sạch tiền; họ lủi qua cổng Saint Thomas ra cánh đồng, và theo sau những khu vườn, đi men theo ven những cánh rừng, lúc mặt trời lặn thì đến trước những ngôi nhà của Valdepiadene. Đến đây chàng rút con dao găm ra dọa người bạn đường khó chịu, hai người hẹn sẽ gặp nhau ở Bolzano, rồi chia tay. Cha Balbi buồn bã bước đi giữa những thân cây trơ trụi trong rừng ô liu; nom ông gầy guộc và nhếch nhác, vừa đi vừa ngoái nhìn lại bằng cái nhìn vụng trộm tăm tối, lủi thủi như một con chó ghẻ bị chủ xua đuổi. Khi cha cố đã đi khuất, chàng đi vào thành phố, bằng một bản năng mù lòa và đáng tin cậy chàng hỏi chỗ ở trong nhà của viên chánh cẩm. Bà vợ ông ta, một phụ nữ thuần hậu, tiếp đón chàng, cho chàng ăn tối, rửa các vết thương cho chàng - trên gối và trên mắt cá chân máu đã đông lại, trong khi chạy trốn, lúc nhảy từ những mái nhà lợp chì, khuỷu tay và gối chàng bị xước -, và trước khi đi ngủ chàng được biết ông chánh cẩm đang đi vắng, ông đang săn lùng chính chàng, kẻ chạy trốn. Lúc rạng sáng chàng bỏ đi. Chàng ngủ ở Pergine, sang ngày thứ ba thì đến Bolzano trên xe ngựa, vì giữa đường đã moi được của một người quen sáu đồng tiền vàng. Balbi đã đợi chàng. Chàng thuê phòng trong một quán trọ có tên là Con Hươu. Chàng không có đồ đạc gì, quần áo rách mướp, chiếc áo đuôi tôm may từ thứ lụa màu nay chỉ còn lại những mảnh tơi tả, không có áo khoác ngoài. Ở Bolzano, trên những con phố hẹp gió tháng Mười một đã bắt đầu quất mạnh. Người chủ quán lúng túng nhìn những vị khách rách rưới. -      Những phòng đẹp nhất ư?! - ông ta lúng túng. -      Những phòng đẹp nhất! - chàng đáp khẽ, dứt khoát. - Và hãy chú ý đến đồ ăn đấy! -      Ở đây các người hay nấu với các thứ mỡ đã ôi, thay vì dầu, và từ khi rời khỏi Nước Cộng hòa ta chưa được ăn ở đâu một miếng cho tử tế! Hãy quay gà trống thiến và mái tơ vào bữa tối, không phải một, mà ba con, với hạt dẻ. Và kiếm loại vang Cyprus. Ngươi nhìn quần áo ta ư?... Ngươi tìm hành lý của ta ư? Ngươi ngạc nhiên vì ta đến đây tay không ư? Tin tức không tới đây hay sao? Ngươi không đọc Leyden Gazette sao!... Đồ ngốc! - chàng gào lên giọng khản đặc, vì giữa đường chàng bị cảm lạnh, và cơn ho đang hành hạ phế quản chàng. - Ngươi không nghe tin một nhà quý tộc Venice và thư ký cùng đám gia nhân vừa bị cướp ngoài biên giới ư? Cảnh sát còn chưa tới tìm ta ư? -      Dạ chưa thấy, thưa đức ông, - người chủ quán hốt hoảng đáp. Balbi bụm miệng cười. Cuối cùng đúng là họ đã được những phòng đẹp nhất: phòng khách, hai cửa sổ có cánh mở ra quảng trường chính, những đồ gỗ có chân mạ vàng và gương Venice đặt trên lò sưởi. Giường kiểu Pháp có màn che. Balbi ở phía cuối hành lang, gần một cầu thang hẹp và dốc dẫn lên tầng áp mái của những người hầu. Cách bố trí như thế làm chàng rất mãn nguyện. -      Thư ký của ta đấy, - chàng giới thiệu Balbi với ông chủ quán trọ. -      Cảnh sát, - người chủ quán trọ nói như thanh minh. - Ở đây cảnh sát cũng rất nghiêm. Họ sẽ đến đây ngay. Họ xem xét tất cả những người lạ mặt. -      Bảo với họ rằng, - chàng đáp qua loa - có khách quý. Một đức ông... -      Nhưng dù sao! - người chủ quán cố nài, và cúi đầu thật thấp, tay cầm chiếc mũ, tò mò và lễ phép. - Một đức ông, từ Venice! - chàng nói. Chàng nói điều này như thể thông báo một phẩm tước đặc biệt nào đó. Đến mức Balbi cũng phải chú ý tới âm điệu của chàng. Rồi bằng nét chữ nhọn và thành thục, chàng viết tên mình vào quyển sổ lớn. Người chủ quán hồi hộp đến đỏ mặt: day day thái dương bằng những ngón tay mập mạp, và không biết nên chạy đi gọi cảnh sát hay quỳ mọp xuống để hôn tay chàng? Thế là ông ta cứ đứng một chỗ, bối rối và im lặng. Rồi ông châm đèn và đưa các vị khách lên tầng trên. Những người phục dịch đã xếp dọn các phòng: mang nến đến trên những giá đỡ lớn mạ vàng, nước nóng đựng trong các bình bạc, những chiếc khăn lau Limburg bằng vải bông. Chàng bắt đau chậm rãi cởi quần áo, như một đấng quân vương, giữa đám hầu cận: chàng đưa từng chiếc áo bẩn cho người chủ quán trọ và những người hầu phòng, chiếc quần lụa dính máu bết vào da thịt phải dùng kéo cắt ở phía ngoài hai bên ống quần, chàng ngâm chân khá lâu trong cái chậu rửa bằng bạc, người ngả trên một chiếc ghế bành, lim dim ngủ vì mệt mỏi, nom tã tượi và thế thảm. Thỉnh thoảng chàng chợt ngủ trong một khoảnh khac, lẩm bẩm, hét lên một tiếng. Balbi, ông chủ quán, những người hầu phòng há miệng đi đi lại lại quanh chàng: người ta đang trải giường trong buồng ngủ, kéo kín các rèm cửa, tắt gần hết nến. Đến giờ ăn tối họ gõ cửa rất lâu. Sau bữa ăn chàng lại đi ngủ ngay; chàng ngủ đến trưa ngày hôm sau, với gương mặt vô tư và bình thản, lạnh lùng như người mới chết một ngày. Một đức ông, các cô gái bảo nhau rồi ai vào việc nay, khe khẽ hát, cười và thầm thì với nhau, trong bếp và dưới hầm, họ đi rửa xe và lau bát đĩa, chẻ củi, mang nước uống, họ nói nhỏ hơn, đưa ngón tay che miệng, lại khúc khích cười, rồi lại làm mặt nghiêm và truyền nhau cái tin ấy, vẻ quan trọng và cười cợt: một đức ông, đúng, một đức ông, từ Venice. Đến tối thì có hai viên cớm chìm đến quán; tên chàng, đáng ngờ và quyến rũ, hấp dẫn và nguy hiểm, vừa được mạ vàng bởi tin tức về cuộc phiêu lưu lớn, cuộc tẩu thoát, đã thu hút đám mật vụ ở khắp các thành phố. Và họ muốn biết tất cả. Hắn ta ngủ ư?... Không có hành lý gì à? -      Một con dao găm, - chủ quán nói. - Ông ta đến với một con dao găm. Chỉ có thế. -      Một con dao găm, - họ nhắc lại, vẻ am hiểu và ngơ ngác. - Loại dao gì thế? - họ căn vặn. -      Dao găm Venice, - chủ quán đáp vẻ hâm mộ. -      Không còn gì khác? - họ hỏi. -      Không, - chủ quán trọ đáp. - Không có gì khác. Một con dao găm. Chỉ có thế. Tin này làm hai viên cớm chìm bất ngờ. Họ đã không ngạc nhiên nếu chàng tới đây với đầy chiến lợi phẩm, đá quý, túi đựng, vòng cổ và nhẫn quý tháo ra từ ngón tay của những phụ nữ nhà lành trên dọc đường đi. Tiếng tăm chàng đã đến trước, như một kẻ dẫn ngựa đi tiền trạm, và bố cáo tên chàng. Sáng ra đức giám mục đã thông báo cho viên chánh cẩm, và yêu cầu trục xuất ngay vị khách nguy hiểm. Ở Tirol và Lombardia, buổi sáng sau lễ cầu kinh, buổi tối trong các quán rượu, người ta đã kể cho nhau nghe về cuộc tẩu thoát của chàng. -      Hãy cẩn thận với hắn! - đám cớm chìm nói. - Chúng tôi muốn biết hết hắn nói gì. Phải rất chú ý hắn. Hắn có nhận thư không, và nhận từ ai? Hắn có gửi thư không, và gửi cho ai? Hãy để ý đến nhất cử nhất động của hắn! Hình như, - họ thì thầm, dùng bàn tay chụm lại làm loa ghé sát vào tai ông chủ quán, - hắn có người che chở. Cả đức giám mục cũng chẳng làm gì nổi hắn. -      Trước mắt, - ông chủ quán nói với vẻ từng trải. -      Trước mắt, - những tay cớm chìm buồn bã nhắc lại. Rồi họ nhón chân bỏ đi, gương mặt bí hiểm và đầy lo âu. Ông chủ quán ngồi xuống trong phòng nước, thở dài. Ông không thích những người khách có tiếng tăm, những người gây nên sự chú ý của đức giám mục và cảnh sát. Ông nghĩ tới đôi mắt của vị khách, đen ánh lửa tăm tối và than hồng bập bùng uể oải trong đôi mắt ấy, và ông sợ. Ông nghĩ đến con dao găm, con dao găm Venice, đồ vật duy nhất của người khách, và ông sợ. Ông nghĩ đến tin tức theo sau vị khách, và bắt đầu rủa thầm. -      Teresa! - ông cáu kỉnh gọi. Một cô gái, đã bận áo khoác ngoài buổi tối, bước vào. Cô mười sáu tuổi, một tay cầm cây nến đang cháy, tay kia kéo hai vạt áo ngủ trước ngực. -      Nghe đây! - ông thì thầm, bảo cô bé ngồi xuống gối. - Ta chỉ tin con thôi. Chúng ta có một vị khách nguy hiểm. Teresa, ông khách này... -      Từ Venice đến? - cô bé nói giọng học trò, như hát. -      Đúng, từ Venice, từ Venice, - ông nói hốt hoảng. - Từ trong tù. Từ lũ chuột. Từ dưới giá treo cổ. Nghe đây, Teresa. Hãy chú ý xem ông ta nói những gì. Tai mắt con hãy luôn luôn ở cạnh lỗ khóa. Ta yêu con như con gái ta. Con là con nuôi ta; nhưng nếu ông ta gọi vào phòng thì con đừng ngại. Con sẽ đem bữa sáng cho ông ấy. Hãy coi chừng đức hạnh của con và hãy chú ý. -      Vâng, - cô bé đáp. Rồi vẫn cầm cây nến trên tay, cô bé đi về phía cửa, nhẹ nhàng như một cái bóng. Đến trước cửa, cô bé than, kéo dài giọng như giọng trẻ con: -      Cháu sợ. -      Ta cũng thế, - ông chủ quán nói. - Giờ con đi ngủ đi. Trước đó hãy đem cho ta rượu vang đỏ. Nhưng đêm đầu tiên tất cả đều trằn trọc.   Mời các bạn đón đọc Casanova Ở Bolzano của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).
Cuốn Sổ Vàng
Lần đầu tiên được xuất bản năm 1962 và hiện đã trở thành một trong các tác phẩm vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi, Cuốn Sổ Vàng là câu chuyện của Anna Wulf, một người mẹ đơn thân với hàng loạt các mối quan hệ bế tắc, một nhà văn từng thành danh nhưng hiện cũng bế tắc với một cuốn tiểu thuyết dở dang. Sợ mình phát điên, cô đã ghi lại các trải nghiệm của mình trong bốn cuốn sổ có màu khác nhau. Nhưng cuốn sổ thứ năm, Cuốn Sổ Vàng, mới là thứ kết nối các mảnh cuộc sống của cô lại và là chìa khóa giúp cô bình phục về mặt tinh thần. Cuốn tiểu thuyết đồ sộ này là hành trình nội tâm của Anna qua những mảnh vỡ của bản thân trong một thế giới cũng đang tan rã: Tình yêu, tự do, cái chết, tín điều, đặt giữa hỗn loạn các hệ tư tưởng, trong tiếng ầm ì của chiến tranh, mối đe dọa hủy diệt của bom H, quá trình phi thực dân hóa của nước Anh, sự hình thành của các quốc gia mới. Phức tạp nhưng vẫn thanh tú đến kỳ lạ, tác phẩm dẫn người đọc theo bước Anna đến những trang cuối cùng, không phải tới một đáp án toàn năng cho toàn bộ các vấn đề của cá nhân và nhân loại, mà khả thi hơn thế, dễ chịu hơn thế, tới một chút khai sáng, cảm giác mới mẻ như vừa tái sinh, khi nhận ra những thất bại và thiếu sót trong quá khứ, cả hỗn loạn của hiện tại hay u ám của tương lai, vẻ đẹp và sự phù phiếm của chúng, tất cả đều đáng giá từng giây ta sống trên đời. *** Doris May Lessing (1919-2013) là nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch người Anh từng được trao giải Nobel Văn chương năm 2007. Bà là người lớn tuổi nhất khi được trao giải thưởng cao quý này. Bà cũng từng được trao giải David Cohen cho thành tựu trọn đời đóng góp cho nền văn học Anh và đứng thứ 5 trong danh sách “50 nhà văn Anh vĩ đại nhất kể từ năm 1945”. *** Tiểu thuyết “Cuốn sổ vàng” của nhà văn Doris Lessing, đạt giải Nobel Văn chương năm 2007, được liệt vào hạng kinh điển làm đau đầu không biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc với một nỗi băn khoăn rất thực tế và rất hãi hùng: Ai và tại sao lại xếp nó vào kinh điển? Bởi câu hỏi ấy được khởi từ một khổ sở khác, thực tế không kém, Làm nào vượt qua được nỗi chán ngán vô tận để không vứt luôn cuốn sách từ hai chục trang đầu tiên? Sau rất nhiều nghị lực, tôi nghĩ mấu chốt nằm ở điểm này, xin trích lại lời của chính nhân vật chính, nhà văn Anna Wulf, trong một buổi sinh hoạt văn chương định hướng của Đảng, “điều tôi thấy quan trọng nhất, đó là câu chuyện đó có thể đọc theo lối giễu nhại, mỉa mai, hay nghiêm túc đều được.” Quả đúng như thế, “Cuốn sổ vàng” hoàn toàn có thể là một câu chuyện nửa nghiêm nửa nhại về những người phụ nữ tự nhận mình là tự do đầy nhiệt huyết cách mạng lang chạ với Chủ nghĩa cộng sản và đàn ông có vợ, với văn chương và ngôn ngữ. Song song với những cú đánh đu đó, lại là những ham muốn và lo lắng không bao giờ được giải đáp, kéo theo những hao tổn về tinh thần xuống đáy hố của điên loạn. Trước hết, “Cuốn sổ vàng” là một công trình đầy tham vọng về một đại tiểu thuyết mô tả cả một giai đoạn lịch sử những năm 1950 của nước Anh của những phụ nữ trung lưu không còn bị ràng buộc về những chuẩn mực giới tính. Ngay trong lời nói đầu cuốn sách, tác giả đã ấp ủ mình sẽ thành công hơn George Eliot, để sánh ngang Tolstoy và Stendhal, là một điểm bùng nổ, một bước ngoặc trong truyền thống văn chương Anh, khi phản ánh được hiện thực như hai tác gia kia đã làm với, lần lượt, Nga và Pháp. Dẫu có chối bỏ và nổi giận với những bài phê bình về sách của mình, một việc Lessing làm hơi bị thường xuyên, thì tiểu thuyết này đầu tiên và thứ đến, đề cập đến phong trào phụ nữ, và phòng trào của phụ nữ tham gia Chủ nghĩa xã hội. Và tiếp đến nữa, có lẽ, là quan hệ con người. Nhân vật chính của “Cuốn sổ vàng” là Anna Wulf, một nhà văn từng có tiểu thuyết đầu tay nổi tiếng “Những biên giới chiến tranh”, một bà mẹ đơn thân, Đảng viên, chơi thân với Molly một diễn viên chưa nổi, cũng li dị và cũng đơn thân, hay cãi nhau với Richard, chồng cũ của Molly, yêu Michael, một đàn ông có vợ, để rồi bị ruồng bỏ, tuyệt vọng, và quan trọng hơn, đang rơi vào trạng thái tắc tị không sáng tác được. Ấy vậy mà, Anna vẫn ghi chép đều và không mệt mỏi, những trải nghiệm của cá nhân, vào bốn cuốn sổ, phân theo các màu khác nhau. Đủ cả, như Lessing đã tóm tắt, “Ràng buộc. Tự do. Tốt. Xấu. Có. Không. Tư bản chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa. Tình dục. Tình yêu…” Tưởng như phân định được rạch ròi, như cách định vị của ngôn ngữ, bằng cách dùng một phần gọi là “Phụ nữ tự do” như một sợi chỉ đỏ cho người đọc lần theo, Anna phân cho cuốn sổ màu đen là những trang viết năm tháng 1940 ở châu Phi nơi cô sinh hoạt Đảng cùng một nhóm trung lưu phù phiếm khác, cuốn sổ màu đỏ ghi chép sinh hoạt Đảng của Anna ở Anh nơi cô dần thất chủ nghĩa Cộng sản là một cái giếng cạn khô, cuốn sổ màu vàng là cuốn tiểu thuyết ngoại tình nơi Anna lấy chính mình làm cảm hứng và nhân vật mẫu, còn cuối sổ màu xanh là những ghi chép thường nhật và những giấc mơ. Anna đã tách rời bốn cuốn sổ nhưng rồi trên thực tế chúng lại ới ời gọi nhau, với những cấu trúc song song, của đầy những ngổn ngang, ẩn ức, bất an, rối loạn, sụp đổ, của chính Anna Wulf. Các trải nghiệm của Anna, tuy bị ràng buộc bởi cái lực duy lí là tách biệt để tránh sự hỗn độn, lại vòng vo và rối như tơ vò, bện chặt tất cả lại với nhau, các hiện thân của Anna, các hiện thực khác, các cuộc đời và các tinh thần khác. Những cái tôi vừa giống vừa khác Anna, được kể bằng các phong cách, điểm nhìn, giọng văn, khác nhau, ở các cuốn sổ, cho phép độc giả và chính nhà văn trải nghiệm những gì mà Anna không thể trải nghiệm và hiểu được Anna ở nhiều khía cạnh hơn. Những mảnh tự sự này giúp cấu trúc một nhân cách nhiều mặt ở Anna và cũng là tham vọng kiến tạo một sự hoàn chỉnh mang tính chất hồi phục và hướng tới ổn định, mạch lạc và gắn kết, khi Anna ghép bốn cuốn sổ thành một. Nhưng liệu đây có phải là một niềm tin đầy ảo tưởng khác của Anna, rằng trật tự chống lại được hỗn loạn? Như bao ảo tưởng đã mai một, như chủ nghĩa cộng sản, như Phụ nữ tự do. Chính ở bốn cuốn sổ với hình thức truyện lồng trong truyện này mà người đọc nhận ra tham vọng vượt quá những giới hạn của văn chương của Lessing: không kiến tạo những định danh rạch ròi của trải nghiệm, và đẩy cao sự nhập nhằng giữa tiểu thuyết và sự thật, và vì thế tạo nên sự đọc đa dạng. Sự phân tách thành các mảnh tự sự, với một sự nghiêm túc hiếm có nhưng lại kể những câu chuyện lố bịch đến khó hiểu, mà cuốn tiểu thuyết đã xuất bản của chính Anna là một minh chứng: bối cảnh một châu Phi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nơi những con người không thuộc giới cần lao sinh hoạt Đảng đi kèm với sinh hoạt tình dục, với tiệc tùng và khiêu vũ. Trở lại London, đời sống của Anna cũng không thay đổi nhiều lắm, với đồng chí anna và đồng chí molly làm tình với đồng chí michael và đồng chí Ella làm tình với đồng chí Paul và nhiều đồng chí khác nữa. Tình cảm của phụ nữ trong “Cuốn sổ vàng” thì lên xuống như thủy ngân, khi có giai đoạn họ nhăng nhít với cộng sản một cách nghiêm túc, và khi họ dè nhau phải cẩn thận để không chuyển sang căm ghét Đảng. Và đây chính là một điểm quan trọng của “Cuốn sổ vàng” sự mâu thuẫn không bao giờ giải quyết được, sự phi lý đến từ nhân vật, cho đến hình thức của cuốn tiểu thuyết, bằng một giọng văn vừa chân thành, vừa lấp ló nhài nhại phù phiếm. Anna là hiện thân của một mẫu hình giới nữ, với những đau khổ dằn vặt thường nhật của yêu và không được yêu, của làm tình cực khoái và không cực gì cả, của cãi cọ và làm hòa, của buồn khổ chán chường, tuyệt vọng và hy vọng. Quan trọng hơn, của không thể giải thích, không thể hiểu, không thể tự thoát, mối trầm cảm không kiểm soát, để cuối cùng chính Anna nhận ra, vấn đề của cô, là không biết hạn chế cảm xúc. Với tham vọng như tiểu thuyết lịch sử, được sắp xếp theo trình tự thời gian, cuốn tiểu thuyết này của Lessing, trình bày các mối quan hệ bằng một lối viết chân thực ròng rã, của những trang viết dài dòng về làm tình và hành kinh, như thể đối chọi là với James Joyce và đại tiện. Giọng văn đều đều như máy khoan, chi tiết và cụ thể, phân tách và chì chiết, chảy hết từ tâm trạng này sang tâm trạng khác của nhân vật chính, trôi từ người tình này sang người tình kia, cuốn từ cuộc họp Đảng này sang cuộc họp Đảng khác, không sự kiện, không kịch tích, không giải trí, như năm tháng, như cuộc đời của Anna và Molly. Cho đến một ngày, truyện đột ngột kết thúc, không báo trước, không trông đợi, không gây hấn, với quyết định của nhân vật là trở thành anh của mọi nhà là em của mọi kiếp phôi pha. Bật lên trên cái nền đầy chán ngán này, là những trải nghiệm phụ nữ trong mối quan hệ đàn ông đàn bà nơi đàn bà thì liên tục thèm muốn cần chở che cần được yếu ớt còn đàn ông thì thù địch chối từ mọi nhu cầu của đàn bà. Anna Wulf nằm ở cái nan đề giữa là một người đàn bà ý thức rõ cái tình thế tiến thoái lưỡng nan kia và việc là một người đàn bà bình thường không chối lại cái tình thế đó, không giải phóng mình ra khỏi đó. *** Cuốn tiểu thuyết này được sắp xếp như sau: Có một bộ xương, hoặc bộ khung, tên là Phụ nữ tự do, là một tiểu thuyết ngắn viết theo lối truyền thống dài khoảng 60.000 từ, có thể đứng độc lập được. Nhưng nó được chia thành năm đoạn, xen giữa là các phần của bốn cuốn sổ có bìa màu đen, đỏ, vàng và xanh dương. Các cuốn sổ này thuộc về Anna Wulf, nhân vật trung tâm của Phụ nữ tự do. Cô viết vào bốn chứ không phải một cuốn bởi vì, như cô thừa nhận, cô phải tách rời các thứ với nhau, vì sợ sự hỗn loạn, sự vô định hình - sợ sụp đổ. Áp lực, từ bên trong lẫn bên ngoài, đã khép lại các cuốn sổ; một dòng đen đậm được kẻ ngang trang giấy từ cuốn này sang cuốn khác. Nhưng giờ khi bốn cuốn sổ đã kết thúc, từ các mảnh vỡ của chúng có thể xuất hiện một thứ mới mẻ, Cuốn Sổ Vàng. Từ đầu đến cuối các cuốn sổ, các nhân vật đã đưa ra những lời bàn luận, giả thuyết, giáo điều, dán nhãn, chia ngăn - đôi khi bằng một giọng chung chung và tiêu biểu cho thời đại tới mức họ trở thành ẩn danh, bạn có thể đặt cho họ những cái tên như trong các vở kịch luân lý thời trước, ông Giáo-Điều và ông Tôi-Tự-Do-Bởi-Vì-Tôi-Chả-Thuộc-Về-Nơi-Nào-Cả, cô Tôi-Phải-Có-Được-Tình-Yêu-và-Hạnh-Phúc và bà Tôi-Phải-Giỏi-Trong-Mọi-Việc-Tôi-Làm, ông Phụ-Nữ-Đích-Thực-Ở-Đâu? và cô Đàn-Ông-Đích-Thực-Ở-Đâu?, ông Tôi-Điên-Vì-Người-Ta-Bảo-Vậy, và cô Cuộc Đời-Qua-Trải-Nghiệm-Mọi-Việc, ông Tôi-Làm-Cách-Mạng-Vì-Vậy-Tôi-Tồn-Tại, và ông bà Nếu-Chúng-Ta-Xử-Lý-Tốt-Vấn-Đề-Nhỏ-Này-Thì-Có-Lẽ-Chúng-Ta-Có-Thể-Quên-Đi-Rằng-Chúng-Ta-Không-Dám-Nhìn-Vào-Những-Vấn-Đề-Lớn. Nhưng họ cũng phản ánh lẫn nhau, là các mặt của nhau, khai sinh ra suy nghĩ và hành vi của nhau - là nhau, tạo thành các chỉnh thể. Trong Cuốn Sổ Vàng bên trong cuốn sách này, tất cả đã tập hợp lại, mọi ngăn cách bị phá vỡ, tình trạng phân mảnh chấm dứt để lại sự vô định hình - sự chiến thắng của chủ đề thứ hai, tức là thống nhất. Anna và tay người Mỹ Saul Green đều “đổ vỡ”. Họ điên, họ rồ, họ tâm thần - muốn dùng từ gì cũng được. Họ “vỡ” vào nhau, vào người khác, phá tan những mô hình giả dối họ dựng lên từ quá khứ của mình, những mô hình và công thức mà họ tạo ra để chống đỡ cho bản thân và cho nhau, họ tan rã. Họ nghe thấy ý nghĩ của nhau, nhận ra người kia trong chính mình. Saul Green, con người từng ghen tị và là tác nhân hủy diệt Anna, giờ ủng hộ cô, khuyên nhủ cô, gợi ý chủ đề cho cuốn sách thứ hai của cô, Phụ nữ tự do- một cái tên mỉa mai, mở đầu bằng: “Chỉ có hai người phụ nữ trong căn hộ ở London.” Và Anna, từng ghen vì Saul đến mức phát điên, chiếm hữu và đòi hỏi, đã cho Saul cuốn sổ mới xinh đẹp, Cuốn Sổ Vàng, mà trước đó cô đã từ chối không cho, gợi ý cho anh chủ đề mới cho cuốn sách tiếp theo của anh, viết vào đó câu đầu tiên: “Trên một sườn đồi khô ráo ở Algeria, người lính ngắm ánh trăng lấp lánh trên khẩu súng trường.” Trong Cuốn Sổ Vàng bên trong Cuốn Sổ Vàng, do cả hai cùng viết, không còn phân biệt nổi đâu là Saul và Anna, hoặc đâu là họ và đâu là những người khác trong cuốn sách. Chủ đề “sụp đổ” này - rằng đôi lúc khi người ta “đổ vỡ” đấy cũng là một cách chữa lành bản thân, cách mà bản thể nội tại gạt bỏ những lưỡng phân và chia rẽ sai lầm - từ đó đến nay đã được nhiều người khác, cũng như chính bản thân tôi, đề cập tới. Nhưng nếu không tính đến vài cái truyện ngắn thi thoảng thì cuốn sách này là tác phẩm đầu tiên tôi viết về nó. Ở đây nó thô ráp hơn, gần với trải nghiệm thực hơn, trước khi trải nghiệm thực đã định hình thành ý nghĩ và mô hình - và có giá trị hơn có lẽ vì nó là nguyên liệu thô. Nhưng không ai để ý mấy đến chủ đề trọng tâm này, bởi vì cuốn sách này lập tức hoặc bị coi thường, bởi những nhà phê bình thân thiện cũng như thù địch, rằng nó chẳng qua chỉ viết về cuộc chiến giới tính, hoặc được những người phụ nữ chiếm lấy làm một thứ vũ khí hữu dụng trong cuộc chiến giới tính. Kể từ đó tôi ở vào một vị thế không thành thật, bởi vì từ chối ủng hộ những người phụ nữ không phải là một việc tôi muốn làm. Để chốt lại cái đề tài Giải phóng Phụ nữ này - tất nhiên là tôi ủng hộ phong trào đó, bởi vì phụ nữ là những công dân hạng hai, như người ta đang nói rất hay và rất hăm hở ở nhiều quốc gia. Có thể nói rằng họ đang thành công, dù thành công của họ chỉ đến mức là đang được nghiêm túc lắng nghe. Những người trước đây thù địch hoặc thờ ơ thì giờ đã nói: “Tôi ủng hộ mục tiêu của họ nhưng tôi không thích giọng nói the thé cũng như cái kiểu hành xử thô tục, xấu tính của họ.” Đây là một giai đoạn không thể tránh khỏi và dễ nhận thấy trong bất cứ phong trào cách mạng nào: những người cải cách phải chuẩn bị tinh thần bị chối bỏ bởi những người đang sung sướng hưởng thụ những thành quả mà họ đã giành được. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ rằng phong trào Giải phóng Phụ nữ sẽ thay đổi được nhiều - không phải là vì mục tiêu của nó có gì sai, mà vì rõ ràng là những biến cố mà chúng ta đang trải qua đang khiến cả thế giới rung chuyển thành một mô hình mới: có thể là khi chúng ta trải qua xong chặng này, nếu chúng ta sống sót được, những mục tiêu của Giải phóng Phụ nữ trông sẽ rất nhỏ bé và kỳ khôi. Những cuốn tiểu thuyết này không phải là tiếng kèn cổ vũ cho Giải phóng Phụ nữ. Nó mô tả nhiều cảm xúc của phụ nữ như hung hăng, thù địch, oán giận. Nó đưa chúng ra trang giấy. Rõ ràng là những gì mà nhiều phụ nữ vẫn đang nghĩ, cảm nhận, trải nghiệm, đã đem đến một niềm kinh ngạc lớn. Ngay lập tức rất nhiều vũ khí cổ xưa được đem ra, những món chính, như thường lệ, chính là các câu kiểu như “Cô ta chả đàn bà tí nào”, “Cô ta là một mụ ghét đàn ông”. Dường như phản xạ này không thể nào bị phá hủy. Đàn ông - và nhiều phụ nữ, từng nói rằng phụ nữ đòi quyền bầu cử đầu thế kỷ 20 là phi nữ tính, là nam tính, là đã nhiễm thói hung bạo. Tôi chưa đọc được một tài liệu nào nói về một xã hội trong đó phụ nữ đòi hỏi nhiều hơn những gì tự nhiên ban phát cho mà lại không ghi nhận phản ứng này từ phía đàn ông - và một số phụ nữ. Nhiều phụ nữ nổi giận với Cuốn Sổ Vàng. Những gì phụ nữ vẫn nói với những phụ nữ khác, cằn nhằn trong nhà bếp, phàn nàn, buôn chuyện hoặc bộc lộ qua cái cách họ sung sướng với nỗi khổ của mình, lại không phải là những gì họ muốn nói lớn thành tiếng - vì sợ đàn ông có thể nghe lỏm thấy. Phụ nữ hèn nhát như thế bởi vì họ đã sống gần như là nô lệ trong thời gian quá dài. Số phụ nữ sẵn sàng đứng lên bảo vệ những gì họ thực sự nghĩ, cảm nhận, trải nghiệm với người đàn ông họ yêu vẫn còn ít ỏi. Hầu hết phụ nữ vẫn sẽ bỏ chạy như những chú cún con bị ném đá khi đàn ông nói: Em không nữ tính, hung hăng, em đang làm mất hết nam tính của anh. Tôi tin rằng bất cứ phụ nữ nào kết hôn với một anh chàng sử dụng kiểu đe dọa này, hoặc đặt niềm tin vào anh ta theo một cách nào đó, đều xứng đáng với những gì cô ta nhận được. Vì đàn ông như thế chỉ là một kẻ ức hiếp người khác, không biết gì về thế giới anh ta đang sống, hoặc về lịch sử của nó - đàn ông và phụ nữ đảm nhiệm vô số vai trò trong quá khứ, và cả hiện tại, trong các xã hội khác nhau. Vì vậy nên anh ta hoặc dốt nát, hoặc sợ bị lạc loài - một tên hèn… Tôi viết tất cả những nhận xét này bằng đúng cái cảm giác như thể tôi đang viết thư gửi vào quá khứ xa xôi: Tôi chắc chắn rằng mọi thứ chúng ta bây giờ coi là đương nhiên, sẽ bị quét sạch trong thập kỷ sau. (Thế thì tại sao lại viết tiếu thuyết? Thật sự đấy, tại sao! Tôi đồ rằng chúng ta phải tiếp tục sống như thể…) Một số cuốn sách không được đọc đúng cách bởi vì chúng đã nhảy cóc qua một giai đoạn phát triển quan điểm, giả định một sự kết tinh thông tin trong xã hội mà thực tế vẫn chưa xảy ra. Cuốn sách này được viết như thể mọi thái độ mà các phong trào Giải phóng Phụ nữ tạo ra đã tồn tại trong thực tế. Lần đầu tiên nó xuất hiện là cách đây ngót mười năm, 1962. Nếu ra mắt bạn đọc vào thời điểm hiện tại, có lẽ người ta sẽ thực sự đọc nó chứ không chỉ đơn thuần là phản ứng lại: tình hình đã thay đổi rất nhanh. Một số thói đạo đức giả nhất định đã biến mất. Chẳng hạn, mười, hoặc thậm chí năm, năm trước - một thời nổi loạn về mặt tình dục - tiểu thuyết và kịch được viết rất nhiều bởi những anh đàn ông giận dữ chỉ trích phụ nữ - đặc biệt là ở Mỹ, nhưng ở cả đất nước này cũng có - được mô tả như những người thích gây hấn và phản bội, nhưng đặc biệt là phá hoại và đào mỏ. Nhưng những thái độ này ở các nhà văn nam lại được coi là đương nhiên, được chấp nhận như là một cơ sở triết học đúng đắn, một điều khá bình thường, và chắc chắn không bị coi là ghét phụ nữ, hung hăng, hay loạn thần kinh. Điều này vẫn tiếp diễn, tất nhiên - nhưng mọi chuyện đã tốt hơn, không có gì phải nghi ngờ cả. Tôi chìm đắm vào việc viết cuốn sách này đến nỗi không nghĩ đến cảnh nó sẽ được đón nhận như thế nào. Tôi toàn tâm toàn ý với nó không chỉ đơn thuần là vì cuốn sách này khó viết - giữ dàn ý trong đầu, tôi viết liền tù tì từ đầu đến cuối, một việc không hề đơn giản - mà vì thứ tôi học hỏi được trong lúc viết. Có thể là bằng việc đưa ra cho bản thân một cấu trúc chặt chẽ, quy định những giới hạn cho bản thân, ta sẽ vắt ra được chất liệu mới nơi ít mong đợi nhất. Đủ loại ý tưởng và trải nghiệm mà tôi không nhận ra là của mình đã nổi lên khi viết. Vì thế, thời gian viết thực tế, chứ không chỉ những trải nghiệm đã đi vào việc viết lách ấy, thực sự là một kinh nghiệm có tính sang chấn: nó khiến tôi thay đổi. Bước ra từ quá trình kết tinh này, giao bản thảo cho nhà xuất bản và bạn bè xong, tôi được nói cho biết rằng mình đã viết một luận văn về cuộc chiến giới tính, và nhanh chóng khám phá ra rằng bất kể tôi nói gì cũng chẳng thể nào thay đổi được nhận định đó. Nhưng cốt lõi của cuốn sách, cách thức tổ chức của nó, mọi thứ trong đó, đã nói một cách cả thẳng thắn và ngầm ẩn rằng chúng ta không được tách rời mọi thứ, không được chia ngăn. “Ràng buộc. Tự do. Tốt. Xấu. Có. Không. Tư bản chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa. Tình dục. Tình yêu…” Anna nói, trong Phụ nữ tự do, tuyên bố chủ đề của cuốn sách - gào lên, trống giong cờ mở thông báo một mô típ xuyên suốt… hoặc là tôi tưởng tượng như vậy. Cũng như khi tôi tin rằng trong một cuốn sách có tên Cuốn Sổ Vàng, cái phần bên trong đặt trùng tên với nó có thể được cho là tâm điểm, mang theo sức nặng của toàn bộ cuốn sách, và đưa ra một tuyên bố. Nhưng không. Còn có nhiều chủ đề khác cũng đi vào cuốn sách này, với tôi đây là một thời điểm quan trọng: những suy nghĩ và chủ đề mà tôi vẫn đang giữ trong đầu nhiều năm nay giờ đã được nối vào với nhau. Một trong số đó là không thể tìm thấy cuốn tiểu thuyết nào mô tả môi trường trí thức và đạo đức cách đây một trăm năm, vào khoảng giữa thế kỷ vừa qua, ở nước Anh, theo cách mà Tolstoy làm cho nước Nga, Stendhal làm cho nước Pháp. (Đến đây cần phải đưa ra những lời tạ sự không tránh được.) Đọc Đỏ và Đenvà Lucien Leuwen là biết về nước Pháp như thể ta đang sống ở đó, đọc Anna Karenina là biết nước Nga khi đó. Nhưng một cuốn tiểu thuyết thời Victoria rất hữu ích như vậy lại không bao giờ được viết nên. Hardy cho chúng ta biết cảm giác thế nào khi người ta nghèo, khi có một trí tưởng tượng lớn hơn những gì một thời đại chật hẹp như vậy cho phép, khi làm một nạn nhân. George Eliot, trong phạm vi của mình, cũng rất hay. Nhưng tôi nghĩ hình phạt mà bà phải trả giá khi làm một phụ nữ thời Victoria là bà vẫn phải tỏ ra là một phụ nữ tốt, ngay cả khi bà không “tốt” nếu chiếu theo những tiêu chuẩn đạo đức giả của thời đó - có rất nhiều điều bà không hiểu bởi vì bà chú trọng đạo đức. Meredith, nhà văn bị đánh giá thấp một cách đáng kinh ngạc, có lẽ gần đạt được điều này nhất. Trollope thử đề tài này nhưng thiếu tầm. Không có lấy một cuốn tiểu thuyết nào có đủ khí lực và thể hiện được sự xung đột giữa các tư tưởng đương thời như trong một cuốn tiểu sử đàng hoàng về William Morris. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sổ Vàng của tác giả Doris Lessing & Lê Khánh Toàn (dịch).