Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thương Lượng Không Nhân Nhượng

Cho dù thích hay không, bạn vẫn là một nhà đàm phán. Đàm phán là thực tế của cuộc sống. Bạn đàm phán việc tăng lương với sếp. Bạn cố gắng thỏa thuận với một người về giá cả ngôi nhà của anh ấy. Hai vị luật sư đã nỗ lực giải quyết vụ án phát sinh từ vụ tai nạn ô tô. Một nhóm các công ty dầu lửa lên kế hoạch thành lập công ty liên doanh khai thác dầu ngoài khơi. Một quan chức thành phố họp với lãnh đạo nghiệp đoàn để ngăn chặn cuộc bãi công. Ngoại trưởng Hoa Kỳ cùng ngồi với người đồng cấp Liên Xô để tìm cách thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân. Tất cả những việc này đều là đàm phán. Hằng ngày, ai cũng đàm phán điều gì đó. Cũng giống như ngài Jourdain của Molière, người sung sướng nhận ra mình đã nói văn xuôi suốt cả cuộc đời, mọi người đàm phán ngay cả khi họ không nghĩ là mình đang làm vậy. Bạn đàm phán với vợ/chồng về việc đi đâu để ăn tối và thỏa thuận với con cái lúc nào thì tắt đèn đi ngủ. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được điều bạn muốn từ người khác. Đây là quá trình trao đổi qua lại nhằm tiến tới thỏa thuận khi bạn và đối phương có cùng lợi ích hay mâu thuẫn quyền lợi với nhau. Ngày càng có nhiều trường hợp đòi hỏi phải tiến hành đàm phán và tránh được xung đột là một kỹ nghệ phát triển. Mọi người đều muốn tham gia vào những quyết định có ảnh hưởng đến họ; chẳng mấy ai chịu chấp nhận quyết định do người khác đưa ra. Không ai giống ai và con người dùng đàm phán để giải quyết sự bất đồng. Dù trong doanh nghiệp, chính phủ hay gia đình thì hầu hết mọi người đều ra quyết định thông qua đàm phán. Ngay cả khi ở tòa án, gần như người ta luôn đàm phán cách giải quyết trước khi xét xử. Mặc dù đàm phán diễn ra hằng ngày, nhưng để làm tốt việc này thì lại thật không dễ. Các chiến lược đàm phán thường khiến mọi người thấy không hài lòng, kiệt sức, bị xa lánh – hoặc thường xuyên có cả ba cảm giác này. Con người thường thấy bản thân rơi vào những tình thế khó xử. Họ có hai cách để đàm phán: Mềm dẻo hoặc cứng rắn. Những nhà đàm phán mềm dẻo thường muốn tránh xung đột cá nhân, vì vậy, họ sẵn sàng nhân nhượng để đạt được thỏa thuận. Những người này muốn tiến tới hòa giải; tuy vậy, rốt cuộc họ thường bị lợi dụng nên cảm thấy rất cay đắng. Những nhà đàm phán cứng rắn lại cho rằng mọi tình huống là sự thử thách ý chí, ở đó, bên nào có lập trường cực đoan hơn và giữ miếng lâu hơn sẽ có chiếm ưu thế. Họ muốn giành thắng lợi; tuy vậy, họ thường kết thúc cuộc đàm phán bằng việc tạo ra sự phản ứng không kém phần cứng rắn, gây cạn kiệt sức lực và phương hại tới mối quan hệ với phía bên kia. Các chiến lược đàm phán phổ biến khác nằm giữa loại chiến lược mềm dẻo và loại cứng rắn, nhưng mỗi chiến lược này thường hướng tới sự thỏa hiệp giữa việc đạt được điều bạn muốn và giữ hòa khí với mọi người. Cách đàm phán thứ ba, không thiên về cứng rắn hay mềm dẻo, mà là vừa cứng rắn vừa mềm dẻo. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc được xây dựng trong Dự án Kỹ năng đàm phán của Harvard nhằm giải quyết vấn đề trên cơ sở giá trị chứ không thông qua việc tập trung vào những gì mỗi bên nói sẽ làm hay không làm. Phương pháp này khuyên bạn nên tìm kiếm lợi ích chung bất cứ lúc nào có thể và khi có xung đột về lợi ích thì bạn nên yêu cầu kết quả phải dựa trên cơ sở một số tiêu chuẩn bình đẳng nhất định độc lập với ý chí của hai bên. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cứng rắn về giá trị nhưng mềm dẻo về vấn đề con người. Phương pháp này không dùng thủ đoạn và điệu bộ. Nó cho bạn biết cách đạt được điều bạn đáng được hưởng mà vẫn tỏ ra lịch thiệp. Nó cho phép bạn cư xử công bằng và bảo vệ bạn chống lại những kẻ nhăm nhe lợi dụng sự ngay thẳng của bạn. Cuốn sách này bàn về phương pháp đàm phán trên nguyên tắc. Chương thứ nhất mô tả những vấn đề phát sinh trong việc áp dụng các chiến lược tiêu chuẩn của kiểu đàm phán quan điểm lập trường. Bốn chương tiếp theo trình bày bốn nguyên tắc của phương pháp đàm phán theo nguyên tắc. Ba chương cuối giải đáp những câu hỏi thường được nêu lên: Điều gì sẽ xảy ra nếu phía bên kia mạnh hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ không tuân thủ luật chơi? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ gian dối. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được nhà ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng ở trong các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, khi các luật sư Phố Wall đại diện cho 500 công ty trên Tạp chí Fortune tranh tụng trong các vụ kiện chống độc quyền; và được các cặp vợ chồng dùng để quyết định mọi việc, từ việc đi nghỉ ở đâu cho đến phân chia tài sản như thế nào nếu họ ly dị. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng phương pháp này. Không có cuộc đàm phán nào giống nhau, nhưng những yếu tố cơ bản của nó thì không thay đổi. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc có thể được sử dụng để giải quyết một hay nhiều vấn đề; có hai hay nhiều bên tham gia; dù có trình tự được quy định như trường hợp đàm phán tập thể hay không được chuẩn bị trước trong đàm phán với không tặc. Phương pháp này được áp dụng cho dù phía bên kia có nhiều kinh nghiệm hơn hay ngược lại, dù họ là kẻ không khoan nhượng hay là người ôn hòa. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc là một chiến lược áp dụng được cho mọi mục đích. Không giống với phần lớn các chiến lược khác, nếu phía bên kia cũng lĩnh hội được phương pháp này, nó sẽ trở nên dễ sử dụng hơn. Và nếu họ cũng đọc cuốn sách này thì tất cả đều có lợi. *** Đừng bàn cãi về quan điểm Dù là cuộc đàm phán về hợp đồng, cuộc tranh cãi trong gia đình hay thỏa thuận hòa bình giữa các quốc gia, thông thường người ta vẫn hay bàn cãi về vấn đề quan điểm. Mỗi bên đều có lập trường riêng, lập luận để bảo vệ nó và nhân nhượng nhằm đạt được thỏa hiệp. Ví dụ cổ điển về kiểu đàm phán này là cuộc mặc cả diễn ra giữa khách hàng và chủ cửa hàng đồ cũ: Và cuộc mặc cả cứ thế tiếp tục. Có thể họ sẽ đạt được thỏa thuận nhưng cũng có thể không. Mọi phương pháp đàm phán đều có thể được đánh giá công bằng qua ba tiêu chí: Phương pháp này phải mang lại thỏa thuận khôn ngoan nếu có thể, nó phải hiệu quả và cải thiện được hay chí ít thì cũng không làm phương hại đến mối quan hệ giữa hai bên. (Thỏa thuận khôn ngoan được định nghĩa là thỏa thuận đáp ứng quyền lợi hợp pháp của mỗi bên tới mức có thể, giải quyết được xung đột lợi ích hợp lý, lâu bền và có cân nhắc đến lợi ích cộng đồng.) Hình thức đàm phán phổ biến nhất được minh họa bằng ví dụ trên, phụ thuộc vào việc thay phiên nhau đưa ra các lập trường – và sau đó lại từ bỏ các lập trường này. Việc đưa ra các quan điểm, như người khách và chủ cửa hiệu trên, có tác dụng phục vụ cho một số mục đích hữu ích nhất định trong đàm phán. Nó cho phía bên kia biết bạn muốn gì; tạo ra điểm bấu víu trong tình huống không chắc chắn và căng thẳng; và cuối cùng đi đến các điều khoản trong một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Nhưng có nhiều cách khác để đạt được. Việc mặc cả về lập trường không thỏa mãn các tiêu chí cơ bản để mang lại thỏa thuận khôn ngoan, hiệu quả và thân thiện. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM CHỈ MANG LẠI NHỮNG THỎA THUẬN THIẾU KHÔN NGOAN Khi các nhà đàm phán mặc cả về quan điểm, họ thường tự giam mình trong những quan điểm này. Bạn càng làm rõ quan điểm của mình và bảo vệ nó khỏi bị tấn công thì bạn càng dính chặt vào nó. Bạn càng cố gắng thuyết phục phía bên kia rằng quan điểm ban đầu của bạn không thể thay đổi thì việc này càng khó có thể thực hiện được. Cái tôi của bạn trở nên đồng nhất với quan điểm của bạn. Bạn hiện có mối quan tâm mới về việc “giữ thể diện” – trong việc thống nhất giữa hành động ở tương lai với lập trường trong quá khứ – khiến khả năng đạt được thỏa thuận nào đó hòa hợp với lợi ích ban đầu của các bên một cách khôn ngoan ngày càng khó thực hiện. Nguy cơ tranh cãi về vấn đề lập trường sẽ cản trở tiến trình đàm phán. Ví dụ điển hình là sự đổ vỡ cuộc đàm phán về việc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện dưới thời Tổng thống John F. Kennedy. Vấn đề then chốt nảy sinh: Liên Xô và Hoa Kỳ nên được phép thực hiện bao nhiêu cuộc thanh tra tại hiện trường mỗi năm trên phạm vi lãnh thổ nước kia để điều tra những sự kiện chấn động đáng ngờ? Cuối cùng, Liên Xô đồng ý tiến hành ba cuộc điều tra. Hoa Kỳ lại khăng khăng yêu cầu không dưới mười cuộc. Do vậy, các cuộc đàm phán này đã thất bại – do tranh cãi về quan điểm – mặc dù không bên nào hiểu liệu một “cuộc điều tra” sẽ chỉ gồm có một người đi xem xét lòng vòng trong một ngày hay có một trăm người soi mói bừa bãi trong một tháng. Các bên hầu như không nỗ lực xây dựng quy trình điều tra có thể dung hòa được sự quan tâm thẩm tra của Hoa Kỳ với mong muốn của cả hai bên về sự xâm phạm tối thiểu. Khi càng chú ý nhiều đến quan điểm thì người ta lại càng ít quan tâm đến việc đáp ứng những lo ngại cơ bản của các bên. Vì vậy, khó có thể tiến tới thỏa thuận dễ dàng. Các thỏa thuận đạt được lúc này chỉ phản ánh sự phân chia máy móc khoảng chênh lệch giữa những lập trường cuối cùng được đưa ra, chứ chưa phải là giải pháp được tính toán kỹ càng nhằm đáp ứng lợi ích hợp pháp của các bên. Kết quả đạt được thường là thỏa thuận ở mức thấp hơn so với mong muốn của hai bên. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀ KHÔNG HIỆU QUẢ Phương pháp đàm phán thông thường có thể mang lại thỏa thuận, như với trường hợp trả giá cho chiếc đĩa bằng đồng thau hoặc đi đến thất bại, như với trường hợp thống nhất số lượng cuộc điều tra tại hiện trường. Trong cả hai trường hợp, quá trình này đều mất nhiều thời gian. Thương thuyết theo lập trường tạo ra động cơ trì hoãn giải quyết vấn đề. Trong khi tranh cãi về vấn đề quan điểm, bạn cố gắng cải thiện cơ hội đạt được thỏa thuận nào đó có lợi cho mình bằng việc bắt đầu đàm phán với lập trường cực đoan, giữ khư khư quan điểm này, lừa gạt đối phương rằng đó chính là quan điểm thực sự của bạn và chỉ nhân bộ chút ít để giữ cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra. Và đối phương cũng làm điều tương tự. Mỗi yếu tố này đều có xu hướng cản trở việc nhanh chóng đạt được cách giải quyết. Các quan điểm ban đầu càng cực đoan và sự nhân nhượng càng ít đi thì mất càng nhiều thời gian và công sức để nhận ra thỏa thuận có thể đạt được hay không. Phương pháp đàm phán trên nguyên tắc cũng đòi hỏi phải có rất nhiều các quyết định riêng lẻ của từng cá nhân vì mỗi nhà thương thuyết quyết định đề nghị gì, bác bỏ gì và có thể nhân nhượng đến mức nào. Việc ra quyết định rất khó khăn và mất thời gian. Khi một quyết định không chỉ là việc phải nhượng bộ đối phương mà còn là sức ép buộc phải nhân nhượng hơn nữa, thì nhà thương thuyết hầu như không có động cơ để tiến nhanh hơn. Chậm chạp lề mề, đe dọa bỏ ra ngoài, cản trở và những chiến thuật khác tương tự đã trở nên cũ rích. Tất cả những chiến thuật này chỉ làm mất thêm thời gian và tiền bạc để tiến tới thỏa thuận cũng như tăng nguy cơ không đạt được thỏa thuận nào cả. TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM LÀM HỎNG MỐI QUAN HỆ ĐANG TỐT ĐẸP Việc tranh cãi về quan điểm sẽ trở thành cuộc đấu trí. Mỗi nhà thương thuyết xác nhận những gì anh ta sẽ làm và sẽ không làm. Nhiệm vụ cùng xây dựng giải pháp chung có xu hướng trở thành trận chiến. Mỗi bên đều cố gắng qua sức mạnh ý chí tuyệt đối để gây sức ép buộc phía bên kia phải thay đổi lập trường. “Tôi sẽ không chịu nhượng bộ đâu. Nếu anh muốn đi xem phim với tôi, thì đó phải là phim The Maltese Falcon (tạm dịch: Chim ưng Malta) hoặc chúng ta không xem gì hết.” Hậu quả thường là sự giận dữ và bực tức vì mỗi bên thấy mình phải thuận theo ý muốn cứng nhắc của đối phương trong khi mối quan tâm thích đáng của mình lại bị bỏ qua. Do vậy, việc tranh cãi về quan điểm gây căng thẳng và có khi còn làm tan vỡ mối quan hệ giữa các bên. Các doanh nghiệp thương mại đã từng làm việc với nhau trong nhiều năm có thể cắt đứt quan hệ. Hàng xóm láng giềng có thể không qua lại với nhau. Cảm giác cay đắng từ sự việc này gây ra có thể kéo dài cả đời người. TRONG ĐÀM PHÁN ĐA PHƯƠNG, TRANH CÃI VỀ QUAN ĐIỂM ĐEM LẠI KẾT QUẢ XẤU Nếu xét một cuộc đàm phán chỉ có hai bên, chỉ có bạn và “phía bên kia”, thì dễ thảo luận hơn, nhưng thực tế, hầu hết mọi cuộc đàm phán đều liên quan đến nhiều bên. Các bên có thể cùng ngồi vào bàn, hoặc mỗi bên ủy quyền cho một người như chóp bu, ban giám đốc hay các ủy ban liên quan. Càng đông người tham gia vào đàm phán, những trở lực do thương thuyết theo lập trường lại càng nghiêm trọng. Nếu khoảng 150 quốc gia cùng đàm phán trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc, thương thuyết theo lập trường gần như không thể thực hiện được. Kiểu thương thuyết có thể làm cho tất cả đều nói “đồng ý”, nhưng chỉ một bên nói “không” thì sự nhượng bộ có đi có lại khó có thể thực hiện: Bạn nhượng bộ ai? Kể cả hàng nghìn cuộc đàm phán song phương cũng không phức tạp bằng một thỏa thuận đa phương. Trong những tình huống như vậy, thương thuyết theo lập trường thường dẫn tới việc hình thành liên minh giữa các bên mà lợi ích chung của họ mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Tại Liên Hiệp Quốc, những liên minh này thường tạo ra các cuộc đàm phán giữa “Bắc” và “Nam” hay giữa “Đông” và “Tây”. Do có nhiều thành viên trong một nhóm nên việc xây dựng quan điểm chung lại càng trở nên khó khăn hơn. Tồi tệ hơn, khi họ đã vất vả thiết lập và nhất trí một lập trường thì việc thay đổi lập trường đó lại càng trở nên gian nan hơn nhiều. Việc thay đổi một quan điểm cũng không dễ dàng gì khi các thành viên mới tham gia có quyền hạn cao hơn. Ngay cả khi họ không có mặt tại bàn đàm phán thì những người khác vẫn cần phải có sự chấp thuận của họ.   Mời các bạn đón đọc Thương Lượng Không Nhân Nhượng của tác giả William Ury.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sẵn Sàng Cho Mọi Việc
Đơn giản hóa để dễ dàng thực hiện C húng ta đạt được hiệu suất tối đa khi hoàn thành được công việc với nỗ lực tối thiểu. Tuy nhiên, thực tế là chúng ta luôn phải đối mặt với các chướng ngại và vật cản khi muốn thực hiện bất kỳ công việc nào. Muốn nâng cao hiệu suất, ta cần phải vượt qua những rào cản, chướng ngại, sự sao lãng – bất kỳ điều gì cản trở hoặc làm chậm bước tiến của mình. Trong thế giới luôn chuyển động không ngừng, mọi vấn đề phát sinh ngay khi chúng ta vừa kịp hình dung ra, do đó việc rèn luyện để đạt được tính linh động và tập trung cao hơn hoặc thiết lập những phương pháp, cách tiếp cận tốt hơn dường như không mấy cần thiết. Tuy nhiên, để thật sự đạt được những điều mình muốn, chúng ta phải luôn sẵn sàng cho mọi việc. Và có những việc mà chúng ta đều có thể làm, trong bất kỳ lúc nào, để dễ dàng vượt qua những chướng ngại và kiên định với mục tiêu theo đuổi. Trong suốt hơn 20 năm qua, tôi đã tìm kiếm những phương pháp tốt nhất để sống và làm việc thoải mái hơn, tích cực, bền vững hơn. Là nhà tư vấn quản lý và đào tạo về hiệu suất công việc, tôi đã giúp hàng nghìn người biến các phương pháp tôi khám phá ra thành những phương thức tuyệt vời nhất để nâng cao hiệu suất công việc và tìm thấy niềm yêu thích đối với mọi việc họ làm. Khi đã có trong tay bí quyết tạo sự cân bằng trong công việc hàng ngày, thì dù có vấn đề gì xảy ra, trực giác và óc sáng tạo của họ cũng sẽ rộng mở hơn. Họ sẽ xử lý thông tin tốt hơn, kiểm soát suy nghĩ, cảm xúc tốt hơn, tập trung vào kết quả và tin tưởng vào những phán đoán của mình về những việc phải thực hiện tiếp theo. Họ có cách tiếp cận mang tính hệ thống thích hợp để xử lý những vấn đề liên quan đến cuộc sống và công việc. Cách tiếp cận này hữu ích hơn nhiều so với việc chỉ dựa vào những hành vi mang tính phản ứng, đối phó để thoát khỏi áp lực và khủng hoảng. Khi biết rõ mình có những quy trình thích hợp để xử lý mọi tình huống, chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Và khi đó, mọi việc sẽ tiến triển tốt đẹp. Hoàn thành nhiều việc hơn, với ít nỗ lực hơn và rất nhiều ảnh hưởng tuyệt vời khác sẽ làm tăng thêm chất lượng cuộc sống và thành quả thu được từ những nỗ lực của họ. Các phương pháp này xuất phát từ những hành vi và cách thức giúp chúng ta phát huy bản thân cao nhất mà tôi đã khám phá ra. Từ những năm 1980, chúng đã được thử nghiệm và chứng minh tính hiệu quả đối với cả cá nhân và tổ chức. Các bước của chúng đã được mô tả trong cuốn Getting things done: The art of Stress-Free Productivity (OK mọi việc: Loại bỏ stress để đạt hiệu suất cao). Thành công của cuốn sách trên toàn thế giới cho thấy dù ở nền văn hóa và lĩnh vực nghề nghiệp nào, dường như ai cũng sẵn sàng đón nhận thông tin này và hào hứng thay đổi. Họ mệt mỏi do quá tải với công việc và các vấn đề cuộc sống. Họ muốn tìm lại những cơ hội vui chơi và sáng tạo. Họ đang tìm kiếm một phương pháp, một hệ thống hiệu quả trong mọi loại công việc và tình huống. Họ muốn có một khuôn mẫu nhưng phải là khuôn mẫu tự nhiên phù hợp với những lối sống phức tạp của mình, đem lại tự do, chứ không phải sự gò ép. Khi khám phá và thực hiện các vấn đề trọng tâm trong chương trình của mình, đó là Cái gì (What), Khi nào (When) và bằng Cách nào (How), tôi còn làm một số việc nữa: liệt kê những lý do Tại sao (Why) đằng sau các bước này. Tại sao chúng lại có tác dụng tích cực? Tại sao chúng giúp mọi người phát huy khả năng tốt hơn và vui sống hơn? Có điều gì sâu xa hơn ở đây không? Nền tảng của những thành công này là gì? Dường như đó là những nguyên lý cơ bản được hình thành trong và thông qua phương pháp luận – những yếu tố luôn thích hợp dù ta áp dụng chúng khi nào, ở đâu và với ai. Một người có thể trở thành tay đua xe xuất sắc mà không biết chút gì về trọng lực, mặc dù đó là lực cơ bản tác động đến mọi thứ anh ta thực hiện sau vô-lăng. Để chiến thắng, tay đua chỉ cần biết điều khiển vô-lăng, kiểm soát tốc độ, nắm vững kỹ thuật cua và luôn luôn làm chủ tay lái. Bạn sẽ làm công việc của mình, còn trọng lực sẽ làm công việc của nó. Làm chủ được mình, chiếc xe của bạn sẽ đến đích. Tuy nhiên, điều gì xảy ra nếu chỉ lái xe nhanh thôi vẫn chưa đủ? Điều gì xảy ra nếu bạn muốn biết lý do tại sao những kỹ năng của bạn lại hiệu quả đến vậy và chúng đã giúp bạn tránh va chạm và bốc cháy như thế nào? Điều gì xảy ra nếu bạn vén màn những bí mật đằng sau thành công của mình? Và điều gì sẽ xảy ra nếu việc khám phá những bí mật đó sẽ giúp bạn có nhiều công cụ hơn để đạt hiệu suất cao hơn, thậm chí đạt thành công lớn hơn? Năm 1997, tôi bắt đầu đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này bằng cách tập hợp một loạt nguyên tắc nền tảng của những hành vi hiệu quả và viết một bài tổng kết về cách kết hợp và áp dụng những chân lý này vào thực tế cuộc sống. Tôi cũng bắt đầu mở rộng giả thiết cốt lõi của mình, rằng khả năng tăng hiệu suất của một người tỷ lệ thuận với khả năng giải tỏa căng thẳng của người đó. Tôi đã nghiên cứu sâu hơn về bốn lĩnh vực chính của hoạt động năng suất: 1. Nắm bắt và kiểm soát mọi công việc dở dang để lấy lại sự minh mẫn và nhiệt huyết 2. Có ý thức kiểm soát sự tập trung của mình vào các trách nhiệm và kết quả đã cam kết. 3. Tạo ra một mô hình đáng tin cậy và vận dụng thường xuyên để có thể khởi động sự tập trung và “bộ nhớ” khi cần thiết. 4. Thiết lập hành vi hiệu quả linh hoạt, tiến lên bằng những hành động thực tiễn. Tôi đã khám phá ra rằng con người không cần thêm những nguyên tắc như vậy, cái họ cần là một phương pháp. Họ cũng không cần phải làm việc chăm chỉ hơn mà cần xác định công việc tốt hơn, chi tiết hơn, đồng thời duy trì sự tập trung cao hơn. Đằng sau tất cả những điều này là khái niệm “tâm tĩnh như nước”, một hình ảnh mà tôi đã nghiền ngẫm trong rất nhiều năm theo học karate. Khi bạn ném một hòn sỏi xuống ao, mặt nước sẽ phản hồi chính xác lực và khối lượng của hòn sỏi, không hơn không kém. Nó chỉ đơn giản tương tác với bất cứ thứ gì chạm vào nó và sau đó lại trở về trạng thái ban đầu. Con người chỉ có thể hoạt động theo cách này khi họ có một ý thức hệ phù hợp, hình thành dựa trên khả năng chịu đựng sự hỗn loạn và căng thẳng. Những nguyên tắc đó phải phù hợp với những gì ẩn sâu trong bản tính của chúng ta. Hai năm sau khi bắt đầu viết các bài tổng kết, tôi đã quyết định gửi một thư thông báo (newsletter) tới những người đang quen dần với các phương pháp của tôi. Tôi hy vọng sẽ thiết lập được một mạng lưới những người đã áp dụng phương pháp này và xây dựng được một cộng đồng những người thành công trong công việc, biết chia sẻ các kinh nghiệm và tận hưởng cuộc sống. Các bức thư đều nhằm củng cố và mở rộng các ý tưởng ẩn sau việc kiểm soát chế độ nghỉ ngơi và hoạt động hiệu quả. Tôi băn khoăn không biết liệu mọi người có phản hồi hay không. Ngay sau đó, sự hồi đáp đã vượt quá mong đợi của tôi. Trong hai năm, số lượng độc giả đã gia tăng nhanh chóng, từ 2 nghìn đến 20 nghìn. Năm thứ ba, số lượng độc giả đạt 30 nghìn người và vẫn tiếp tục tăng. Mọi người đã đưa các thư thông báo này lên mạng trực tuyến, gửi qua email trên khắp nước Mỹ và toàn thế giới. Một số người khác thì in ra và đóng thành từng tập tài liệu rồi tặng cho bạn bè và đồng nghiệp. Có người còn dán lên thang máy nơi làm việc. Họ giới thiệu chúng ở khắp mọi nơi. Những ý kiến phản hồi hết sức tích cực – dường như mọi người đều nóng lòng củng cố lại các nền tảng, khám phá những bí ẩn, tìm ra những điều bất ngờ nảy sinh từ các kỹ thuật, công cụ và hiểu biết hết sức đơn giản. Những thành quả tuyệt vời nhất từ việc áp dụng các phương pháp này thuộc về một số tài năng lớn và xuất sắc nhất thế giới, rất nhiều trong số đó nằm trong tốp dẫn đầu về hiệu suất làm việc. Vì thế, tôi thấy cần phải tập hợp các phương pháp đó thành một cuốn sách. Tôi tin những nguyên tắc, bài bình luận, bài tổng kết trong cuốn sách sẽ hình thành nên một lối tư duy chứ không đơn thuần chỉ là những mẹo hay thủ thuật. Cho dù các bạn có thực hiện đúng những phương pháp thực hành tuyệt vời mà tôi đã đưa ra trong cuốn OK Mọi việc - Loại bỏ stress để đạt hiệu suất cao hay không, thì vẫn còn nhiều điều mà các bạn có thể theo đuổi bền bỉ, thường xuyên hơn để tăng hiệu suất công việc và đạt được cảm giác mãn nguyện. Bạn sẽ tìm thấy những giá trị được công nhận và củng cố trong các nguyên tắc và bài tổng kết này. Cuốn sách được chia thành bốn phần chính, dựa trên bốn lĩnh vực của hoạt động hiệu suất cao: hoàn thành, tập trung, tổ chức và hành động. Các nguyên tắc này được tập hợp nhằm kích thích tư duy của bạn và giúp bạn tìm ra cách giải quyết mọi việc hiệu quả nhất. Bạn sẽ nhận thấy, các bài tổng kết không mô tả, giải thích cho các nguyên tắc đó, mà xoay quanh những quan điểm đáng suy ngẫm về các chủ đề. Cuối mỗi chương có các câu hỏi khuyến khích bạn tiếp tục tìm tòi thêm những ứng dụng tiềm năng. Hành vi và nhận thức của con người vốn vừa đơn giản, vừa phức tạp và có thể khám phá, tôi cũng cố gắng không gò nó vào cái gì quá cứng nhắc. Tuy nhiên, ít nhất bạn cũng sẽ tìm thấy những gợi ý về cách công việc vận hành ở các cấp độ cao hơn như thế nào, chúng ta và thế giới hành động ra sao. Khi áp dụng những nguyên tắc này vào thực tiễn, bạn sẽ có cơ hội cống hiến trọn vẹn cho công việc và cuộc sống của mình. Những thay đổi vẫn còn mơ hồ trong nhận thức của bạn sẽ được củng cố thêm và dẫn đến thay đổi hành vi. Thay đổi hành vi sẽ dẫn đến thay đổi hành động và kết quả. Sự thay đổi sẽ dẫn đến những biến đổi tích cực. Chính những việc nhỏ bé nhưng được thực hiện thường xuyên và đúng chiến lược sẽ tạo ra sự khác biệt. Như tôi đã nói, bạn không cần làm việc chăm chỉ hơn. Có thể bạn cũng không cần thực hiện theo từng bước như trong cuốn OK Mọi việc - Loại bỏ stress để đạt hiệu suất cao. Tuy nhiên, bất kỳ lúc nào, bạn cũng phải kiểm soát tốt hơn phần chưa hoàn thiện, trở nên sáng tạo và bao quát tốt hơn, tập trung suy nghĩ hơn, tiếp cận trực giác, có những cách tổ chức tốt hơn, linh hoạt hơn và thoải mái hơn, hoặc chỉ đơn giản là tiến lên phía trước. Cuốn sách này cung cấp những nền tảng quan trọng trong tất cả các lĩnh vực và là bí quyết thiết yếu thúc đẩy bạn đón nhận những thử thách mới. Bạn sẽ có cảm giác rất quen thuộc với các nguyên tắc này vì bạn nhận thấy chúng cũng giống như một số điều mình đã biết nhờ trực giác của bản thân. Để tiếp nhận đầy đủ những giá trị từ nội dung cuốn sách, bạn không cần phải có kỹ năng mới hay phải học cách tìm hiểu những thông tin mới phức tạp. Cuốn sách này phát huy những gì bạn đã biết và đã làm. Tuy nhiên, nó cũng thử thách bạn sử dụng hiểu biết của mình tỉnh táo và thường xuyên hơn và đó cũng chính là nguồn gốc của sức mạnh đích thực. Cuốn sách là sự tập hợp những hành vi và góc nhìn hiệu quả, có thể ứng dụng mọi lúc, mọi nơi. Mặc dù mỗi bí quyết mang một giá trị, nhưng khi tập hợp lại, chúng sẽ đem lại một giá trị tổng thể lớn hơn tổng các giá trị của chúng cộng lại. Dù bạn sẽ sử dụng những bí quyết đó thường xuyên hay không, tôi cũng mời bạn xem một bức tranh rộng lớn hơn về sự sẵn sàng và năng động tích cực trong cuộc sống khi bạn lật sang các trang tiếp theo. Trong võ thuật, “Sẵn sàng” không phải là tư thế thụ động, một phản ứng hay một điều gì đó đã được xác định. Nó hoàn toàn là sự năng động, sáng tạo, thực tế, và mở rộng có quy tắc. Chúng ta chỉ có thể đạt đến trạng thái này bằng cách không ngừng đổi mới phương pháp rèn luyện và thử ngiệm cho công việc cũng như cuộc sống. Rất có thể những nguyên tắc này sẽ trở thành tín hiệu và biển chỉ dẫn trên suốt chặng đường của bạn. Mời các bạn đón đọc Sẵn Sàng Cho Mọi Việc của tác giả David Allen.
Xây Dựng Nhóm Và Làm Việc Hiệu Quả
PAUL Hersey cùng với tôi bắt đầu phát triển Lãnh đạo theo tình huống tại Đại học Ohio vào cuối những năm 1960, và sau đó viết về nó trong cuốn Management of Organizational Behavior: Utilizing Human Resources, đã xuất bản lần thứ mười bởi Prentice-Hall. Trong những năm 1980 các đồng tác giả của tôi, Pat and Drea Zigarmi, đã cùng với tôi và những người khác lập ra The Ken Blanchard Companies, sửa đổi khá nhiều ở mô hình này. Những thay đổi này phản ánh kinh nghiệm thực tế của chúng tôi, những ý tưởng được chia sẻ từ những nhà quản lý, và những kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả là một thế hệ mới của suy nghĩ lãnh đạo theo tình huống, mà chúng tôi gọi là Lãnh đạo theo Tình huống® II. Lãnh đạo theo Tình huống® II có tính thực tế, dễ hiểu và áp dụng để lãnh đạo và phát triển con người, đã được dạy trong suốt ba mươi năm qua cho các nhà lãnh đạo ở tất cả các cấp bậc của nhiều công ty Fortune 1000, cũng như cho các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp phát triển nhanh trên toàn thế giới. Biên bản mới và được sửa đổi của Leadership and the One Minute Manager phản ánh suy nghĩ của chúng tôi về Lãnh đạo theo tình huống® II. Được viết theo dạng kể chuyện, cuốn sách nói về một nhà doanh nghiệp làm việc quá sức đã học được từ Giám Đốc Một Phút cách phát huy những gì tốt nhất của một nhóm đa dạng bằng cách trở thành nhà lãnh đạo theo tình huống. Pat, Drea, và tôi mong rằng bạn sẽ đọc và đọc lại cuốn sách này cho tới khi trở thành nhà lãnh đạo theo tình huống một cách tự nhiên trong vai trò lãnh đạo của bạn trong công việc, ở nhà và trong cộng đồng. —KEN BLANCHARD, đồng tác giả của The One Minute Manager® and Leading at a Higher Level *** Bộ sách Vị Giám Đốc Một Phút gồm có: Bí Mật Chưa Tiết Lộ Của Vị Giám Đốc Một Phút Sức Mạnh Của Vị Giám Đốc Một Phút Vị Giám Đốc Một Phút - Bí Quyết Áp Dụng Để Thành Công Vị Giám Đốc Một Phút & Bí Quyết Xây Dựng Nhóm Làm Việc Hiệu Quả Vị Giám Đốc Hiệu Quả Vị Giám Đốc Một Phút - Phương Pháp Quản Lý Hiệu Quả Nhất Thế Giới Vị Giám Đốc Một Phút Và Con Khỉ *** Tinh thần làm việc tập thể luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc mang lại hiệu quả công việc cao nhất. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội, khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin, hoạt động kinh doanh của các công ty ngày càng phức tạp và sự cạnh tranh cũng trở nên khốc liệt. Vì vậy để công ty thực sự có vị trí cao trong thương trường, thì việc làm quan trọng của các nhà quản lý không chỉ chú trọng đến các nhân viên chủ chốt của công ty mà còn phải có giải pháp giúp tận dụng trí lực và tiềm năng của mọi nhân viên ở các bộ phận khác nhau     Theo đó, một cơ cấu mới đã ra đời: một tổ chức phải được xây dựng từ những nhóm làm việc với tinh thần tự chủ và tích cực, không ngừng phát huy sáng tạo và các kỹ năng cần thiết. Người được đánh giá là thuyền trưởng của con tàu doanh nghiệp chính là người lãnh đạo công ty phải là người tài trí đứng đầu, một thành viên hoạt động xông xáo trong nhóm nữa.     Suốt 20 năm qua, nhóm làm việc của công ty The Ken Blanchard đã thực hiện rất nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực xây dựng nhóm làm việc hiệu quả, với sự tiên phong của hai nhà đồng sáng lập nên công ty là Don Carew và Eunice Parisi-Carew. Cả hai là đôi bạn thân thiết và là đồng nghiệp trong suốt 30 năm qua. Và họ đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu và thử nghiệm những khái niệm được trình bày trong quyển sách này sẽ mang lại nhiều thông tin bổ ích nhất giúp bạn quan sát và tìm hiểu các nhân viên của mình, để từ đó khơi dậy những năng lực vẫn còn tiềm ẩn nơi họ. ... Mời các bạn đón đọc Xây Dựng Nhóm Và Làm Việc Hiệu Quả của tác giả Ken Blanchard & Donald Carew & Eunice Parisi-Carew.
Nhật Bản Đến Và Yêu
Cuốn sách Nhật Bản đến và yêu của Dương Linh là một cẩm nang bổ ích giúp bạn trả lời những câu hỏi trên, để có thể vững tin sống và thật sự hạnh phúc trên đất Nhật Bản. “Một tôi với những ngày tháng còn xanh non với tiếng Nhật Một tôi mang trong mình ước mơ và khát khao đi Nhật. Một tôi với đầy ắp những trải nghiệm đáng nhớ ở Nhật. Một tôi chất chứa biết bao tâm sự, xúc cảm, hoài niệm. Một tôi trưởng thành sau 5 năm tròn trĩnh ở Nhật” (Dương Linh) “Chỉ khi thấy thực sự yêu một ai đó, bạn mới muốn làm nhiều điều cho người đó. Ngoại ngữ cũng vậy, hãy coi nó như người yêu của bạn, khi đó bạn sẽ biết cách để chinh phục nó.” Ước mơ không ai đánh thuế, ước mơ là vô hạn, ta có thể thoải mái ước mơ, thoải mái kỳ vọng vào tương lai. Nhưng nếu như không biết thu hẹp khái niệm “Tương lai” vào thì vô hình trung nó sẽ trở thành một màng nhện chăng tơ chằng chịt làm rối chính ta. Cũng giống như làm đề thi trắc nghiệm vậy, bạn đang phân vân giữa hai đáp án. Thay vì ngồi vắt óc suy nghĩ hãy nghĩ rằng: Cứ chọn lấy một đáp án để kịp giờ và tin vào trực giác của bản thân khi chọn đáp án bạn cho là đúng hơn. Đừng cố tìm một bản đồ để tra đường khi chính bạn cũng không biết mình đang lạc ở đâu. Hãy đặt cho mình một mục tiêu rõ ràng, đặt cho mình một cái đích để đến đã rồi bước đi trong tâm thế của một người sẵn sàng chấp nhận thử thách. Cuốn sách sẽ giúp các bạn trẻ biết cách: + Học giỏi tiếng Nhật + Tìm việc ở Nhật + Sống tốt ở Nhật *** Tôi cứ gõ rồi lại xóa, gõ rồi lại xóa vì không biết mình nên viết phần kết cuốn sách đầu tay này như thế nào. Mỗi người đọc sẽ có một cảm nhận, một suy nghĩ nhưng tôi hi vọng các bạn sẽ thấy đâu đó một chút bóng dáng của mình ở hiện tại, và cả tương lai trong cuốn sách này. Hồi tôi đi Nhật, mẹ tôi cứ trêu tôi rằng: “Đi học bên đấy về mà thất nghiệp thì mặc kimono đi bán mì chính ajinomoto”. Tôi cũng chẳng thể nghĩ sau năm năm mình lại cơ hội được ngồi viết một cuốn sách cho một chặng đường đã qua ở đất nước mặt trời mọc này. Tôi hi vọng vào một lúc nào đó tôi cũng sẽ được cầm trên tay một cuốn sách như vậy từ một người bạn cũng đang ấp ủ về một giấc mơ Nhật Bản như tôi cách đây năm năm. Nhật Bản - điểm đến của muôn vàn ước mơ nhưng chỉ là đích đến của những người dám đến với ước mơ. Các bạn đã sẵn sàng đến gần với ước mơ của mình chưa? Mời các bạn đón đọc Nhật Bản Đến Và Yêu của tác giả Dương Linh.
Người Việt Từ Nhà Ra Đường
Văn hóa ứng xử trong giao tiếp luôn được xã hội coi là chuẩn mực của mỗi con người. Ngày nay mặc dù xã hộ đã có nhiều thay đổi nhưng giao tiếp ứng xử vẫn có tầm quan trọng đặc biệt. Nó tạo nên các mối quan hệ đẹp có văn hóa, có đạo đức trong cộng đồng dân cư, trong tình bạn trong tình yêu, trong gia đình, trong nhà trường, trong kinh doanh, đàm phán - thương lượng khi có những bất đồng có thể dẫn đến xung đột. Nét thuần phong mĩ tục của dân tộc ta liệu còn được gìn giữ cho đến ngày nay? Sự ngạc nhiên là nền văn hóa đã có sự giao thoa, để từ đó có những điều tốt và xấu đang tồn tại đan xen nhau. Phải chăng cần phải có những tiếng chuông thức tỉnh để từ đó nhằm nâng cao văn hóa ứng xử trong giao tiếp xã hội của dân tộc ta. Bắt nguồn từ hiện thực đó, cuốn sách "Người Việt từ nhà ra đường" chính là những lời khuyên, tâm huyết của tác giả gửi đến bạn đọc xa gần về cách sống, cách ứng xử hàng ngày để mỗi người có một cuộc sống tốt đẹp hơn. *** Năm 1999 nhà xuất bản Thanh niên đã ra mắt bạn đọc cuốn Giao tiếp đời thường của nhà văn Băng Sơn, gồm 110 bài nhỏ viết về những vẫn đề thuộc lĩnh vực văn hóa đời thường, đã được bạn đọc và dư luận hưởng ứng và hoan nghênh. Là người rất quan tâm đến lĩnh vực này, Nhà văn Băng Sơn vẫn tiếp tục viết về đề tài này, tác phẩm của ông đã góp một tiếng nói chúng để góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam bên cạnh những áng tùy bút và thơ mà bạn đọc hằng quen thuộc và yêu mến *** Nhà nghiên cứu Hán - Nôm Hoàng Mai Hương cho tôi xem một bài tiểu luận về Quà trong đó có những món quà không phải để ăn. Thạc sĩ Nguyễn Thị Bẩy trong luận văn thạc sĩ cũng đề cập đến các món quà không mang tính ẩm thực. Vừa rồi nghệ sĩ nhiếp ảnh Mạnh Thường trong lúc trà dư tửu hậu, có đề cập đến một mảnh văn hoá hiện nay là Quà biếu, trong đó sách là một vật dùng làm quà biếu đầy tính văn hoá, đáng vui... Quà có thể là món để ăn cho vui. Đương nhiên. Nhưng khi nó là Quà biếu thì đã biến nghĩa, phổ biến đến nỗi học sinh cấp Một cũng đã quen thuộc và hiểu rõ. Quà biếu, quà tặng, quà sinh nhật, quà cưới và bao nhiêu thứ quà khác cho mỗi dịp của đời người, thật thiên hình vạn trạng, nhất là đời sống càng tiến triển thì quà biếu càng phát sinh theo, trong đó có cả yếu tố vật chất và tinh thần đôi khi lồng vào nhau một cách tế nhị không thể tách bạch cho rạch ròi. Một thời đi mừng đám cưới, chủ yếu là quà: Chục bát, chiếc bình hoa, cái chậu, đôi áo gối, chiếc nồi nhôm... Đi chia buồn đám tang, có vòng hoa, bức trướng, nông thôn có thẻ hương, nải chuối, gói nến... Quà Tết mới lắm vẻ làm sao. Từ xa xưa, con rể mang quà biếu bố mẹ vợ, học trò đồng môn mang quà Tết biếu thầy giáo cũ, quan bé biếu quan to, cấp dưới biếu cấp trên, bạn bè tặng quà nhau, cho đến nay, các doanh nhân tặng quà nhau để tạ nhau và một "công chuyện" đã hoàn thành... bằng cân mứt, bánh pháo, cân trà, bộ áo quần cho con nhỏ, rồi đến phong bì, càng mỏng càng hay càng quí vì nó là loại ngoại tệ mạnh, có khi còn là những cây vàng để ngầm vào cân trà hay hộp mứt... một hình thức gọi là hối lộ thì e hơi quá, nhưng đặt tên mới thì không dễ dàng gì, chỉ người tặng và người được tặng hiểu với nhau, một thứ luật không thành văn, một vật hoàn toàn phi tang... Mời các bạn đón đọc Người Việt Từ Nhà Ra Đường của tác giả Băng Sơn.