Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Căn Phòng Của Giovanni

Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch): Đặt bút viết Căn phòng của Giovanni là một quyết định liều lĩnh, nhưng là một quyết định tôi buộc lòng thực hiện, nhằm khai sáng cho bản thân về niềm tuyệt vọng khôn kham của thân phận hiện sinh và giải mã những chất liệu kỳ dị đã dệt thành bản ngã của tôi. Đây không chỉ là một tiểu thuyết về đề tài đồng tính, đồng tính đơn thuần là phương tiện chuyên chở những gì cuốn sách muốn truyền tải. Với cá nhân tôi, tính dục có mối liên hệ mật thiết với tâm lý con người, xung đột nội tâm về đạo đức, và ý chí lập nghiệp với tư cách một nhà văn. Nếu như không viết Căn phòng của Giovanni, có lẽ tôi sẽ không thể cầm bút viết một tác phẩm nào nữa... (James Baldwin) *** Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Một người đàn ông da đen trần truồng trong một khu vườn nguyên sơ tựa như quần đảo Taihiti nơi xa khơi của Paul Gauguin, người đàn ông đó ngồi vắt chân, vừa có vẻ thoải mái mà cũng vừa có vẻ gượng gạo, người đàn ông đó là James Baldwin, hay nói đúng hơn, bức chân dung mang tên Dark Rapture (Sự mê ly tăm tối) về nhà văn James Baldwin trong mắt họa sĩ Beauford Delaney, được vẽ theo trường phái Dã Thú với những đường cọ rốt ráo nhưng thiếu dứt khoát và màu sắc mãnh liệt nhưng bị xé lẻ. Delaney vẽ rất nhiều tranh về Baldwin, đến mức làm cả một hợp tuyển mang tên Chúa đã làm ra gương mặt tôi. Nhưng trong số những bức tranh ấy, có lẽ không một bức tranh nào soi tỏ tâm hồn Baldwin rõ ràng hơn bức tranh này: một người Negro mới như đã sẵn sàng phô bày mình triệt để nhưng vẫn còn đó những nghi vấn, những mặc cảm và tội lỗi không thể giãi bày. James Baldwin ra đời năm 1924. Tình cờ hay định mệnh, đó cũng là năm phong trào Phục Hưng Harlem1 chính thức khởi điểm, sau một bữa tiệc ở câu lạc bộ Civic tại New York do nhà xã hội học kiêm biên tập viên của tờ tập san Opportunity là Charles S. Johnson  tổ chức, với sự xuất hiện của hơn 100 văn sĩ cả da màu lẫn da trắng. Năm 13 tuổi, Baldwin có bài báo đầu tiên đăng trên tạp chí trường trung học, với tựa đề: “Harlem, ngày đó và bây giờ” Harlem, khu phố của người Mỹ gốc Phi, nơi những Langston Hughes, Martin Luther King, Malcolm X, Ralph Ellison, George và Ira Gershwin, Oscar Hammerstein, anh em nhà Marx, Louis Armstrong, Billie Holiday, Bud Powell, Duke Ellington, Fats Waller, Nina Simone đều từng một thời lưu trú, là mối quan tâm suốt đời của James Baldwin. Sau tiểu thuyết đầu tay Go tell it on the mountain lấy bối cảnh Harlem, độc giả chờ đợi tác phẩm thứ hai của James Baldwin cũng là một tiểu cảnh Harlem nữa, nhưng không, đến Giovanni’s Room (theo bản dịch của Đoàn Duy do NXB Hội Nhà Văn và Tao Đàn phát hành là Căn phòng của Giovanni), Baldwin thoát ly khỏi Harlem, thậm chí, khỏi nước Mỹ, đẩy nhân vật của ông đến Paris và Cựu lục địa, và nhân vật của ông, lần này, thậm chí còn không phải một người da đen, mà là một người đàn ông da trắng: “Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn” – không phải một chủng tộc Caucasian thượng đẳng và kiêu hãnh, mà là những kẻ chinh phục đã vượt qua địa ngục để chỉ đành đoạt lấy một miền đất buồn. Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. Giờ đây, David, một người đàn ông Mỹ da trắng quay lại nơi bắt đầu, để, như trong cuốn tiểu luận Một câu hỏi về danh tính mà Baldwin từng viết, “chịu đựng những ống nước tồi tàn của Paris, những nhà tắm công cộng, tuổi đời của Paris, và sự bẩn thỉu – để theo đuổi một điều kỳ cùng nào đó, bí ẩn và đa phần là không thể diễn giải rõ, mà có thể gói gọn lại một cách tùy tiện trong một động từ là học”. Dĩ nhiên, sự học mà ông nhắc đến ở tiểu luận này là làm một  sinh viên, còn trong Căn phòng của Giovanni, nhân vật chính đã học về những cặn lắng trong bản ngã của mình, anh thả mình vào một dung môi mới, để những cặn lắng cũ xưa nổi lên – anh bị kéo vào một cuộc tình không thể cưỡng bách với một chàng trai tên Giovanni, hay nói một cách không hoa mỹ, anh “come out” với những khát khao đồng tính. Niềm khao khát nhúc nhắc như một sinh vật biết trườn dần siết chặt lấy anh và nếu muốn thoát ra khỏi nó, anh chẳng còn cách nào khác ngoài cách giết bỏ nó. Lời đề tựa của Căn phòng của Giovanni được trích từ thơ Walt Whitman: “Tôi là con người, tôi đã khổ đau, tôi đã ở đó.” Nó khiến người ta nhớ đến câu đầu tiên trong lá thư tình bất hủ De Profundis của Oscar Wilde gửi người tình đồng tính của mình khi ông ngồi trong ngục thất: “Sự đau khổ là một khoảnh khắc rất dài. Chúng ta không thể chia nó theo các mùa. Chúng ta chỉ có thể lưu trữ những tâm trạng của nó, và biên niên ký lại mỗi lần nó trở về”. Cả hai tác phẩm đều là những lời tự thú, nhưng khác với Oscar Wilde, nhân vật của James Baldwin chịu nỗi đau của người không bị xét xử, người sẽ bị hành hình cuối cùng không phải là anh, thứ duy nhất mà anh phải hứng chịu là một sự yên ổn nằm ngoài sức chịu đựng. James Baldwin dắt ta đi một con đường vòng dài quanh co mà phong cảnh hai bên trải dài tít tắp những trạng huống bi kịch, không điểm tận cùng, không có đích, bởi với một kẻ phạm tội không bị xử tội thì đích cũng đồng nghĩa với sự trở về vạch xuất phát. Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Trong văn chương, những căn phòng hoặc là chứa đựng một bí mật kinh hoàng hoặc là một thiên đường kỳ diệu. Căn phòng của Giovanni là cả hai điều đó. Căn phòng ấy là một mật thất của một tình yêu bị cấm, cũng là một tầng hầm của những giấc mơ đóng bụi. Những vách ngăn của căn phòng vừa là nơi trú ngụ và cư lưu, vừa là song sắt chắn giữ không để những say đắm lọt ra ngoài; rồi đến một ngày, căn phòng ấy cũng chính là lăng mộ chôn sống đối tượng của sự say đắm ấy. Phải, dường như Giovanni không phải đợi đến khi bị xử tử mới chết đi, cậu đã chết ngay trong căn phòng của mình vào lần cuối mà David bước vào đó, dưới ánh nắng lóa mắt ngập tràn chiếu lên thân thể cậu trần truồng, trắng bệch và bại hoại. Khi James Baldwin quyết định di cư sang Paris vào năm 24 tuổi, ông nói không muốn mình được đọc “chỉ như một người da đen; hay, thậm chí, chỉ như một cây bút da đen”. Có lẽ đó là một phần nguyên nhân khiến Căn phòng của  Giovanni là một cuốn sách toàn-tập-trắng. Nhưng chính qua sự phản tư của một người đàn ông da trắng bỗng thấy mình bị dạt ra vùng biên và lâm vào tình thế “đồng tính”, anh ta sẽ chiêm ngưỡng thế giới bị màu đen chiếm lấp ra sao. Màu đen không chỉ là một màu da, một dòng giống, một tộc người, mà ở đây, nó hiện diện trong bóng tối, trong những ngày nhập nhoạng Paris, trong một cuộc sống lấp liếm bên dưới bề mặt đời sống thường nhật, trong nỗi âu lo ngột ngạt bị phát giác, trong chính căn hầm mục rữa của tâm hồn anh, nó là tất cả những gì đối lập với ánh sáng lóa mắt của một người đàn ông da trắng dị tính. Thay vì vạch ra biên giới của màu đen, James Baldwin vạch ra biên giới của những gì không phải là màu đen, và trong khi màu trắng (sự sáng tỏ) ngày càng co cụm lại trong nỗi ân hận của mình thì màu đen (sự che đậy) của những nỗi thống khổ ngày càng dâng cao vời vợi. Vậy là, sẽ có lúc, ngay cả một người da trắng cũng sẽ sa vào bóng đen, ngay cả một kẻ ở trung tâm cũng sẽ thấy mình đã mất phương hướng và kẹt ở phía ngoại vi. Đen – trắng, đồng tính – dị tính, chúng chỉ là ẩn dụ của những xung đột giữa sự thật về con người và những kỳ vọng không tưởng mà ngoại cảnh áp đặt lên con người. Nhưng để làm gì? Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. *** Tôi đứng bên cửa sổ ngôi nhà lớn này ở miền nam nước Pháp khi đêm xuống, cái đêm dẫn lối tôi đến buổi sáng kinh khủng nhất đời mình. Tôi cầm trên tay ly rượu, chai rượu cặp giữa khoeo tay. Tôi quan sát bóng mình trong khung cửa sổ lấp loáng đương tối dần. Cái bóng của tôi cao, có lẽ khá giống một mũi tên, mái tóc vàng lấp loáng. Khuôn mặt tôi giống một khuôn mặt bạn đã gặp nhiều lần. Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn. Tôi có thể say trước khi trời sáng, nhưng sẽ chẳng ích gì. Kiểu gì tôi cũng sẽ bắt tàu đi Paris. Chuyến tàu sẽ vẫn vậy, những hành khách xoay xở trên những băng ghế gỗ thẳng lưng của toa hạng ba để được thoải mái, thậm chí giữ thể diện, sẽ vẫn vậy, và tôi sẽ y vậy. Chúng tôi sẽ lướt qua vẫn phong cảnh đồng quê không ngừng thay đổi ấy, để lên phía bắc, bỏ lại sau lưng những hàng ô-liu, biển cả và mọi vẻ huy hoàng của bầu trời miền nam giông bão, để tiến vào vùng mưa khói của Paris. Ai đó sẽ mời tôi ăn chung sandwich, ai đó sẽ mời tôi nhấp ngụm rượu vang, ai đó sẽ hỏi xin tôi tí lửa. Người người sẽ tha thẩn ngoài hành lang bên ngoài, nhìn ra cửa sổ, nhìn ngó chúng tôi. Đến mỗi ga, đám tân binh quân phục nâu thùng thình đầu đội mũ màu sẽ mở cửa dòm vào và hỏi Complet?1 Tất cả sẽ gật đầu Phải, như đồng lõa, yếu ớt mỉm cười với nhau khi họ đi khắp tàu. Hai hay ba người sẽ dừng bước trước cửa khoang chúng tôi, hét vào mặt nhau bằng chất giọng nặng nề, tục tĩu, hút thứ điếu nhà binh kinh tởm. Sẽ có một cô gái ngồi đối diện, tự nhủ sao tôi không ve vãn nàng, sẽ bồn chồn trước sự hiện diện của đám tân binh. Tất cả sẽ vẫn vậy, chỉ có tôi là nín lặng hơn. Và miền quê đêm nay cũng nín lặng, miền quê này phản chiếu xuyên qua hình ảnh của tôi trên tấm kính. Ngôi nhà này ở ngay bên ngoài một khu nghỉ dưỡng mùa hè nhỏ bé - vốn hãy còn trống vắng, mùa nghỉ vẫn chưa bắt đầu. Nó nằm trên một ngọn đồi nhỏ, ta có thể nhìn xuống những ngọn đèn phố thị và nghe thấy tiếng thình thịch của biển. Bạn gái tôi, Hella, và tôi thuê ngôi nhà này ở Paris sau khi xem mấy tấm ảnh chụp cách đây mấy tháng. Giờ thì nàng đã đi được một tuần. Giờ nàng đang ở ngoài khơi, trên đường quay về Mỹ. Tôi có thể thấy nàng, rất đỗi thanh lịch, căng thẳng, lấp lánh, bao quanh là ánh đèn vốn đang lấp đầy khách sảnh trên con tàu viễn dương, nốc rượu ừng ực, cười cợt, và quan sát bọn đàn ông. Đó là cách tôi gặp nàng trước đây, trong một quán bar ở Saint- Germain-des-Prés, khi ấy nàng đang uống rượu và quan sát, đó cũng là lý do tại sao tôi thích nàng, tôi đã tưởng nàng hẳn sẽ là người vui nhộn để cùng vui thú. Đó là cách chuyện này khởi sự, toàn bộ chuyện này chỉ có ý nghĩa đến thế là cùng; mặc cho mọi sự, giờ đây tôi không chắc rằng nó có bao giờ thực sự có ý nghĩa nhiều hơn thế đối với tôi không. Và tôi không nghĩ nó có bao giờ thực sự mang nhiều ý nghĩa hơn thế đối với nàng - ít nhất là không cho đến khi nàng làm một chuyến tới Tây Ban Nha, và có lẽ khi thấy mình cô độc, nàng bắt đầu tự vấn rằng liệu cả một đời uống rượu và quan sát đàn ông có phải chính xác là thứ nàng muốn. Nhưng tới lúc đó thì quá trễ tràng. Tôi đã ở cùng với Giovanni rồi. Tôi đã cầu hôn nàng trước khi nàng lên đường đi Tây Ban Nha; và nàng bật cười rồi tôi bật cười nhưng chuyện đó, vì lẽ nào đấy lại làm cho mọi thứ trở nên nghiêm trọng hơn đối với tôi, bao giờ củng thế, và tôi cứ kiên trì; rồi sau đó nàng bảo nàng sẽ phải đi khỏi đây và nghĩ về chuyện đó. Và ngay vào đêm cuối cùng nàng ở đây, ngay lần cuối cùng tôi gặp nàng, khi nàng đang gói ghém đồ đạc, tôi bảo nàng rằng tôi đã từng yêu nàng và tôi khiến bản thân mình tin là vậy. Nhưng tôi tự hỏi liệu có đúng thế không. Khi ấy hẳn là tôi đang nghĩ về những đêm của chúng tôi trên giường, về sự ngây thơ và sự tự tin đến dị kỳ, vốn sẽ không bao giờ trở lại, vốn là thứ làm cho những đêm ấy trở nên quá sức khoái cảm, quá sức khập khiễng với quá khứ, hiện tại, hay bất kỳ thứ gì sẽ đến, và rốt cục quá sức khập khiễng với cuộc đời tôi vì tôi thấy mình không cần đảm lấy bất kỳ trách nhiệm nào ngoại trừ trách nhiệm máy móc nhất cho những đêm đó. Và những đêm này được thực hiện dưới một bầu trời ngoại quốc, không ai trông chừng, không án phạt nào kèm theo - chính cái sự sau cuối này dẫn đến sụp đổ giữa chúng tôi, bởi không gì khôn kham hơn sự tự do, một khi ta đã có nó. Tôi cho đây là lý do tại sao tôi cầu hôn nàng: để ban cho chính tôi một thứ mà neo vào. Có lẽ đây là lý do tại sao, ở Tây Ban Nha, nàng quyết định là nàng muốn cưới tôi. Nhưng buồn thay, người ta đâu thể nào chế ra cột neo, chế ra tình nhân và bạn hữu, giống như họ đâu thể chế ra cha mẹ mình. Đời trao những thứ này rồi lại lấy chúng đi và điều khó khăn ghê gớm là nói Vàng với đời. Mời các bạn mượn đọc sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Vẫn Nghe Tiếng Em Thầm Gọi - Takuji Ichikawa
Tiểu thuyết của Ichikawa Takuji giờ đây không còn chỗ cho sự kỳ diệu hay phép màu, chỉ còn lại những kỷ niệm trong không gian và thời gian. Có nỗi đau không mang tên, êm dịu nhưng sắc lẹm cứa vào lòng người. Tình đầu vụ vỡ của những tâm hồn méo mó nhưng đã từng ngập tràn yêu thương. Con người ta suốt cuộc đời vẫn luôn mơ về mối tình đầu, dù bất kể là nam hay nữ. Bóng dáng ấy mạnh mẽ tới nỗi đôi lúc lại trở thành một nỗi niềm ám ảnh. Hoa anh đào rơi năm centimet trên một giây. Con số ấy không chỉ là vận tốc của những cánh hoa đang thả mình mà còn là vận tốc khi chúng ta lặng lẽ bước qua đời nhau, đánh mất bao cảm xúc thiết tha nhất của tình yêu. Vậy mới nói tình yêu là điều lạ lùng nhất thế gian, tưởng chừng nhanh lẹ mà chậm dãi, tưởng chừng vững bền trường cửu nhưng lại hóa mỏng manh. Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi là tác phẩm đầu tay của nhà văn Ichikawa Takuji khi ông mới bắt đầu tham gia văn đàn. Cuốn tiểu thuyết đặt những viên gạch đầu tiên cho sự thành công của Takuji, người luôn lồng ghép tình tiết kỳ bí, thần ảo để tạo ra những câu chuyện tình đau đớn, đẹp đẽ tới lặng người. Mười bảy tuổi, bị bủa vây trong bóng đen cái chết của người thân, Yuko và Satoru đã tình cờ tìm thấy nhau, như “tay phải tìm ra tay trái”. Những tưởng từ đây họ có thể khép lại những tháng ngày lạc lõng giữa thị trấn nhỏ, nơi mọi thứ luôn dừng lại ở thì quá khứ, nhưng rồi Satoru mắc bệnh và Yuko phải lên Tokyo học, tay phải cùng tay trái lại một lần nữa rời xa nhau... Là tác phẩm đầu tay của Ichikawa, cuốn sách đầy những giằng xé mãnh liệt giữa gặp gỡ và chia ly, một đặc trưng tiếp tục được nối dài trong những tiểu thuyết về sau của ông. Nhưng cũng như chính tác giả vẫn nói, sự dung hợp về tâm hồn mới là điều đáng kể, nên mặc cho những bất trắc và mất mát vẫn cứ trải dài suốt thời gian và không gian, dư âm đọng lại bao giờ cũng thế, là một tình cảm còn sâu nặng hơn cả tình yêu. *** Takuji Ichikawa sinh ngày mùng 7 tháng Mười năm 1962 tại Tokyo. Ông tốt nghiệp trường đại học Dokkyo. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Separation, xuất bản năm 2002. Cuốn Em sẽ đến cùng cơn mưa (xuất bản tại Nhật với tên Ima Ainiyukimasu) in lần đầu năm 2003, là một trong những tiểu thuyết thành công nhất Nhật Bản, được chuyển thể thành truyện tranh, kịch, phim truyền hình ở Nhật và điện ảnh tại Mỹ. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Nơi em quay về có tôi đứng đợi Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi Nếu gặp người ấy cho tôi gửi lời chào Em sẽ đến cùng cơn mưa Bàn tay cho em Tấm ảnh tình yêu và một câu chuyện khác ...   Mời các bạn đón đọc Tôi Vẫn Nghe Tiếng Em Thầm Gọi của tác giả Takuji Ichikawa.
Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
Cuộc phiêu lưu ly kỳ, tiểu sử lôi cuốn và nghiên cứu đáng ngạc nhiên về nhân vật xứ Scotland, Kidnapped (Bắt cóc) của Robert Louis Stevenson năm 1886 chưa bao giờ mất đi vị thế của nó.  Kidnapped là “tiểu thuyết cho các chàng trai” và được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng từng kỳ trên tạp chí Young Folks từ tháng Năm tới tháng Bảy 1886. Cuốn tiểu thuyết được in thành sách lần đầu tiên bởi Cassel and Company tháng Bảy 1886. Trong Tuyển tập Stevenson, tác phẩm sở hữu cái tên dài nhất và công phu nhất trong lịch sử văn học Anh: “Hồi ký về hành trình của David Balfour năm 1751; Anh đã bị lạc như thế nào; Sống sót trên đảo hoang; Chuyến đi đến Highlands hoang dã; Làm quen với Alan Breck Stewart và những chàng Jacobite khét tiếng xứ Highlands; Mọi thứ khổ ải dưới bàn tay người chú, Ebenezer Balfour của rừng sâu giả dối. Do chính anh viết và được Robert Louis Stevenson thuật lại với lời dẫn bởi bà Stevenson”. Kidnapped được đón nhận khi xuất bản và đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà văn từ Henry James, người đã khen ngợi sức mạnh kể chuyện của tác phẩm, Jorge Luis Borges và Seamus Heaney, cùng nhiều người khác. Phần sau không tốt bằng, Catriona, được xuất bản năm 1893. Kidnapped là kiệt tác của ông, một tiểu thuyết hành động không thể nào quên đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn từ Joseph Conrad, John Buchan, Graham Greene đến Muriel Spark. Đây cũng là một sự trù tính hoàn hảo cho sự phức tạp của nhân vật người Scotland, nửa Celt, nửa Saxon. Giống như trong Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde, ông cũng bị ám ảnh bởi một phần nhân cách của mình, và vào năm bỏ phiếu độc lập, Kidnapped vẫn được xem là tác phẩm thiết yếu cần đọc. Tôi chọn tác phẩm này để thể hiện tính đặc Scotland của Stevenson cũng như tài năng văn chương của ông. Cuốn tiểu thuyết đơn giản đến khó tin. Mặc dù miêu tả câu chuyện của những chàng trai, với nguồn gốc từ sự thật lịch sử, nhưng tác phẩm đồng thời thể hiện nghệ thuật khéo léo của Stevenson. Quả thực Kidnapped đã hoàn thành đồng thời ba sứ mệnh đó. Thứ nhất, đó là chuyến phiêu lưu hành động đáng kinh ngạc, nơi giọng kể của Stevenson, thứ văn xuôi vô cùng súc tích, có sức mạnh mê hoặc lòng người. Ông khiến cho độc giả phải ngạt thở trong phấn khích và ngưỡng mộ. Henry James không ngờ lại là một người hâm mộ cuồng nhiệt của chuỗi chương “The Flight in the Heather” (Cuộc chiến dưới cây thạch nam). Lật đến chương X, “The Siege of the Round House” (Sự vây hãm của ngôi nhà vòng tròn) sẽ tìm thấy văn hứng của tác giả. Thứ nhì, Kidnapped lấy gốc từ một sự thật lịch sử, vụ ám sát ở Appin, Scotland tháng Năm 1752, cái chết của “con cáo đỏ”, biến đổi thành một câu chuyện phổ biến cho phần lớn độc giả lần đầu bắt gặp trên tạp chí Young Folks. Và Stevenson tiếp tục khai thác thể loại ông đang viết. Kidnapped, giống như Đảo giấu vàng, đi kèm với một tấm bản đồ, để thuyết minh rõ hơn cho câu chuyện; tựa đề các chương cũng được thiết kế để nói lên hành trình của ông: “I Run a Great Danger in the House of Shaws” (Tôi gặp nguy ở ngôi nhà trong rừng); “The Man with the Belt of Gold” (Người đàn ông với chiếc thắt lưng bằng vàng); và “The House of Fear” (Ngôi nhà sợ hãi). Cuối cùng, Kidnapped là một nghiên cứu đầy sức thuyết phục và khó quên về hai tính cách của nhân vật người Scotland. David Balfour, thuộc đảng Whig, là một chàng trai xứ Lowland Scotland dòng Presbyterian, bị bắt cóc khi bắt đầu hành trình giành quyền thừa kế từ tay người chú xấu xa Ebenezer. Alan Breck (Stewart), được Balfour mô tả là “một kẻ nổi loạn đáng kết tội, một kẻ đào ngũ, và là tay sai cho vua Pháp”, đại diện cho niềm tự hào của người Highlands sau cuộc nổi loạn Jacobite năm 1745, nóng tính, khinh suất, lãng mạn và bất hạnh, với những khúc thoại đáng nhớ. Cặp nhân vật này cùng hành động, cãi nhau, cùng nổi loạn (với Stevenson) với phong cách rất Scotland. Như bánh trái của một quốc gia giàu có, Kidnapped đơm hoa với vô số phương ngữ, “ain” (một), “bairn” (đứa trẻ), “blae” (ủ rũ), “chield” (gã bạn), “drammach” (bột yến mạch), “fash” (phiền), “muckle” (to lớn), “siller” (tiền), “unco” (vô cùng) , “wheesht!” (suỵt!), và hàng tá nữa. Tiếng vùng Scotland bằng cách nào đó giúp Kidnapped có một sức mạnh không bao giờ mệt mỏi, nhưng bên trong lại ảm đạm. Stevenson, qua giọng Balfour, bày tỏ điều này khi anh thoát khỏi “phần tăm tối nhất của cuộc hành trình… Ransom ở bên dưới, Shaun chết trên sàn nhà, hay Colin Campbell (con cáo đỏ) túm lấy ngực áo khoác của hắn…” Tất nhiên Balfour đã sống sót, nhưng tất cả mọi người khác đều có số phận phải chết. Còn Stevenson đột ngột ra đi bởi một cơn đột quỵ trên biển Samoa ngày 3/12/1894, năm 44 tuổi. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Tác phẩm: Bắt Cóc Mũi Tên Đen Đảo Giấu Vàng Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ... *** Mời các bạn đón đọc Bắt Cóc của tác giả Robert Louis Stevenson.
Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.
Thời Thơ Ngây - Edith Wharton
Thời thơ ngây (tên gốc là The Age of Innocence) là tiểu thuyết thứ mười hai của bà. Tác phẩm đạt giải Pulitzer năm 1921, giúp Edith Wharton trở thành nhà văn nữ đầu tiên giành giải thưởng này. Cuốn sách kể về câu chuyện của một cặp đôi thuộc tầng lớp thượng lưu xã hội Mỹ đang chuẩn bị kết hôn. Newland Archer, một luật sư hào hoa và là người thừa kế của một trong những gia đình có danh tiếng bậc nhất ở New York lúc bấy giờ, đang háo hức chuẩn bị cho đám cưới mơ ước của mình với tiểu thư May Welland xinh đẹp. Đúng vào thời điểm ấy, nữ Bá tước Ellen Olenska, cô chị họ xinh đẹp của May trở về từ châu Âu sau tin đồn ly hôn với một Bá tước người Ba Lan. Ban đầu, Archer lo lắng vì tai tiếng của cô có thể ảnh hưởng đến May Welland nhưng dần dần anh lại bị Ellen- người coi thường những quy định hà khắc của xã hội New York thu hút. Tình cảm anh dành cho nữ Bá tước ngày càng sâu đậm và điều đó có thể làm hủy hoại đám cưới của anh và May. Điều gì sẽ xảy ra? Liệu Ellen có dành tình cảm cho anh? Đứng giữa cô dâu tương lai và tình yêu định mệnh của cuộc đời, anh sẽ lựa chọn như thế nào? Bằng giọng văn châm biếm và hài hước, Edith Wharton đã tái hiện lại xã hội New York vào những năm 70 của thế kỉ XIX với những lề thói cổ hủ, lạc hậu, cái xã hội khiến con người ta không thể sống thật với bản chất, tình cảm của mình. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của bà qua cách bà miêu tả mối tình lặng lẽ của Ellen và Archer. *** Edith Wharton sinh ngày 24-1-1862 tại số nhà 14, Đường Hai mươi ba Tây, Thành phố New York. Bà là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Bà là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên đạt giải Pulitzer. Ngoài ra, bà cũng viết truyện ngắn và là một nhà thiết kế. Bà từng được đề cử giải Nobel Văn học năm 1927,1928 và năm 1930. Wharton kết nối quan điểm của bà về các tầng lớp đặc quyền trong xã hội Mỹ với trí thông minh bản năng xuất sắc để tạo nên những tiểu thuyết và truyện ngắn hài hước, sâu cay về vấn đề xã hội và tâm lý. Bà cũng quen biết nhiều cây bút văn chương cũng như những chính trị gia thời đó, trong đó có cả Tổng thống Theodore Roosevelt. Hồi còn nhỏ, bà đã phản đối những chuẩn mực về ăn mặc và lễ nghi dành cho con gái lúc bấy giờ. Bà cho rằng những yêu cầu đó là cứng nhắc và thiển cận. Edith muốn nhận được nhiều hơn từ nền giáo dục, bởi vậy bà đọc sách từ thư viện của bố và những người bạn của ông. Mẹ của bà ngăn cấm bà đọc tiểu thuyết cho đến khi kết hôn và Edith đã tuân theo. Edith bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết từ khi còn nhỏ. Bà thử viết tiểu thuyết từ khi mười một tuổi. Tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà là bản dịch từ một bài thơ bằng tiếng Đức có tên “What the Stones tell” của Heinrich Karl Brugsch và bà kiếm được 50 đô la. Lúc đó, bà mới mười lăm tuổi. Gia đình bà không muốn tên của bà xuất hiện ngoài công chúng bởi vì tên của phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chỉ xuất hiện trên mặt báo để thông báo về sự ra đời, kết hôn hay từ trần. Do vậy, bài thơ được phát hành dưới tên một người bạn của bố bà, E. A. Washburn. Ông đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tự học của bà, và ông đã khuyến khích bà theo đuổi nghiệp viết chuyên nghiệp. Ngoài viết tiểu thuyết, Wharton đã sáng tác hơn 85 truyện ngắn. Bà cũng là một nhà thiết kế và bà cũng viết nhiều sách về thiết kế, bao gồm tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà. Bà mất ngày 11-8-1937 sau một cơn đột quỵ tại Pháp.   Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ngây của tác giả Edith Wharton.