Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thế Giới Trẻ Em

“Thế giới trẻ em” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Ibragimov, đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, lúc thì như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền đau thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh.   Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp.  *** Lấy bối cảnh vùng đất Bắc Kavkaz trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, tác giả Kanta Ibragimov kể câu chuyện bi thương của chiến tranh. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violin đồng thời là nhà vật lý người Nga; nữ y tá người Chechnya và cậu bé 8 tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên "Thế giới trẻ em". Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé sự hồn nhiên của thơ trẻ. Để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, cậu bé phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì cậu xử sự ngây thơ như mọi đứa trẻ, khi lại như người lớn. Câu chuyện về đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn ngẫm nghĩ về tương lai của dân tộc.  Bên cạnh kể chuyện của những nhân vật trong cuộc chiến, Thế giới trẻ em còn là bức tranh hiện thực về chiến tranh. Những cuộc chiến đã tàn phá vùng đất Kavkaz thanh bình và giàu đẹp. Bức tranh bi tráng đó được tác giả tái hiện từ góc nhìn của những người dân bình thường; đó cũng là lời cảnh báo về hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gây ra cho con người. Dịch giả Đào Minh Hiệp - người chuyển ngữ Thế giới trẻ em - cho rằng đây là một câu chuyện thấm đẫm chất nhân văn: "Dẫu vậy, trên nền câu chuyện bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái và những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng nghìn năm qua, làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân - thiện - mỹ vì một tương lai tươi sáng". Bản thân tác giả Ibragimov từng trải qua các cuộc chiến ly khai ở Chechnya. Ông vốn là một nhà khoa học, Cục phó Tổng cục thuế Liên bang Nga. Sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương (thủ đô của vùng tự trị này). Tác phẩm đầu tay Cuộc chiến đi qua đưa tên tuổi Ibragimov nổi tiếng ở cả Liên bang Nga. Tổng thống Putin đã trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật cho Ibragimov. Từ đó, nhà văn liên tiếp cho ra đời nhiều tiểu thuyết được đánh giá cao. Hiện tại Ibragimov tiếp tục nghiên cứu khoa học và giảng dạy để nuôi sống gia đình và sáng tác văn chương để nuôi dưỡng tâm hồn.  Các nhà phê bình văn học Nga nhận xét, sự thành công trong lĩnh vực văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan về miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Điều quan trọng, như tác giả nói, ông "không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào". Lam Thu *** Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa Tự trị Chechnya thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ Hóa học, còn bản thân là tiến sĩ Kinh tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Chechnya, phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, giáo sư Đại học Tổng hợp quốc gia Chechnya. Cho đến trước năm 1999, Ibragimov chỉ được biết đến với tư cách là một nhà khoa học với gần ba mươi công trình và đầu sách về kinh tế. Nhưng kể từ khi Ibragimov công bố tác phẩm văn học đầu tay - tiểu thuyết Cuộc chiến đi qua dày bảy trăm trang viết về vùng đất Chechnya quê hương từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995, thì tên tuổi của Ibragimov không chỉ được thường xuyên nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Chechnya mà cả ở Liên bang Nga. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất ở nước Nga. Và cái gì đến phải đến, bốn năm sau, tác phẩm văn học đầu tay của một nhà khoa học đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật năm 2003. Kể từ đó, Ibragimov liên tục cho ra mắt nhiều tiểu thuyết khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em (2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012), Viện sĩ Piotr Zakharov (2013)… Và theo thông báo của Cơ quan báo chí Tổng thống và Chính phủ Chechnya, nhà văn Ibragimov đã hai lần được đề cử vào danh sách Giải Nobel Văn học: Năm 2010 với Thế giới trẻ em và năm 2012 với Avrora. Sau khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1991, nước Cộng hòa Chechnya nhỏ bé trong Liên bang Nga bỗng nhiên được nhiều người biết tới bởi các phong trào ly khai bùng phát dữ dội, biến thành các cuộc chiến đẫm máu. Nhà khoa học Ibragimov đã từng có một cuộc sống sung túc và một công việc ổn định ở Moskva (Phó tổng cục trưởng Tổng cục thuế Liên bang Nga), nhưng sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đã từ bỏ tất cả, đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương, đồng thời trở về với quá khứ của dân tộc bằng các tác phẩm văn học của mình vì những lý do mà theo như lời ông nói là “để không bao giờ được quên những năm tháng đau thương đó và lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó”. Thế giới trẻ em là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Bản thân Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh này, và khi được hỏi về những năm tháng đó, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười, mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, khi lại như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công trong lĩnh vực Văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà không cần phải dùng đến những thủ pháp giả tạo. Và điều quan trọng nữa, như chính tác giả bộc bạch, là ông “không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào cả, điều đó không chỉ cần thiết trong Văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Với những thành tựu trong Văn học, Ibragimov được kết nạp vào Hội nhà văn Chechnya, Hội nhà văn Liên bang Nga và được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và sáng tác văn học. Theo như ông nói, “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống bản thân cùng gia đình với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn”. Tác phẩm của Ibragimov đã nhanh chóng được dịch sang tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha và bây giờ là tiếng Việt. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Người dịch ĐÀO MINH HIỆP *** Lại một lần nữa, thêm một lần nữa tôi trở về chốn này. Tôi đứng đây, chỉ đứng mà chẳng nghĩ ngợi gì cả, đầu óc trống rỗng, thân thể bải hoải, cặp mắt đờ đẫn dõi theo dòng nước đục ngầu của dòng Sunzha. Còn dòng sông, như bao năm nay, vẫn chảy, nhưng tôi có cảm giác, trong đó không còn niềm khát vọng và nhiệt huyết như trước nữa. Tất cả, như mùa đông, đã đến lúc phải dịu lại. Bản thân tôi cũng đã đến lúc phải bình tâm trở lại, phải lùi lại và quên đi tất cả. Nhưng tôi không thể. Tôi cần phải, tôi buộc phải kể về những lỗi lầm của mình, về lỗi lầm chung và tấn bi kịch chung của tất cả chúng tôi… Không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần thứ hai tôi đến nơi này, và tôi chờ cho đến khi đã nạp đủ năng lượng để có thể bắt tay vào thực hiện bức tranh tâm huyết của đời mình. Nhưng, than ôi!… Không hiểu tại sao, lúc nào tôi cũng nhớ lại một câu trong đoạn mở đầu tác phẩm Người thầy đầu tiên của Tsinghiz Aitmatov: “Tôi sợ không mang được đến nơi, tôi sợ làm sánh bát nước đầy”, thật đáng tiếc là tôi đã lặp lại điều đó. Tôi cảm thấy đầu óc trống rỗng, mất hết mọi cảm hứng, nhưng tôi vẫn hy vọng, tôi sống bằng niềm hy vọng, tôi rất muốn vẽ được bức tranh quan trọng của đời mình. Và không chỉ một lần tôi đã bắt tay vào việc, nhưng tôi không dám, tôi không thể, tôi không đủ sức, tôi sợ hãi. Mơ ước về bức tranh đó, tôi đã tốn không biết bao nhiêu màu sắc, mà không chỉ có vậy, còn bức tranh thì vẫn cứ ám ảnh tôi. Và để có thể bắt đầu từ một điểm nào đó, tôi lại quay về nơi ấy, đứng rất lâu, cảm nhận sự đau đớn cùng những lỗi lầm và ngẫm nghĩ về những mất mát. Song, tôi cũng chẳng thể nghĩ ra điều gì, chỉ còn lại ký ức, và tôi cũng chẳng nhìn thấy gì, tôi chỉ hướng cặp mắt về phía mặt sông ảm đạm gợn sóng như đang xem một bộ phim rực rỡ sắc màu với một kết thúc khủng khiếp. Dù không muốn xem bộ phim ấy, nhưng tôi không thể dứt ra được. Tôi đã bỏ đi nhưng có một cái gì đó cứ níu kéo tôi lại, vẫy gọi tôi, làm ngực tôi đau nhói, và thế là tôi lại đến cái hoang mạc này, nơi những đám cỏ dại bị khô úa vào mùa đông xuyên qua lớp nhựa đường và bê tông cũ, nhưng rồi lại đơ ra như từ thời xa xưa… Chỉ có dòng Sunzha là vẫn chảy, nó nhìn thấy hết, biết hết, nhớ hết… Và tôi cũng nhớ. Tôi nhớ, nơi đây từng là thành phố Grozny tươi đẹp và tràn đầy sinh lực. Nhiều người bảo, hiện giờ Grozny cũng vậy, nhưng là nói thế thôi, chứ ở đây, giờ trông như hoang mạc, xa một chút là những đống đổ nát, chỉ còn lại cái tên hung dữ của thành phố[1] với những tâm hồn thiếu bản sắc như bóng đen, tất cả đều khoác một màu đen dẫu là mùa đông tuyết phủ trắng, tất cả đều mang vẻ u ám, nặng nề và buồn bã. Nhưng dẫu có thế nào đi nữa, tôi chỉ nhớ đến một thành phố Grozny đẹp như mơ, nơi tôi đã sinh ra, lớn lên, học tập rồi làm việc. Chính tại chỗ này, dạo còn trẻ, tôi đã từng đứng rất lâu. Tại đây, bên bờ sông Sunzha từng có một công viên tráng lệ, quanh năm hoa lá xanh tươi, với đài phun nước cùng những con đường rợp bóng cây, và một cây cầu vắt ngang sông Sunzha. Sau đó, khi người ta xây cây cầu mới lớn hơn, cây cầu cũ này chỉ dành cho người đi bộ, hai bên thành cầu là những bồn hoa màu sắc sặc sỡ. Chính vì vậy mà cây cầu được gọi là Cầu hoa. Cây Cầu hoa này dẫn đến một tòa nhà cổ, đẹp đẽ, hình bán nguyệt. Một nửa tòa nhà dành cho các cơ quan nhà nước, nơi trước đây người bạn gái yêu quý của tôi đã làm việc và buổi chiều sau giờ làm tôi lại đến chống tay lên thành cầu đợi cô ấy. Một nửa tòa nhà còn lại dùng để ở, tầng một là những gian hàng lớn lắp kính với rất nhiều, rất nhiều đồ chơi - đó chính là cửa hàng bách hóa tổng hợp “Thế giới trẻ em”. Phải, tôi cũng có một thế giới trẻ em của mình, nói chung đó là một thế giới hoàn toàn khác cho tới khi trưởng thành. Và tôi là người rất may mắn! Những đứa trẻ hiện nay ở Grozny có một tuổi thơ và tuổi trẻ ra sao? Đó mới là điều đáng nói. Nhưng làm thế nào để cho mọi người biết? Xung quanh là một khoảng trống đáng sợ, thậm chí cũng chẳng còn lại gì từ những cây cầu, chỉ còn lại vài tấm bê tông bám vào trụ cầu phủ đầy tuyết, chắc là chờ cho đến một lúc nào đó người ta cẩu chúng lên để xây dựng lại. Và tôi cũng chờ, tôi mơ ước dựng lại cây cầu của mình, đúng ra là cây cầu nối về quá khứ, nhưng không phải là cái quá khứ sặc sỡ tỏa hương thơm ngát khi tôi còn nhỏ và trai trẻ. Tôi biết, chẳng thà không có cái thời ấy và đừng bao giờ có còn hơn… Phải, tôi muốn nói về quá khứ khác. Về tuổi thơ của người khác, về một thời kỳ khác mãi sau này mới diễn ra. Quả thật, những cây cầu vẫn còn đó, nhưng sự đổ vỡ đã diễn ra rồi. Chuyện xảy ra vào thời kỳ nổ ra cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất[2], cuộc chiến của các phiến quân[3]. Chiến tranh ở Chechnya - chỉ diễn ra ở Chechnya, vì từ thời xa xưa, ở nơi rừng sâu núi thẳm, người ta đã quá quen với các cuộc chiến tranh. Còn các nhóm phiến quân lại rất cần đến chiến tranh, bởi lẽ đó là bối cảnh, là cột thu lôi dư luận, là tấm phông màn màu mè, mà đằng sau tấm bình phong đó là một cuộc chiến không kém phần khốc liệt để tranh cướp tài sản quốc gia, để những kẻ mạnh phân chia lại thế giới. Thôi, Thượng đế phù hộ cho họ… Mà chẳng lẽ Thượng đế lại đứng về phía họ hay sao? Ôi, sao tôi lại nói thế nhỉ! Thật là phạm Thánh?! Tôi đâu có muốn nói về chuyện đó, hoàn toàn không… Tóm lại, trong cuộc chiến lần thứ nhất ở Chechnya, tôi nhớ, cũng như bây giờ, dạo ấy là mùa đông, hình như trước Năm mới, năm 1996. Tôi bay từ Moskva về quê, về Chechnya thăm cha mẹ già mà tôi không thể thuyết phục được họ rời bỏ quê hương. Chuyến đi của tôi phải vòng qua thành phố Grozny, với nhiều “chặng chuyển tiếp”, qua rất nhiều trạm kiểm soát liên hợp với những hàng người nối nhau rồng rắn, bị kiểm tra, thu phí, chấp nhận sự nhẫn nhục và xúc phạm. Mặc dù vậy, tôi vẫn về được đến nhà, ở đấy có mái nhà thân yêu che chở. Tiếng đại bác và tiếng máy bay gào rú suốt ngày không ngớt, trở thành một đặc điểm không thể tránh khỏi của cuộc sống thường nhật, ít ra là người dân địa phương đã quen với tất cả những điều đó, chỉ có điều trái tim của một số người không chịu đựng nổi - vì chúng không được làm bằng sắt. Mặc dù vậy, cuộc sống ở một ngôi làng gần trận tuyến vẫn tiếp diễn, nơi đây vẫn có chợ, có chỗ để thư giãn (miễn là có tiền). Sau hai ngày thăm thú bà con họ hàng, tôi quyết định vào thành phố Grozny: Tôi có việc phải giải quyết, một con nợ cũ đã lâu của tôi, giờ là quan chức của chính quyền mới đang tham gia xây dựng lại thủ đô sau khi bị ném bom, chắc là có tiền. Những người thân khuyên tôi không nên đi vì rất nguy hiểm, khắp nơi vẫn còn bắn nhau loạn xạ, đối với những người không phải dân địa phương, bộ dạng có vẻ giàu có như tôi, chắc chắn sẽ toi mạng ngay tại các trạm kiểm soát liên hợp. Nhưng dẫu sao đi nữa, tiền bạc bao giờ cũng có sức mạnh, thế là người em họ nhận lời chở tôi vào thành phố, không đi đường thẳng mà đi đường vòng nhưng sẽ nhanh hơn vì tránh được những hàng người dài cả cây số bên các trạm kiểm soát. Tuy nhiên, đường này cũng có trạm kiểm soát, chỉ có điều yên tĩnh và vắng vẻ hơn, mặc dù đã là mùa đông nhưng đá vẫn lăn từ trên núi Argun xuống. Một quân nhân liếc vào chứng minh nhân dân của tôi, thấy nơi đăng ký cư trú ở Moskva, liền nhìn thẳng vào mặt tôi khá lâu, khệnh khạng bỏ tay ra khỏi xe, lẩm nhẩm điều gì đó, chăm chú quan sát tôi từ đầu đến chân, rồi hướng ánh mắt vào chiếc áo bành tô dài đắt tiền của tôi. Mời các bạn đón đọc Thế Giới Trẻ Em của tác giả Kanta Ibragimov & Đào Minh Hiệp (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

N.P
Nữ tác giả Banana Yoshimoto tên thật là Mahoko Yoshimoto sinh ngày 24.7.1964, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Takaaki Yoshimoto. Banana Yoshimoto tốt nghiệp ngành Văn tại trường Nihon University, tại đây cô đã lấy bút danh là "Banana", cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một hàng ăn vào năm 1987, Banana Yoshimoto bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen, cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô ngay lập tức trở thành một hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ, và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (Hội chứng Banana). Sau Kitchen, Banana đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và đã trở thành một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như N•P, Lisard, Asleep, Goodbye Tsugumi, Amrita, Sly, Argentina Hag, Hardboiled and Hard luck… trong đó Goodbye Tsugumi (tạm dịch: Vĩnh biệt Tsugumi) đã được dựng phim và đoạt Yamamoto Shugoro Literary Prize năm 1989, tiểu thuyết Amrita cũng được trao Murasakishikibu Prize năm 1994. Đến nay tác phẩm của Banana Yoshimoto bao gồm mười hai tiểu thuyết và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, Banana Yoshimoto đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải thưởng Nobel Văn học. *** Đã không còn là Banana Yoshimoto tự nhiên và bột phát với văn chương như trong Kitchen, N•P đưa người đọc đối diện với những đề tài nhạy cảm và gai góc. Như một khúc biến tấu của tác phẩm N•P bí ẩn trong truyện, N•P của Banana Yoshimoto nói đến tình yêu đồng tính và đồng huyết, xen lẫn vào đó là những suy tưởng về ý nghĩa và tác động của văn chương lên cuộc đời thực. Những mối tình trong N•P thêm một lần nữa, dẫn dụ chúng ta vào một không gian đầy màu sắc Banana Yoshimoto, với một lối văn nhẹ nhhưng không thoáng qua gọn ghẽ nhưng không thiếu cá tính. Thế giới tiểu thuyết của nhà văn nữ Nhật Bản nổi tiếng nhất hiện nay chưa bao giờ ngừng gây bất ngờ bởi sự mới lạ và độc đáo qua từng cuốn sách. Banana Yoshimoto, một trong những gương mặt nổi bật nhất của văn học Nhật Bản đương đại, thường được so sánh cùng Haruki Murakami và Ryu Murakami. Năm 1987, Kitchen ra đời, bắt đầu đưa cái tên Banana lên thành một cao trào trong giới thanh niên Nhật và độc giả quốc tế, được gọi là Hội chứng Banana (Bananamania). N•P là một trong những tác phẩm thành công nhất sau đó của nhà văn, cùng với các tiểu thuyết Vĩnh biệt Tugumi và Amrita.             “Một cuốn sách phi thường, với sức mạnh có được từ không khí trang nghiêm, từ sự chân thành đã không bị cái nhìn hoài nghi làm hỏng.” - Toronto Globe “Banana Yoshimoto là một bậc thầy kể chuyện… Những nỗi đam mê đã được mô tả một cách tinh tế, kín đáo, đầy sức mạnh qua một ngôn ngữ tưởng chừng giản dị.” - Chicago Tribune “Một lần nữa, Yoshimoto đã  khẳng định nghệ thuật chính vị sứ giả tốt nhất giữa các dân tộc.” - Library Journal *** Ngay cả bây giờ, đôi lúc tôi vẫn thường nghĩ tới Shoji. Tôi, một đứa học sinh cấp ba, đã yêu anh, mê say, chỉ biết yêu như hút tất cả mọi thứ vào mình. Gần như ngày nào tôi cũng ở cùng anh, tới nhà anh, giúp anh một tay dịch nháp. Quả thực, anh đã rất vui khi có tôi ở cùng. Điều đó là sự thật. Nhưng dẫu sao, sự đời còn có bao nhiêu là rối rắm, và tôi, đã không thể nào ngăn chặn được sự mệt mỏi đang ngày một tiến triển trong con người anh, từ trước khi chúng tôi gặp nhau. Tôi đã không thể thật sự thấu hiểu những gì chiếm một phần rất lờn trong nhân cách của anh, những thứ u buồn đã có ảnh hưởng đầy ma lực đối với tôi. Khi gặp anh, tôi là cánh bướm bổ nhào vào căn phòng nơi chiếc bóng đèm đang bắt đầu nứt vỡ mất rồi, trong trái tim anh. Cứ cho rằng tôi đã là niềm an ủi của anh đi chăng nữa, thì rốt cục cũng chỉ là việc mang tới một chút lưu ảnh lấp lòa của ban ngày vào trong bóng tối, rồi làm cho mọi thứ hỗn loạn thêm mà thôi. Phải chăng chính vì vậy mà trong những giấc mơ có anh xuất hiện, tôi luôn sắp sẵn tình huống, rằng tôi của bây giờ đã gặp anh của ngày xưa. Có lẽ bởi tôi thường nghĩ, nếu là tôi của bây giờ, thì ít ra tôi cũng có thể cùng anh trải qua những khoảng thời gian lặng lẽ nhưng vui vẻ, với những thứ không ồn ã. Hoặc giả, trên thực tế, có thể điều đó là vô phương đi nữa, thì tôi vẫn không chịu cam lòng. Giá như tôi được gặp anh bằng cái tôi của bây giờ. Tôi thường nghĩ vậy, ở đâu đó trong tim mình. Có thể tôi đã nâng giá trị của mình lên quá cao chăng. Thế nhưng, vào một lúc nào đó, khi nghe thấy những câu chuyện đầy rẫy kiểu như “linh hồn của người tự sát sẽ không được lên thiên đàng. Khoảnh khắc của sự đau khổ sẽ dừng lại mãi mãi”, tôi lại muốn phát cuồng. Tự trong trái tim mình, nhanh hơn từ bất kỳ nơi nào khác, nơi tôi muốn tin rằng đó chỉ là lời nói dối, khuôn mặt yếu ớt đang cười của anh lại hiện lên. Nụ cười mà không ai có thể vào được trong nó. Buổi sáng ngày Shoji chết, tôi đã ở trong phòng của anh. Một giấc mơ được đem đến bởi thứ ánh nắng mùa hạ lấp loáng xuyên qua lớp rèm cửa. Một buổi sáng đầy nắng ngay trước mùa hạ giống hệt lúc này đây. Buổi sáng, bao giờ Shoji cũng dậy sớm hơn tôi. Khoảng tám giờ sáng, tôi miễn cưỡng mở mắt ra để còn đi đến trường thì Shoji đã ngồi trước chiếc máy chữ tự bao giờ. Thứ âm thanh đơn điệu ấy, tấm lưng đang tập trung vào công việc thật điềm tĩnh ấy, làm tôi nhớ tới tấm lưng của mẹ thời thơ ấu. Tôi yêu chúng biết bao. Sự trầm lặng ở anh, một người lớn hơn tôi những mười bảy tuổi, đã trung hòa khối năng lượng thừ thải đang lúc xuân thì của tôi thành một thứ gì đó ôn hòa. Khi có anh thật tĩnh lặng. Cười đấy, đùa đấy, nhưng vẫn tĩnh lặng. Cho dù tôi có muộn giờ học, anh cũng chẳng bao giờ phá vỡ giấc ngủ của tôi. Và dù tôi nghỉ học hôm ấy, anh cũng chẳng đuổi tôi ra khỏi nhà. Một con người như thế đấy. Thế nhưng, buổi sáng đó thì khác. Tôi tắt chiếc đồng hồ báo thức và nhìn sang bên cạnh, Shoji đang ngủ với khuôn mặt xanh lét, không có sinh khí. Bên dưới mắt là vết thâm quầng, hơi thở cũng rất nhỏ. Tôi, đứa học sinh mười tám tuổi, khi nhìn thấy quang cảnh đó, chỉ thấy đau lòng chút ít, một thứ tâm trạng thật giản đơn, hời hợt. Tôi khẽ khàng đắp lại chiếc chăn chiên cho anh rồi tụt xuống giường. Tôi mặc bộ đồng phục vào, uống một cốc sữa. Buổi sáng yên tĩnh. Tôi cảm thấy trong căn phòng như có một thứ không khí khác lạ đang lẩn vào. Tôi tìm mãi chiếc đồng hồ đã vứt lung tung hay để quên đâu đó mà không thấy nên quyết định mượn chiếc đồng hồ của Shoji đang đặt trên bàn. Tôi đeo nó vào tay. Một cảm giác nặng như chì. Miếng kính phủ trên mặt chữ đen phát ra thứ ánh sáng sắc lạnh. Có cái gì đó vô cùng chán chường. Việc ở trong phòng của người khác khiến tôi thấy bồn chồn tựa như mắc phải chứng bệnh nhớ nhà. Phải rồi, buổi sáng ấy, căn phòng và mọi vật bên ngoài đều lặng như tờ, khiến tôi có cảm giác nghe thấy được cả tiếng thở khi ngủ của Shoji trên chiếc giường bên bậy cửa sổ. Từng cử động của tôi tự nhiên cứng đờ ra mà tôi không biết. Tôi khó thở. Trên chiếc bàn có đặt máy chữ, bản dịch câu chuyện số 98 đang đánh dở dang. Tôi cầm lên xem. Công việc vẫn chưa tiến triển được một nửa. Không thể có chuyện đó. Hôm trước anh vừa bảo sắp xong rồi cơ mà. A, nhưng một lần anh có nói, dịch mãi, dịch mãi mà vẫn thấy cái gì đó chưa ổn. Thế là anh dịch lại từ đầu rồi. Tôi nghĩ vậy. Vào lúc đó, tôi đã biết chuyện về hai dịch giả tự sát trước đó. Tôi lạnh người. Tôi viết một bức thư vào trang vở.   “Anh sớm hoàn tất công việc rồi chúng mình cùng ra biển chơi nhé. Giống như lần trước ấy, buổi sáng chúng mình tới sớm nhất, thay bộ đồ bơi và nằm dài trên bãi cát rồi nói thật nhiều chuyện. Em chờ anh. Em mượn tạm chiếc đồng hồ của anh. Rồi em sẽ quay lại trả anh ngay.”   Tôi thầm nghĩ, ước gì khi đọc thư, mùi hương và tiếng sóng biển nơi hai người đã tới sẽ vụt sống lại trong anh. Tận đáy lòng, tôi mong sao anh sẽ vì thế mà chợt muốn đi ra biển và hoàn thành công việc. Trên cả lòng ghen tị là nỗi sợ. Tôi thấy mình đang viết thư như để chống lại một thứ gì đó đen tối không thể nhìn thấy, mà tôi đã coi là kẻ thù. Tôi muốn làm anh nhớ lại biết bao kỉ niệm trong tình yêu của hai đứa, cảm xúc trong một đêm ấm áp; vẻ đẹp của dãy phố nhuộm màu vàng cam nhìn từ trong taxi với cái đầu còn ngái ngủ trên con đường anh đưa tôi về vào rạng sáng; và nước mắt, bàn tay anh nóng hổi. Tôi muốn anh nhớ lại mùi hương nồng nàn của tất cả những kỉ niệm ấy. Tôi mải miết suy tưởng như người con gái sắp bị bỏ rơi trong đoạn kết của một cuộc tình.   Vì sốt ruột nên ban ngày tôi đã gọi điện từ một bốt điện thoại bên sân trường. - Alô. - Shoji nghe máy với sắc giọng rất vui vẻ. Tôi thấy yên tâm. - Em gọi từ trường học. - Tôi nói. Sau lưng tôi, tiếng ồn ào nghe như những tiếng hoảng loạn trong trường giờ nghỉ trưa vọng đến. Thêm vào đó, bây giờ là thời gian vệ sinh bể bơi, tiếng lũ học sinh trực nhật cùng với tiếng nước dội ào ào thật náo động. Tôi cười và nói: - Ồn ào không? - Đến chói cả tai. - Shoji nói. - Em ăn cơm hộp à? - Em không ngủ ở nhà thì ai làm cơm hộp cho em chứ. Em ăn cơm căng-tin. - Tôi cười. - Em đúng là một cô bé cấp ba. - Giọng anh nghe đầy vẻ ghen tị. - Cảm ơn bức thư của em nhé. - Hai ba hôm nữa em lại tới. - Ừ. Tiếng huyên náo chạy khắp ngôi trường như lấp kín cả không gian. Lũ học trò thả sức vui đùa cứ như sự tự do của cả một ngày đều dồn vào ba mươi phút nghỉ trưa đó vậy. Những tiếng cười giòn tan, năng lượng được giải thoát. Tôi ngẩng mặt nhìn lên, bầu trời mùa hạ xanh biếc. Ánh nắng và bóng râm cứ lần lượt lướt qua con phố. Một buổi chiều chói chang. - Thế thôi em nhé. - Vâng, thế nhé. - Tôi dập máy. Đó là lần cuối cùng. Vào lúc đó, khoảng cách giữa đầu dây bên kia với bên này, giữa Shoji và tôi, xa và phức tạp hơn nhiều lần từ địa ngục tới thiên đàng. Cho dù tôi yêu anh nhiều lắm, nhưng sao tôi không thể làm cho anh hiểu được. Một thứ gì đó như không muốn truyền đi, không thể không truyền đi, hay không có khả năng nhận tín hiệu, và chẳng thể nào hiểu nổi. Tôi vẫn nghe người ta đồn đại rằng, những kẻ yêu nhau thường hay như vậy. Vào lúc ấy, tôi đâu biết rằng sự hư hoặc ấy là có thật trong hiện thực này. Tôi cứ nghĩ rằng nó chỉ xảy ra ở một thế giới sầu muộn xửa xưa, như trong những chuyện cổ tích của xứ sa mạc thẳm xa nào đó, nó tuyệt chỉ là một câu chuyện đau khổ không có thật. Chỉ riêng tôi ngỡ mình đang sống giữa khu vườn địa đàng ấy mà thôi.   Mời các bạn đón đọc N.P của tác giả Banana Yoshimoto.
Người Tình Của Brecht
Một tác phẩm không thuộc hàng best-seller tại Việt Nam, báo chí hầu như không nhắc đến, độc giả đã quên tên, thậm chí chưa từng nghe. Nhưng những điều ấy chẳng khiến “Người tình của Brecht” mất đi giá trị vốn có. Đơn giản, bởi đó là một câu chuyện thành thực, xúc động và u buồn được Jacques-Pierre Amette kể lại bằng văn phong tinh tế. Người tình của Brecht là cô đào Maria Eich, người được nhân viên mật vụ Đức Hans Trow giao nhiệm vụ theo sát nhà soạn kịch Brecht. Sau những khóc cười của nghề diễn, sau niềm ngưỡng vọng và cả sự vô cảm dành cho Brecht, sau tình yêu không thành với Hans Trow, Mria Eich trở về sống và dạy học ở một vùng quê yên tĩnh, đôi khi nhớ lại quá khứ như một hư ảnh xa xôi, ngày ngày cảm nhận sự thanh thản của cuộc sống mới. Cái tên và cốt truyện dễ khiến ta lầm tưởng. Một kịch tác gia lớn, một cô đào xinh đẹp, những nghi kỵ chính trị, nhân viên tình báo núp dưới danh nghĩa người tình. Như vậy đã đủ để người đọc chờ đợi một câu chuyện sexy và gay cấn. Nhưng Jacques-Pierre Amette không khai thác câu chuyện theo hướng ấy. Xuyên suốt tác phẩm là quang cảnh điêu tàn, không khí ngột ngạt của Đông Đức thời hậu chiến, là thân phận của con người giữa vòng kiêm tỏa của quyền lực mù quáng, sự lầm lạc giữa tình yêu với cảm giác choáng ngợp, và cuối cùng là niềm thanh thản sau những biến động đã qua. Một trong những đặc điểm của lối viết hiện đại đó là chối từ sự lên gân của cảm xúc, sự bùng nổ (đôi khi không thật cần thiết) của ngôn từ, sự cường điệu khi xây dựng hình ảnh. Điều đó khiến người đọc bấy lâu quen được ru vỗ trong những tác phẩm du dương cảm thấy hụt hẫng. Nhưng đó cũng chính là lối viết mà cuộc sống hiện đại kiếm tìm, lối viết chân thực, trong sáng, tinh tế, ít biểu cảm, đôi lúc gần đạt tới độ “vô sắc”(1). “Người tình của Brecht” là tác phẩm tiêu biểu cho lối viết ấy. Đọc những trang văn của J.- Amette, ta nhận ra, đây chính là những gì đã được tác giả chưng cất từ cuộc sống, một cuộc sống đầy rẫy những biến động, dễ khiến người ta liên tưởng đến nhiều điều ly kỳ, nhưng thực chất trong thẳm sâu của nó vẫn là dòng chảy giản đơn, vẫn là những câu chuyện muôn đời: con người giữa vòng xoáy của lịch sử, khát vọng hạnh phúc và cuộc truy tầm tuyệt vọng, cảm giác thanh thản sau những biến động đã qua. J.-Amette, khôn ngoan và thành công, khi chọn lối viết này, để câu chuyện hiện lên như những gì nó vốn thế, nên thế, và bức tranh thiên nhiên, tâm trạng giữ nguyên được chất thơ và sắc màu tự nhiên nhất. *** Sinh ngày 18 tháng 5 năm 1943 ở Sain-Pierre-sur-Dives, vùng Calvados, Jacques-Pierre Amette tự hào với gốc rễ Normandice của mình trong rất nhiều tiểu thuyết, như cuốn Tuổi trẻ trong một thành phố Normandie. Là một độc giả mê thích Bermanos, Dostoievski, Stendhal và cả Proust, ông đã làm nghề dạy văn trước khi trở thành cây viết phê bình văn học cho tờ Ouest-France năm 1965, rồi chuyển sang làm cho tờ Point. Tiểu thuyết đầu tay Kỳ nghỉ của Amette ra đời khi ông mới 22 tuổi. Từ đó đến nay Amette đã viết khoảng 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch, tập thơ; đồng thời thường xuyên viết cho radio và tivi. Ông yêu nước Đức và say mê Bertolt Brecht, tác giả của vở Opéra bốn xu, Mẹ Dũng cảm… Jacques-Pierre Amette hiện đã lại bù đầu với những tình tiết lắt léo đầy chất Brecht trong cuốn Tỉnh lị, một tiểu thuyết nữa của ông. *** Tại Ðông-Berlin thời hậu chiến, đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Bertolt Brecht, nhà viết kịch lưu vong trở về, với một nữ diễn viên trẻ, nhân viên mật vụ Ðức. Brecht đã trở về, hoành tráng, với đoàn kịch của ông. Nhưng lại bị nghi ngờ, cả ý tưởng, lẫn con người, đến hành động. Để nắm chắc, giám sát ông ta không rời nửa bước, viên mật vụ Hans Trow đã dùng đến thân thể của Maria Eich, một cô đào trẻ, bí ẩn và giỏi diễn. Vậy là nàng đã trở thành người tình của Brecht. Bức chân dung lôi cuốn về hai con người bị kìm hãm trong bối cảnh nghẹt thở của chiến tranh lạnh.     “Khi tiểu thuyết đùa với lịch sử, khi hư cấu trộn lẫn với hiện thực, để có thể làm những gì mình muốn. Ðó là trường hợp của Người tình của Brecht, cuốn sách mô tả cuộc sống trong cái nước Ðức quỳ gối, bị tàn phá, hư hại… Chẳng quan trọng gì việc câu chuyện có thực hay bịa, bởi nó đã được viết ra. Và viết một cách tuyệt diệu, không ép-phê, không thêm thắt không day dứt, cũng chẳng thống thiết. Chỉ với đúng các từ và các từ đúng, theo kiểu của Brecht. Vậy là cái thế giới lịch sử, nghệ thuật đã sống dạy dưới ngòi bút chạm khắc của Jacques-Pierre Amette. Một kỹ nghệ tiểu thuyết, được đền bù bằng giải Goncourt.”   Céline Damon, Amazon.fr     “Ban giám khảo giải Goncourt đã vội vã công bố giải trước hai tuần vì họ không muốn mạo hiểm trong dịp kỷ niệm 100 năm một trong những giải thưởng Văn học lâu đời và danh giá nhất thế giới này, bởi cuốn Người tình của Brecht rất dễ bị các giải đối thủ khác lựa chọn.”   The Guardian     “Tác phẩm chín muồi của một tác giả danh tiếng đã viết cả thảy khoảng một trăm tiểu thuyết, truyện và kịch; Người tình của Brecht của Jacques-Pierre Amette thật sự tuyệt vời như mong muốn của Edmond de Goncourt, “một tập tưởng tượng bằng văn xuôi”.”   Radio France   Mời các bạn đón đọc Người Tình Của Brecht của tác giả Jacques Pierre Amette.
Như Một Cuốn Tiểu Thuyết
Như một cuốn tiểu thuyết hẳn nhiên không phải là tiểu thuyết, mà lại được viết như tiểu thuyết, được đọc như tiểu thuyết... Đó là những quan sát, ghi chép về những thắc mắc, nghi ngờ, truy vấn, bàn bạc, tranh cãi, thậm chí giận hờn, trách móc giữa ba nhóm nhân vật (đôi khi có tên, thường thì không có tên): người lớn (cha mẹ, thầy giáo, người thân), trẻ em (con cái, học trò) và sách (danh từ chung, số nhiều, đại diện cho văn chương)! Nhiều tình tiết ly kỳ, đầy kịch tính, phô bày những nghịch lý hiển nhiên mà đôi khi giáo dục học phải thốt nên lời bất lực: phải đọc - trẻ mở trang sách ra và... ngủ! Cấm đọc - trẻ trốn vào chăn và... nuốt gọn quyển sách! Khi chưa biết đọc, đứa trẻ là độc giả trung thành mỗi đêm với những chuyện kể từ trang sách. Đến khi đọc thông viết thạo, chàng trai cô gái ấy đếm từng trang sách như một cực hình! Ai đã biến sách thành bức tường đá và dìm niềm vui đọc sách vào vực xoáy thẳm sâu? Cha mẹ, thầy cô, khoa sư phạm, hay truyền hình và đủ thứ món giải trí khác thời nay? Đầy những phát hiện thú vị, hấp dẫn, nhiều ẩn dụ, so sánh bất ngờ, độc đáo, cuốn “tiểu thuyết bốn chương, 67 hồi” này là một giáo trình tâm lý học dẫn dắt chúng ta cùng đi khám phá và tìm ra bí quyết nuôi dưỡng niềm say mê, sự hứng thú với văn chương trong suốt cuộc đời.   DUYÊN TRƯỜNG *** Daniel Pennac tên thật là Daniel Pennacchioni, sinh năm 1944 tại Casablanca (Ma Rốc). Thuở nhỏ, ông đã theo chân bố mẹ đi khắp nơi trên thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi... Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Nice (Pháp), ông chỉ dạy học và thời gian còn lại ông dành cho công việc viết văn. Nhờ những trải nghiệm sống phong phú có được qua những chuyến phiêu lưu thuở nhỏ đã góp phần không nhỏ tạo nên sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của nhà nhà văn: tiểu luận, tiểu thuyết trinh thám, sách cho thiếu nhi, truyện tranh, tự truyện... Daniel Pennac đặc biệt ghi dấu ấn trong nền văn học Pháp với những câu chuyện viết cho thiếu nhi. Giọng văn hài hước mà không kém phần sâu lắng, tình bạn giữa con người và loài vật, những khám phá vô cùng thú vị về thế giới “bốn chân” đã đem lại cho từng trang viết của ông sức hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả mọi lứa tuổi.   Ông là tác giả của nhiều cuốn sách được các em thiếu nhi yêu thích như: “Comme un roman” (Như một cuốn tiểu thuyết), “Au bonheur des orges”, “La Petite Marcande de prose”… “L'œil du loup” (Mắt sói) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Daniel Pennac, được Bộ Giáo dục Pháp chỉ định là tác phẩm tham khảo chính thức trong nhà trường, được đưa vào giảng dạy trong hệ thống trường phổ thông của Pháp và được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Pháp.    Ngoài ra, “Cabot-Caboche” (Cún bụi đời) là một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi thành công nhất của Daniel Pennac. Cuốn sách là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi là tinh tế trong cảm nhận và giản dị trong văn phong của tác giả.   Năm 2007, Giải Renaudot, một trong những giải thưởng văn học cao quý nhất của Pháp đã được trao cho Daniel Pennac với tác phẩm Chagrin d'Ecole.   Một vài tác phẩm:   - Cabot-Caboche (1982)   - L'œil du loup (1984)   - Au bonheur des ogres (1985)   - La Fée Carabine (1987)   - La Petite Marchande de prose (1989)   - Comme un roman (1992)   - Merci (2004)   - Chagrin d'école (2007) *** Động từ đọc không thể chấp nhận thể sai khiến. Một số động từ khác như “yêu” “mơ ước”… cũng vậy.   Tất nhiên, thử dùng thì cũng được. “Yêu em đi!” “Mơ ước đi!” “Ðọc đi!” “Ðọc đi! đọc đi mà, chúa ơi, đọc đi nào!”.   - Vào phòng và đọc đi!   Kết quả thế nào?   Chẳng thế nào cả.   Cậu bé ngủ gục trên trang sách. Đột nhiên, khung cửa sổ trước mặt như mở ra một vùng trời mơ ước, nơi cậu bé thỏa sức bay bổng. Để trốn khỏi những trang sách. Nó ngủ nhưng mà rất tỉnh: quyển sách vẫn mở rộng trước mặt. Chỉ cần nhẹ mở cánh cửa phòng là đã thấy cậu bé ngoan ngoãn ngồi đọc sách. Ngay cả nếu như ta rón chân thật nhẹ nhàng thì nó cũng nhanh chóng tỉnh giấc.   - Thế nào, có hay không?   Cậu bé sẽ chẳng nói không, chẳng dại gì mà phạm một tội lớn. Sách là cái gì đó thiêng liêng, làm sao mà có thể không thích đọc sách cho được? Không, thằng nhóc sẽ nói rằng những đoạn miêu tả dài quá.   Quá yên tâm, chúng ta trở lại trước màn hình tivi. Có thể ý kiến của cậu bé còn tạo ra một cuộc tranh luận thú vị giữa người lớn chúng ta…   - Nó thấy các đoạn miêu tả quá dài. Tất nhiên rồi, chúng ta đang ở thế kỷ của truyền thông, của hình ảnh trong khi các nhà tiểu thuyết của thế kỷ 19 lại phải dùng ngòi bút để miêu tả mọi thứ…   - Nhưng không phải vì thế mà cho phép nó bỏ qua một nửa số trang!   …   Thôi, đừng tranh luận làm gì cho mệt óc, thằng bé lại lăn ra ngủ rồi.   ... Mời các bạn đón đọc Như Một Cuốn Tiểu Thuyếtcủa tác giả Daniel Pennac.
Những Kẻ Văn Minh
Những kẻ văn minh đạt giải thưởng Goncourt vào năm 1905, nhưng công chúng cũng như độc giả có học thức không biết gì về tác giả Claude Farrere và cuốn tiểu thuyết. "Những kẻ văn minh", đó là thực dân, những người phải mang cái gánh nặng của người da trắng mà Kipling ca tụng: Văn minh, ít nhất là của họ. Vì khí hậu của Sài Gòn và Hà Nội, vì thuốc phiện, những nhân vật chính của cuốn sách phải đối mặt với một sự từ bỏ bi quan, thậm chí còn hoài nghi, những giá trị truyền thống: đạo đức, pháp luật. Cuốn tiểu thuyết này khi mới ra đời đã rất gây tranh cãi. Đây cũng là một giải Goncourt kì lạ vì tiểu thuyết này có hình ảnh của loại sách làm người ta hư hỏng, của loại tiểu thuyết hủy hoại sự trong trắng. *** Claude Farrère, bút danh của Frédéric - Charles Bargone (1876 - 1957), là một tiểu thuyết gia người Pháp với những tác phẩm có bối cảnh ngoài nước Pháp như Istanbul, Sài Gòn và Nagasaki.   Một trong những tác phẩm của ông là Những kẻ văn minh (Les civilisés) đã đoạt giải Goncourt năm 1905. Ngày 26 tháng 3 năm 1935, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp.   Ban đầu giống như cha mình, một đại tá bộ binh từng hoạt động tại các thuộc địa của Pháp, ông gia nhập học viện hải quân năm 1894, thăng chức trung úy vào năm 1906 và đại úy năm 1918. Vào năm 1919, ông từ chức để tập trung vào nghiệp viết văn.   Các tác phẩm của ông phần lớn không được chú ý, kể cả với độc giả Pháp. Tuy nhiên ông vẫn là một trong những tác giả lớn của nền văn học Đông Dương tại Pháp cùng với các tên tuổi như Malraux, Duras, Dorgelès, Viollis..  *** Trong khoảnh sân trồng những cây phượng lớn rùm ròa tỏa bóng, quãng giữa ngôi nhà và cổng của chấn song, hai anh phu Bắc Kỳ đưa xe ra, một chiếc xe kéo rất lịch sự, sơn then và ánh bạc. Họ xếp hàng dọc giữa hai càng xe đứng đợi ông chủ, lặng phắc như hai bức tượng quấn lụa. Xe và người làm thành một cỗ nom đỏm dáng, đẹp như tranh vẽ là đằng khác giữa Sài Gòn, nơi chỉ dân thường mới còn đi xe kéo. Nhưng bác sĩ Raymond Mévil vốn tính khá độc đáo, vả chăng anh ta có một chiếc xe ngựa mui trần và nhiều ngựa chạy hay. Thế nên mọi người bỏ qua cho anh ta cái thói ngông đi xe kéo và vi phạm mốt thời thượng – một cách xa hoa.   Lúc ấy bốn giờ chiều, giờ tỉnh giấc ngủ trưa. Bác sĩ không tiếp khách muộn hơn giờ này – cách thức kín đáo, ở cái xứ mà đường phố vắng vẻ cho đến lúc mặt trời lặn. Hôm ấy Raymond Mévil đi ra sớm, không phải cho cuộc đi dạo thường lệ trước bữa ăn tối, mà cho một vài thăm viếng không hẳn trong nghề nghiệp mà vả chăng anh ta cũng làm khá thưa thớt, vì chiến thuật của anh ta là ít khi xuất hiện.   Một cô “người ở”[1] búi tóc trơn mở cửa, ném vài câu bông đùa với hai anh phu xe, bất thình lình đứng lặng phắc, vẻ gái nhà lành: ông chủ vừa xuất hiện. Anh ta bước xuống bậc thềm, bước chân trẻ nhưng đã chậm, đưa ngón tay vuốt bầu vú cô gái qua lần áo lụa đen, và bước lên xe. Chiếc xe nhỏ bắt đầu lao nhanh, đám phu xe chạy vun vút để gió mạnh thổi mát mặt người phương Tây. Ở các cửa sổ, qua những khe cánh cửa chớp, những ánh mắt phụ nữ ngắm nhìn các bộ chế phục phu xe trắng toát viền vải điều, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của vị khách, nom còn quyến rũ hơn cả cái vẻ xa hoa bao bọc anh ta. Bác sĩ Mévil được phụ nữ yêu, trước hết vì anh ta yêu thích phụ nữ, và chỉ yêu thích họ, thứ đến vì anh ta đẹp, một vẻ đẹp khiến tất cả họ đều bối rối, một vẻ đẹp khêu gợi ẻo lả tới mức sỗ sàng. Anh ta trắng trẻo, tóc màu hung, với cặp mắt xanh biếc quá dài, và cái miệng bé đỏ mọng. Mặc dù đã ngoài ba mươi, anh có vẻ thanh niên, và dáng người béo tốt như người ta hình dung anh. Bộ râu mép dài màu sáng, nom anh như một người Gaulois suy tàn, mà các thế kỷ đã làm cho tinh tế và thuần thục.   Cái giống nhau chỉ là tình cờ, Mévil khoe mình là dân khá văn minh mà mọi thứ máu của mọi thứ nguồn gốc đều trộn lẫn vào nhau trong huyết quản.   Chiếc xe tay chạy lon ton giữa các bóng cây ven đường, né tránh mặt trời xiên khoai vẫn hừng hực. Người chủ dùng đầu ba toong chỉ đường cho phu xe. Để dừng lại, anh ta thúc gậy vào vai họ, bảo: “Thôi!”. Xe đi vào một khu vườn có biệt thự. Dọc hàng rào, nhiều chiếc xe đang đợi, với những người phu giữ ngựa An Nam thấp tè nắm chặt hàm thiếc ngựa.   - À, ừ, Mévil nghĩ, hôm nay là ngày con bé tiếp khách, thế mà mình không nhớ ra.   Anh ta ngần ngừ giây lát rồi nhún vai, tìm trong túi chiếc ví đựng danh thiếp soát lại trong ấy – có mấy tờ bạc Đông Dương. Tiếp đó, Raymond Mévil quẳng chiếc ba toong cho một anh bồi vừa chạy ra, và đi vào nhà.   Ngôi nhà cũ kỹ rộng thênh, có dáng trăm phần trăm thuộc địa.   Hai phòng đợi dẫn tới chiếc phòng khách được xếp dồn ở cái chái tốt nhất, kéo dài bằng cả một hàng hiên rủ những bức mành mành tranh tối tranh sáng. Mọi cái đều to lớn thênh thang, cao như nhà thờ; các bức vách ngăn không chạm được tới trần, hơi nóng quẩn dưới rầm. Phía bên dưới không khí mát mẻ, các đồ đạc đều bằng gỗ mun chạm xà cừ, phảng phất tỏa một mùi bản xứ.   Trong tiền sảnh, Raymond Mévil vấp phải một người nào đi ra, một nhân vật trịnh trọng mặt mày nhẵn nhụi, da màu vàng chanh, cử chỉ nặng nề - ông chủ nhà này, Ariette, trạng sư ở Tòa Án. Hai người bắt tay nhau rất thân mật; gương mặt buồn tẻ của ông trạng sư thậm chí còn vặn vẹo thành một nụ cười niềm nở chắc hẳn không thường dùng để chào đón tất cả mọi vị khách.   - Nhà tôi có nhà, ông nói, và rất cảm ơn ông có nhã ý đến thăm. Đã khá lâu rồi tôi không có hân hạnh gặp ông tại nhà này.   - Xin ông bạn thân mến tin rằng chỉ là do tính tôi lười biếng, và ngôi nhà của ông đối với tôi là thân thiết nhất ở Sài Gòn.   Viên trạng sư tỏ ý hân hoan, dường như có vẻ cất được mối lo lắng.   - Tạm biệt ông nhé, ông bác sĩ. Ông biết là Tòa án đang gọi tôi, như mọi khi.   - Vụ kiện thú vị chứ?   - Ly dị thôi, dĩ nhiên. Chúng ta sống một thời điểm hết sức tồi tệ.   Ông ta bỏ đi, cặp ôm trong tay, bước chân khô khốc như người máy, dáng vẻ khắc khổ và nghiêm nghị. Raymond Mévil quay nhìn sau lưng ông ta, nhăn mặt cười mỉm.   Trong phòng khách, tám hoặc mười người phụ nữ đang ba hoa trò chuyện, vẻ vừa diêm dúa vừa chểnh mảng trong những chiếc áo dài kiểu Sài Gòn nom như những áo choàng sang trọng. Từ ngưỡng cửa, Mévil nhìn nhanh tất cả khắp lượt, rồi ung dung bước vào giữa đám để chào trước hết bà chủ nhà, một bà tóc nâu duyên dáng mắt trinh khiết, bà ta chìa tay cho anh ta hôn.   - Xin chào vị Đại học Y. Ngọn gió lành nào đưa ông đến đây vậy?   - Hôm nay, - người thầy thuốc đáp, - đơn giản là Đại học Y tới tỏ lòng kính trọng dưới chân đoàn Luật sư.   Anh ta cúi mình trước từng bà khách, nói những lời tình tứ bạo phổi, rồi ngồi xuống. Anh là trung tâm mọi ánh mắt nhìn. Đám phụ nữ tỏ ra ưa thích anh, và cái danh tiếng Don Juan[2] của anh thế là được xác lập.   Anh không hề bối rối và gẫu chuyện. Anh không thiếu dí dỏm và biết cách chứng tỏ là người được phụ nữ ưa thích. Vốn bản tính phù phiếm, anh chú tâm để tỏ ra càng phù phiếm hơn nữa, và sử dụng cái thói phù phiếm ấy như một vũ khí trong các trò quyến rũ tình ái; người ta thông cảm với anh về thói lông bông hám gái và dễ dàng thổ lộ tâm tình với anh mà không hề đắn đo tự ái.   - À này, bà Ariette chợt nói, tôi đang định cho người sang mời ông đấy, ông thầy lang ạ.   - Bà ốm hả? ... Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Văn Minh của tác giả Claude Farrère.