Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đi Tìm Sylvie Lee

Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lãng Quên Em Sau Mùa Vũ Hội
Với giọng điệu duyên dáng và hóm hỉnh, “Lãng quên em sau mùa lễ hội” của nhà văn lãng mạn người Mỹ - Julia Quinn khiến độc giả cảm thấy mình yêu đời hơn và muốn được, dù chỉ một lần, nhấm nháp chút men nồng của tình yêu. 12 năm - đó là khoảng thời gian dành cho mối tình đơn phương của Penelope dành cho người đàn ông hấp dẫn nhất London - Colin Bridgerton. Tiểu thư nhà Featherington đã bị "sét đánh" trước tuổi mười sáu cho tới khi trở thành "gái già". Từng ấy thời gian cho một câu chuyện tình xuất phát từ một phía là quá dài, thậm chí tới mức nhàm chán nhưng với Penelope thì không hẳn như vậy. Và cô gái già này đã tỏa sáng theo cách riêng của mình. Kể về một mối tình lãng mạn đặt trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX, Lãng quên em sau mùa vũ hội mang tới một góc nhìn châm biếm về xã hội thượng lưu Anh. Đó là nơi mọi người giết thời gian bằng ti tỉ những câu chuyện phiếm mà gia vị tăng giảm phụ thuộc vào kỹ năng hóng hớt của các bà các cô. Và người đã mạnh dạn đứng ra châm ngòi cho cái nhìn hài hước là một nhân vật bí ẩn, ký bút danh là phu nhân Whistledown cùng sự xuất hiện của Thời báo Xã hội mỗi tuần ba số. Với những thông tin chính xác cùng cách điểm mặt đích danh các nhân vật có thật, các bài báo của phu nhân Whistledown nhanh chóng trở thành liều thuốc buôn chuyện cho giới thượng lưu ở London. Và cho dù Penelope xuất hiện lần nào cũng chua chát lần đó, nhưng hãy chờ xem một cái kết có hậu được dự đoán ở phần cuối của cuốn sách này. Chẳng có thần may mắn nào mang tình yêu tới cho Penelope ngoài chính cô. Không như vẻ ngoài khá mờ nhạt cùng tốc độ ngôn ngữ luôn phản ứng chậm hơn so với điều lẽ ra phải xảy ra, đó là một cô gái vô cùng đặc biệt mà chỉ có những người nào thật hiểu cô mới cảm nhận rõ điều đó. Và nếu như tình yêu duy nhất của cô – Colin là một người đàn ông nhạt nhẽo, chỉ thích rong chơi qua những chuyến du lịch thì có lẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Penelope không chỉ là một cô gái luôn đứng bên rìa các vũ hội, cô có khả năng làm nhiều chuyện to tát hơn là nhăm nhe tìm cho ra đức lang quân tại đó. Chính những hành động mà cô đã can đảm thực hiện vượt qua ngoài quy tắc thông thường đã đánh thức Colin biết cảm nhận và chiêm ngưỡng cô đến mê muội. Với tác phẩm Lãng quên em sau mùa vũ hội, nhà văn lãng mạn người Mỹ - Julia Quinn mang tới một giọng điệu duyên dáng và hóm hỉnh. Làm thế nào để một cô gái già chinh phục được người đàn ông quyến rũ nhất London? Đó là một giấc mơ thật ngọt ngào và thú vị. Đọc sách Lãng quên em sau mùa vũ hội, độc giả sẽ cảm thấy mình yêu đời hơn và muốn được, dù chỉ một lần, nhấm nháp chút men nồng của tình yêu. Và khi yêu, mọi điều kỳ diệu nhất đều có thể xảy ra. Tại sao lại không? *** Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra 24 thứ tiếng, 16 lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA và Chuyện xảy ra ở London đã mang lại cho Quinn giải RITA năm 2010. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác khi vừa rời trường trung học, và thành công ngay từ các tác phẩm đầu tay. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ.   Những tác phẩm của Julia Quinn đã được xuất bản: Như Chốn Thiên Đường - Julia Quinn Tử Tước và Em - Julia Quinn Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn Công Tước Và Em - Julia Quinn Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế - Julia Quinn Rồi Cũng Khép Những Tháng Ngày Đơn Độc - Julia Quinn Chuyện xảy ra ở London - Julia Quinn Rạng rõ hơn Ánh Mặt Trời - Julia Quinn Hẹn Ước dưới Vầng trăng - Julia Quinn Tiểu Thư Tinh Ranh Bí Mật Của Những Nụ Hôn Một Mình Yêu Anh Vì Cô Bridgerton Cô Gái Với Niềm Tin Vợ Chồng Lãng Quên Em Sau Mùa Vũ Hội ... *** Penelope Featherington, Colin Bridgerton: Năm ngoái mình đọc một cuốn gì đó của Julia Quinn hoặc đại loại của một tác giả lãng mạn phương Tây nào đó và tự nhiên không có một chút ấn tượng nào về thể loại này cho đến khi mình tìm đọc nhiều hơn từ các tác phẩm của Mary Balogh – viết về những người phụ nữ luôn mỉm cười lạc quan, Barbara Cartland – với những cô gái luôn phải vượt qua rất nhiều nghịch cảnh và đến Julia Quinn – mình đã yêu điên cuồng những người phụ nữ giản dị nhưng đầy cá tính. Còn đang ước ao sao không đọc về những tác phẩn của Julia sớm hơn. Bàn về cách hành văn, ngôn ngữ rất tinh tế, những câu thoại hóm hỉnh, thông minh, các tình tiết không thừa không thiếu, nhân vật được đặt vào trung tâm của câu chuyện. Một điều đặc biệt, từ khi đọc sách cho đến tận lúc này, chưa bao giờ mình khen tác giả viết về chuyện làm tình của nhân vật mà đẹp đến như vậy. Hoàn toàn không có chỗ cho sự dung tục trong giây phút riêng tư ấy, mình gần như cảm nhận được sự tôn trọng, dịu dàng lẫn trong sự cuồng nhiệt cháy bỏng của Colin bị nàng Penelope hút lấy cả tâm hồn lẫn thể xác. Thật vậy, những nụ hôn không chỉ khiến con tim của bạn đọc ngất ngây, Julia đã thổi những tình cảm đầy mê hoặc vào từng cái vuốt ve, từng điệu cuốn lưỡi, từng sự đụng chạm rụt rè đầy quyến rũ. Quả thật không hổ danh cho người đã từng học Havard! Penelope là một cô gái nhà Featherington, có một khởi đầu không mấy tốt đẹp trong mùa lễ hội ra mắt. Cô tự ti vì thân hình thừa cân, lại bị gói trong những bộ váy sặc sỡ hoàn toàn không phù hợp với nước da và vóc dáng của mình. Hai năm liên tiếp sau đó, cô luôn thiếu sự tin tưởng vào hình thể và không được quyền lựa chọn càng làm cho cô gái chán nản, dần dần đẩy cô sang bên lề của sàn khiêu vũ. Cô càng ngày càng có thể điêu luyện trong việc trở nên vô hình trong mắt mọi người xung quanh. Colin – ngược lại, là một chàng trai phong tình đầy quyến rũ, chưa có cô gái nào có thể làm khó chàng hay giữ được con tim của chàng trong chốc lát. Lần đầu tiên Penelope gặp Colin, cô đã hạ “đo ván” chàng bằng một cú ngã ngựa giữa công viên đông đúc. Vậy mà Colin dường như không xấu hổ, anh còn trêu ghẹo cô bé Penelope mười sáu tuổi khiến cô ngẩn ngơ, trái tim đập dồn dập và cô dường như đã yêu anh từ cái nhìn đầu tiên trong ngày nắng rực rỡ ấy. Và rồi mỗi năm vào mùa vũ hội, cô gái Penelope lại trông chờ lời mời khiêu vũ từ Colin – mà cô luôn tin chắc rằng anh mời cô vì mẹ anh bắt buộc, vì anh thấy thương hại cho sự “ra rìa” của cô trong giới quý tộc. Bảy năm sau, tình hình vẫn vậy, cô vẫn lặng lẽ trở thành một “gái già” bên cạnh cô bạn thân Eloise nhà Bridgerton. Mặc dù không quyết tâm làm bà cô, nhưng hai cô gái dường như đồng cảm và mặc nhiên chấp nhận cái sự ế ẩm của mình và không còn bị các bà mẹ lo sốt vó trong việc cưới gả nữa. Đang yên tâm với cuộc sống làm người tháp tùng và bám váy mẹ đến già, Penelope bị Colin “bắt bài”, anh dần dần phát hiện ra một Penelope mà chưa ai từng khám phá ra. Cô gái tưởng như vô hình đó lại chính là bản sao của phu nhân Danbury – một góa phụ rất cá tính, luôn đối đầu với tất cả mọi quý tộc, nhận xét thẳng thắn, bộc trực, hay châm biếm các thói quen rởm đời cũng như sự giả dối trong tình cảm nhưng cũng là người có lý có tình. Và phu nhân Whitledown chính là một phiên bản bí ẩn của phu nhân Danbury trên thời báo Xã hội. Người phụ nữ bí ẩn đó bắt đầu viết các bài báo châm biến giới quý tộc London từ năm Penelope bắt đầu bước chân vào các bữa tiệc. Với các bài báo châm biếm sắc sảo và công khai danh tính của từng người cụ thể, phu nhân Whitledown – hay còn gọi là phu nhân Tuýt còi gọi thẳng tên những bí mật xấu xa hoặc những thói khoe khoang của đám người rỗi hơi ấy. Và chính phu nhân Danbury cũng dần dần phát hiện ra Penelope rất có tài trong việc tự giấu mình cũng như thỉnh thoảng đưa ra những nhận xét rất đúng bản chất sự việc. Hai con người – một già một trẻ, một tự tin một nhút nhát ấy đặc biệt có cảm tình với nhau. Bà đã gây không ít ảnh hưởng thúc đẩy Penelope dần dần quay về với con người cô luôn che dấu. Và đúng lúc đó, Colin đã để mắt đến cô. Họ đã quen biết nhau nhiều năm, cô từng yêu, hâm mộ, hy vọng anh để mắt và ôm mối thất vọng mỗi năm một lớn dù tình yêu trong cô chưa bao giờ nguội lạnh. Rồi tình cờ, Penelope đọc được một trang nhật ký của Colin viết về những nơi anh đã đi qua, những trang viết làm cô ngạc nhiên vì khơi gợi biết bao cảm xúc trong lòng người đọc và những đồng cảm với người viết. Colin ngược lại khi phát hiện ra cô đọc lén nhật ký của anh đã rất tức giận, vì một phần anh xem đó là sự riêng tư của anh, nhưng phần lớn anh tự ti với những viết lách ấy mà anh nghĩ nó không làm cho anh mạnh mẽ hay giúp anh có một sự nghiệp để đời. Anh cảm thấy mình lông bông, không thành tựu trong tay, trong khi đó anh trai Anthony là một tử tước rất có trách nhiệm, và Benedict là một họa sĩ vẽ tranh phong cảnh được công nhận. Và cũng nhờ việc xem lén nhật ký mà hai người dần dần sít lại gần nhau hơn, cô thuyết phục anh xuất bản những ghi chép thú vị của mình, anh cũng nhờ cô cho ý kiến về chúng khi anh phát hiện ra cô có thể đưa ra những nhận xét tinh tế và đầy thấu hiểu. Rồi một ngày anh tình cờ phát hiện ra hành tung cực kỳ lạ lùng của cô khi cô lên một chiếc xe ngựa và đi đến khu đông London – một nơi đầy nguy hiểm cho một cô gái quý tộc nhỏ bé không có người đi kèm. Một bí mật tày trời mà anh đột ngột phát hiện ra cô chính là phu nhân Whistedown đầy bí ẩn mà cả giới quý tộc săn lùng bấy lâu nay. Anh đánh giá rất cao sự xuất sắc của cô trong sự nghiệp viết báo và khả năng che dấu suốt mười năm trời nhưng đồng thời cũng cảm thấy ghen tỵ vì cô gái nhỏ đã có một sự nghiệp lớn trong khi anh cứ trôi dạt suốt chừng ấy năm. Và anh cũng đột ngột ý thức được những hoàn cảnh khó khăn mà cô phải đối mặt khi thân phận đặc biệt này bị phát hiện. Vì không muốn cô bất lợi, bị gạt ra khỏi giới thượng lưu vĩnh viễn, anh đã cấm cô không được viết báo nữa. Hành động này làm cô hiểu lầm rằng anh cảm thấy xấu hổ vì những gì cô làm. Cho đến khi, nhân vật luôn tranh cãi và hạ thấp cô – cô bạn Cressida vạch trần thân phận thật sự của phu nhân Whitledown phía sau Penelope. Cô những tưởng không còn cách nào để đối mặt với khó khăn này thì Colin đã không chần chừ quyết định thay cô công bố với toàn xã hội rằng cô chính là người phụ nữ đầy quyền lực trong bóng tối, người đã duy trì vị thế thổi còi mọi điều bí ẩn của London trong suốt mười năm trời, người đã đưa ra những nhận xét vô cùng xác đáng và chưa bao giờ châm chích những con người tự trọng khác. Anh vui sướng thông báo cho toàn thể thế giới rằng cô gái Penelope không nổi bật ấy chính là một báu vật trong lòng anh và cô không hề tầm thường chút nào. Cô cuối cùng cũng buông bỏ được trách nhiệm làm người thổi còi, chấp nhận tình yêu của anh và còn động viên anh xuất bản cuốn sách du lịch mà anh đã chắp bút trong suốt những năm di chuyển không ngừng. Chàng trai quyến rũ và mải mê phiêu dạt đã tìm được vùng đất hạnh phúc của mình có tên Penelope. Chàng và nàng sẽ hạnh phúc mãi mãi về sau. Cô gái Penelope có chút đặc biệt trong lòng mình khi cô đã dũng cảm thực hiện một việc rất mạo hiểm nhưng cũng đầy thú vị trong các xã hội đầy sự nhàm chán và không ít giải dối. Tuy là một cô gái không nổi bật về ngoại hình, nhưng vẻ đẹp bên trong tâm hồn và sức mạnh từ những nhận xét sắc sảo đã làm nên một Penelope cá tính khác thường trong lòng Colin. Cô sẽ là phu nhân anbury trong tương lai, người luôn đối mặt với tất cả những điều phải quấy, đặt mọi vấn đề về đúng vị trí của chúng và trân trọng những con người tự trọng quanh mình. Mình luôn phải lòng những cô gái mạnh mẽ, có chút lạ lùng và rất bình thường ấy, họ chính là chúng ta trong một khóa cạnh nào đấy, trong một lúc nào đó và trong mắt một ai kia Review Zoe Tran   Mời các bạn đón đọc Lãng Quên Em Sau Mùa Vũ Hội của tác giả Julia Quinn.
Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan
Vào thời Vua Louis XIV, các quý tộc có vợ được vì vua chuyên chế để mắt tới là cả một niềm vinh hạnh cho dòng tộc. Cái ngày mà Vị Vua-Mặt Trời này đưa cặp mắt tình đặt lên tấm thân ngọc ngà của nữ Hầu tước De Montespan, giới quý tộc ở Versailles đều chúc mừng sự may mắn của đấng phu quân. Nhưng đấy là họ chưa biết hết tính cách của Louis-Henri Pardailan, Hầu tước De Montespan! Là một người chồng hạnh phúc, yêu vợ đến mê muội, chàng không chịu nổi cảnh vợ mình rơi vào tay con người có quyền lực mạnh nhất toàn cầu hồi ấy. Nơi mà vợ chàng, người đàn bà đẹp nhất nước Pháp bấy giờ đã từng phải thốt lên với chồng : “Versailles là một thế giới khủng khiếp và sẽ chẳng có cái đầu nào không quay cuồng ở đó. Triều đình làm thay đổi cả những con người kiên định nhất”. Ngay từ lúc khám phá ra điều bất hạnh của mình, chàng đã dùng mọi phương tiện, từ cao ngạo, hỗn xược đến ti tiện để chứng tỏ cho nhà vua thấy rằng ông ta chỉ là kẻ đớn hèn, lấy cắp vợ của kẻ khác. Hầu tước đã trở thành trò cười cho thiên hạ khi chàng cho trang trí trên chiếc xe tuyệt mỹ của mình một cặp sừng nguy nga. Chàng từ chối tước hiệu, bổng lộc, những cơ hội đầy hứa hẹn mà nhà vua hứa ban tặng nếu chàng để mắt làm ngơ trước cuộc tình của Vua và vợ mình. Chàng từ chối hết thảy, đơn giản là chàng không rao bán vợ mình. Bất chấp những thủ đoạn đê tiện liên tiếp được Vua tung ra, đến những vu cáo phải đưa ra tòa xét xử, đến những ngày ngồi tù, gia tài đình đốn, suy kiệt, và cả những âm mưu ám sát, chàng vẫn cứ tiếp tục đeo đuổi lòng hận thù đối với con người đầy quyền lực hòng lấy lại vợ mình. Jean Teulé đã đằm mình vào trong quá khứ vinh quang của hoàng gia Pháp, bới tìm tất cả những thói thường diễn ra trong tầng lớp quý tộc. Những trò giả dối, đạo đức giả, lừa gạt tiền, tình… đằng sau những hào nhoáng là chất đầy những trò sa đọa, đàng điếm, con người luôn rình rập những thất thế của người khác để dè bửu, nhạo báng lẫn nhau. Tình cảm, tình thương yêu của con người đều được đem ra tính bằng chức tước bổng lộc. Tình vợ chồng mong manh… Gấp lại cuốn sách, chúng ta phần nào thấy được quá khứ của xã hội Pháp, nhưng phải chăng điều ấy giờ đây vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Tác phẩm như một áng thơ ca, ca ngợi tình yêu, tình người bất diệt mà như tạp chí Nouvel Observateur đã viết: thật tài, đó như là một điều kỳ diệu của nền văn học Pháp. Bạn đọc có thể bị xáo trộn tâm hồn, bị đè nén, nhưng lại cười, cười với niềm hy vọng mạnh mẽ nhất. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Công ty CP sách An Tiêm.   Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Để nhìn tất thẩy các lệnh bà Và người đầu tiên Người nhìn thấy Đã khiến tâm hồn Người ngất ngây. Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Lệnh bà xinh đẹp đó là ai? Và Hầu tước đã tiếp lời: «Tâu Bệ hạ, đó chính là vợ tôi…» (Bài hát của Saintonge, thế kỷ XVII) *** Thứ bảy ngày 20 tháng giêng năm 1663, vào quãng mười một giờ khuya, lúc ra khỏi Palais - Royal, nơi Đại công tử - em trai Vua - tổ chức một đêm khiêu vũ rầm rộ, thì hai thanh niên, được sáu người khác theo sau, lao vội vã vào trong phố. Họ mắng chửi nhau trong ánh sáng lóa của lông mũ và đăng ten. - Fils de prêtre! - Cul-vert!* • Tác giả chơi chữ, đồng âm khác nghĩa. Fils de prêtre: đồ con cha xứ (hay cũng có thể hiểu là đồ quạ con, khi thóa mạ nhau).Cul-vert: đồ nô lệ vừa được giải phóng. Một người cao gầy nhỏng, môi loe hếch ngược phô hết cả hàm lợi, trong trang phục sặc sỡ, tô điểm kim cương lấp lánh, xô một tên nhỏ thó bụng phệ đội tóc giả đen làm ra vẻ ta đây to lớn vì đôi giầy của hắn cao hết sức. Đeo đầy nhẫn và vòng tay, tên này vừa đi loạng choạng trên gót giầy, vừa như ngạt thở: - Cul-vert à?! La Frette ư! Ta, hoàng thân xứ Chalais mà mi dám coi ta là nô lệ được giải phóng ư? - Ông hoàng của những kẻ ham tình dục đồng giới thì có, đúng thế, đồ đít xệ! Hệt như Đại công tử, mi thích công tử bột hơn là đàn bà ba hoa. Còn ta, ta ghét cay ghét đắng thói đồi bại Ytalia. Mi hả, mi qua Naples mà không cần dùng cầu*! • Ý chỉ bọn đồng tính luyến ái. (Tất cả chú thích trong truyện là của người dịch). - Ối! Trong suốt cuộc cãi cọ này, cánh cửa phòng khiêu vũ, đã khép lại, vẫn được đèn rọi rất sáng, ồn ã tiếng nhạc, bốc hơi nghi ngút, đầy những động tác cuồng loạn của các vũ công, còn đây, tám người bọn họ, hiện có mặt trong bóng đen băng giá của đường phố. Một tên gù, ngồi chồm hỗm sát một cái cột, cầm một ngọn đèn sáng được đặt trong một cái bong bóng lợn, treo nơi đầu gậy, liền đứng lên ngay, đi về phía họ và gọi gióng từ xa: - Một cây đèn soi đường đưa các ngài về nhà chứ ạ, thưa các Đại công tử?… Bị thọt, hắn đi khập khiễng, người lắc lư. Tóc ép sát tận da đầu, thắt lại sau gáy thành dây giếng, hắn đi vòng quanh họ với chiếc đèn lồng chiếu sáng từng khuôn mặt. Tên Chalais nhỏ bé giang tay tát La Frette, đầu người này lắc mạnh, phả ra một làn bụi phấn đậu tằm. Bị xỉ nhục, tên cao lớn ngậm miệng, mím môi trùm kín hai hàm răng mà hắn đã trang điểm theo lối Hà Lan - quệt bơ vào các lỗ răng sâu, răng cửa và răng nanh, và do vậy mà hắn phải bành miệng, nhe lợi để làm lạnh khối bột sữa nhão ấy, tránh cho nó khỏi chảy ra. Nhưng hiện giờ, đang cơn bực tức cao độ, hắn nghiến chặt môi thành hình đít gà và phồng má trong một mối oán giận nóng bỏng. Khi hắn mở miệng trở lại, ôi thôi lũ răng của hắn trôi đi: «Cậu đã thấy chưa hả, Sain-Aignan? Nó đã tát…» - Mi đã tát anh trai ta hả, cul-vert? Một hiệp sĩ cộc cằn ác độc mười chín tuổi, đội mũ đính nhiều lông dài chĩa tua tủa và một mắt bị chột do đậu mùa, đứng sững trước Chalais. Tên xách đèn lồng, chào hàng dịch vụ chiếu sáng di động cho cả hai bên, biện bạch hành động của mình: - Đêm tối, lũ bất lương, kẻ cướp đường và bọn con trai tồi tệ, thường rình rập khách qua đường đang hối hả trở về nhà… Tám thanh niên đeo tóc giả*, chia thành hai bang, diện mạo báng bổ, tạo những bộ mặt gớm ghiếc, giằng xé các mảnh vải lụa và ru-băng trên trang phục của nhau. Tên xách đèn lồng nâng cái bong bóng sáng của mình lên: Một trong số họ, người vừa bị rủa: «Flamarens, đồ tồi đàng điếm», có vẻ mặt nhợt nhạt. Hắn đã lấy bút vẽ tự họa những đường ven giả xanh lơ, màu của giới quý tộc và của máu tinh chất. Kẻ xách đèn lồng hạ chùm sáng xuống, những cặp giầy trên nền đường lát đá bắt sáng lấp lóa. Dầu bắt đầu bốc hơi: • Đeo tóc giả là biểu trưng rất thịnh hành của giới quý tộc trong thời Vua Louis XIV tại Pháp. - Năm sol một cuốc đê! Năm sol có là gì khi mà, như các ngài đây, đeo đế giày đỏ của những quý tộc gia chứ? Một lưỡi kiếm hiểm độc bốc mùi bội phản được rút ra lóe sáng, khoắng một nhát lên một khuôn mặt còn đang ngỡ ngàng: «Noirmoutier!» Kẻ bị rách mặt, tay kéo thanh kiếm, muốn xọc thủng Noirmoutier như một con lợn. Kẻ mà hắn gọi là d’Antin - «D’Antin, chớ có dính dáng vào đây nhé!» - dẫu vậy vẫn can thiệp vào trận ẩu đả đang có chiều hướng trở nên trầm trọng: «Ê, này, hãy cư xử cho đúng mực đi!» Tên xách đèn lồng nhẩy ngay theo ý anh ta: - Đúng thế, hãy cư xử cho đúng mực… khu rừng tối tăm nhất và ít người qua lại của Triều đình ở gần Paris là một nơi chắc chắn. La Frette nhổ thẳng đám bơ hơi quện trong những gốc răng sâu của mình vào mặt Chalais: - Đồ ruột rỗng, hẹn ngày mai trên bãi hoang tu viện nhé! D’Antin chết đứng người: - Bãi cỏ ư? Các người điên hết cả rồi! Các chỉ dụ đã… Nhưng tên La Frette cao lớn bị xúc phạm, đứng gần Saint Aignan, ra lệnh: - Arnelieu, Amolly, ta đi thôi. Bốn người đi về phía những ô cửa sổ sáng đèn của khu Tuilerie, bốn kẻ kia đi về hướng đối diện. Còn tên xách đèn lồng thì lỉnh mất, vừa ngúc ngoắc bước đi vừa đung đưa thân thể dọc theo phố Sain-Honoré. Ánh sáng trong cái bong bóng của hắn rọi lên một cái bóng gù và nhẩy nhót trên các bức tường trong khi hắn cố ghi nhớ: - La Frette, Saint-Aignan, Amilly, Arnelieu… và Chalais, Flamarens, d’Antin, Noirmou… ⁎⁎⁎ Vào lúc những tia sáng lờ mờ đầu tiên của buổi bình minh thầm lặng vừa tỏa lên trong lớp sương mù dầy đặc bao trùm hết cả bãi cỏ, và khi d’Antin nghe thấy tiếng giầy gắn khuyên bạc của hiệp sĩ Saint-Aignan bước lạo xạo trên những vũng nước đóng băng, thì anh ta quay sang bảo người đứng cạnh, là Noirmoutier, đưa cho mình lọ độc dược Schaffhouse, nó là chất tuyệt vời cho chứng bất tỉnh nhân sự. Paris yên ắng. Gà trống vẫn còn chưa cất tiếng gáy thì cánh xúc phạm Chalais, xếp thành hàng dài trước một dãy cây dẻ phủ đầy băng giá, phát hiện bóng dáng nhợt nhạt lờ mờ của bọn vô lại thuộc băng bị xúc phạm La Frette ló ra từ một cái kho chứa rơm khô mênh mông. Bọn chúng cũng vậy, gióng thẳng hàng tiến thẳng về phía kẻ thù của mình. Họ chẳng bao lâu nữa sẽ chạm mặt nhau, do cánh đồng cỏ rất nhỏ. Bên phải, những khu nhà sang trọng đang ngủ vùi. Bên trái, tu viện của dòng thánh Bru-nô với dãy hành lang và các am thầy tu mà có lẽ chẳng nên đánh động khi hét toáng những lời thóa mạ vô ích làm gì. Kiểu gì đi nữa thì cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Họ không còn ở đoạn đó nữa rồi. Chuyện giờ liên quan đến một trận đấu tay đôi cho đến khi có kẻ hồn lìa khỏi xác đầu tiên và D’Antin cảm thấy không được khỏe dưới mái tóc giả xoăn tít nặng trịch trên đầu. Áo khoác hồng điều buông trên vai và mũ đen đội hếch lên kiểu catalogne, dẫu vậy anh ta vẫn chọn đứng trong tư thế đỏm dáng, tiến một chân lên và đặt tay cạnh sườn. Nhưng những ngón tay anh ta run lẩy bẩy. Kể từ lúc tuyên bố trận đấu tay đôi ban nãy, thì cặp mí mắt anh ta đã sưng mọng lên, một màu đỏ tấy thành quầng đã mọc trên trán, tai anh ta toát mồ hôi, một mụn ghẻ xuất hiện sau đầu, những chốc vẩy đụn lên ở cằm và dưới nách trái, khiến anh ta ngứa ngáy. Sự ngẫu nhiên đã xếp đặt cho tuổi trẻ chuyên sống trong sơn son thiếp vàng. La Frette sẽ đối đầu Chalais. Amilly sẽ được dành cho Flamarens. Noirmoutier sẽ đấu với Arnelieu, còn D’Antin nhìn thấy hiệp sĩ Saint-Aignan tiến thẳng về phía mình. Tóc xoăn kiểu Hy lạp, con người hình chim này, với những chiếc lông vũ dài và cặp mắt chột do lây bệnh từ lũ điếm trong các nhà thổ, ngắm nhìn đối thủ của mình từ trên xuống dưới, trong lớp sương mù mà không hề giảm bước, với một khuôn mặt tự tin không biểu lộ chút sợ hãi. Anh ta có vẻ thoải mái với cây kiếm trong tay sẵn sàng rửa danh dự cho anh mình. Anh ta tiến nhanh và chưng ra ánh thép của lưỡi kiếm. D’Antin tự hỏi khi nào thì hắn ta sẽ dừng lại, tập trung chú ý, nhưng kẻ kia tiếp tục tiến như thể hắn sẽ băng qua cả hàng cây dẻ. Tóc! D’Antin cảm thấy xương trên trán mình nát vụn do lưỡi kiếm xuyên thấu toàn bộ đầu mình, kéo theo đằng sau hộp sọ mớ tóc giả mà anh cố tóm lại, ngố thật… thật ngu khi chết như thế trong một buổi sáng giá lạnh và rớt thẳng lưng xuống trong chiếc quần bó màu xám ngọc trai, và bên dưới bằng lụa đỏ đã được người ta gắn chặt bằng nịt, khi mà tất cả xung quanh bạn, đã chuyển thành một cuộc tàn sát. Bên phải, ba người cùng cạ của anh rên rỉ trên cỏ ướt. Đám đối thủ bỏ đi. Tên Chalais nhỏ bé gượng đứng lên và bị sai mắt cá chân do cặp đế giầy quá cao. Hắn áp một tay lên bụng, nơi máu đang đổ xối xả. Flamarens vừa lê sau mình một chân dính máu, vừa nhẩy loi choi về phía cái bóng nhợt nhạt của một cỗ xe. Noirmoutier, vai rách nát, chạy về phía một con tuấn mã ở hướng ngược lại. Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan của tác giả Jean Teulé.
Thánh Địa Tội Ác
Thánh địa tội ác (Sanctuary) là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Mỹ William Faulkner xuất bản lần đâu vào năm 1931, tác phẩm được coi là một trong những câu chuyện tâm lý bi kịch cổ điển của miền Nam nước Mỹ thời bấy giờ. William Faulkner đã miêu tả về tác phẩm này: “Đây là câu chuyện khủng khiếp nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra được và viết nó trong chừng 3 tuần lễ.” Thánh địa tội ác kể về việc một người trinh nữ bị một tên bệnh hoạn mắc chứng bệnh bất lực - Popeye – cưỡng bức bằng một bắp ngô. Popeye là tên tội phạm nguy hiểm, hắn là tay sai của gã Goodwin buôn rượu lậu và sào huyệt của bọn chúng nằm trong một khu vực tối tăm của đầm lầy được gọi với cái tên Old Frenchman. Trong khi thực hiện âm mưu cưỡng hiếp Temple, Popeye đã ra tay sát hại đồng bọn của gã là Tommy khi tên này muốn bảo vệ cô gái. Sau khi thực hiện hành vi bẩn thỉu của mình, Popeye bỏ trốn khỏi căn nhà của Goodwin. Sáng hôm sau, Goodwin phát hiện ra cái chết của Tommy nhưng ông ta lại vô cùng sợ hãi Popeye nên không dám khai báo với cảnh sát vụ việc. Sau khi biết được vụ án mạng, cảnh sát bắt giữ Goodwin. Câu chuyện tiếp tục với cuộc chiến dai dẳng giữa Horace Benbow, một vị luật sư chính trực tìm mọi cách lôi Popeye ra chịu tội trước vành móng ngựa cho tội ác của hắn và để trả lại tự do cho Goodwin. Cuối cùng, Poyeye phải trả giá bằng một bản án treo cổ cho tội ác hắn không bao giờ muốn thừa nhận. *** Là một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, ông được trao giải Nobel Văn học vào năm 1949. Sánh vai với Mark Twain, Robert Penn Warren, Flannery O’Connor, Truman Capote, Eudora Welty, Thomas Wolfe, Harper Lee và Tennessee Williams, ông trở thành một trong những nhà văn quan trọng nhất của nền văn văn học miền Nam nước Mỹ. William Faulkner, một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX, sinh ngày 25/09/1897 tại New Albany, Mississippi. Ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, The Marble Faun vào năm 1924, một tuyển tập những bài thơ nhưng lại giống như biên niên sử văn học về cuộc sống ở các tiểu bang của miền Nam nước Mỹ, đặc biệt về địa danh hư cấu Yoknapatawpha, khung cảnh cho một số tiểu thuyết sau này của ông. Chẳng hạn như cuốn Sanctuary (1931), The Hamlet (1940), The Town (1957) và The Mansion (1959), ông miêu tả tỉ mỉ đời sống nội chiến ở miền Nam, chú trọng vào cuộc đời các nhân vật (đặc biệt là những thành viên trong gia đình Snopes) và sự thay đổi đạo đức trong một xã hội đang ngày càng suy đồi. Những tiểu thuyết khác của ông bao gồm The Sound and the Fury (1929), As I Lay Dying (1930), Light in August (1932), Absalom! Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), Intruder in the Dust (1948), Requiem for a Nun (1951), A Fable (1954) và The Reivers (1962). Hai tác phẩm sau cùng đã đem lại cho ông giải thưởng Pulitzer cao quý. Đồng thời ông cũng là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, thơ và tiểu luận. Bằng việc kết hợp chủ nghĩa tượng trưng với tiểu thuyết dòng ý thức, ông đã sáng tạo nên một phương pháp viết tiểu thuyết mới. Vào năm 1949, ông đã vinh dự nhận giải Nobel Văn học. William Faulkner mất tại Byhalia, Mississippi, ngày 06/07/1962. Thánh địa tội ác là một cuốn tiểu thuyết đi sâu vào nghiên cứu bản chất của tội ác, chứa đựng nhiều yếu tố ly kỳ, bí ẩn, dựa trên những truyền thuyết dân gian của địa phương và vụ bắt cóc có thật xảy ra với Temple Drake, thiếu nữ mười bảy tuổi, vô cùng trong sáng ngây thơ nhưng đã bị dẫn dắt vào thế giới ngầm tại Memphis - nơi cô bị những tên xã hội đen giam giữ. Nhắc tới ông, không thể không kể đến tứ đại kỳ thư nổi tiếng: -    Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury -1924) -    Khi tôi nằm chết (As I lay Dying - 1930) -    Nắng tháng Tám (Light in August -1932) -    Absalom, Absalom! (1936) Một số tác phẩm khác đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Hoa Hồng Cho Emily Cọ Hoang Bọn Đạo Chích Thánh Địa Tội Ác ... *** "Tôi không thể in cuốn sách này. Hai chúng ta sẽ bị bỏ tù". Câu trả lời của Mr. Smith, biên tập viên của Faulkner tại NXB Noel Polk, người từng đỡ đầu trót lọt cuốn The sound and the fury (Âm thanh và cuồng nộ), khi nhận được bản thảo Sanctuary (*) lần đầu tiên vào tháng 1-1929, hàm ý mối e ngại trước sự khốc liệt đến mức động chạm tới ranh giới những điều cấm kỵ trong xã hội thời đó, của những hình ảnh văn chương và thông điệp nhân sinh mà W. Faulkner đưa ra trong cuốn sách. Câu chuyện vuột khỏi tầm người kể Qua hai lần trực tiếp sửa chữa, đánh máy lại trên bản thảo tác phẩm và ngay trên bộ vỗ sắp chữ của nhà in, Sanctuary được Faulkner công bố như hiện trạng, suốt từ năm 1931 cho tới nay. Cuốn sách với số phận kỳ lạ thêm một lần nữa chứng minh ý nghĩa không thể thay thế của thể loại văn chương lấy tiếng nói phản tỉnh xã hội và vượt thoát khỏi những "cấm kỵ" về đạo đức làm chủ đề trung tâm, đồng thời nó cũng tự tìm đến lối tổ chức nghệ thuật gây bất ngờ, độc đáo và sắc bén. Tương tự con đường đưa một số nhà văn sau này đến với giải thưởng Nobel văn chương: Günter Grass (1999), Elfriede Jelinek (2006)... Phần quan trọng trong "câu chuyện" của Faulkner không bao giờ được kể như những gì đang diễn ra, với sự chứng kiến tỉnh táo, đáng tin của bất kỳ ai. Tất cả những gì được tái hiện chỉ là cố gắng của nhiều nhân vật, lắng nghe, đeo bám, dò dẫm, phục hiện... nhưng rốt ráo chỉ là kẻ "tới trễ", lượm được mảnh rớt lại của những gì đã xảy ra, tựa như "thầy mù sờ voi". Luật sư Horace trên đường tới thị trấn, bị tên ma cô Popeye nghi ngờ và cưỡng chế về sào huyệt của chúng, nơi chuyên nấu whisky lậu, một ngôi nhà nát trong vùng rừng hoang sơ thuộc Mississippi. Anh được vợ chồng chủ lò rượu lậu, một cựu binh Thế chiến II tên Goodwin giúp đỡ. Sau này, Horace hết lòng bênh vực Goodwin, trong vụ án khủng khiếp giết người và cưỡng hiếp man rợ cô nữ sinh Temple Drake tại ngôi nhà nát khi Goodwin bị buộc tội, nhưng tất cả cố gắng của anh trở nên vô ích. Qua quan sát của Horace, Temple..., Goodwin là người duy nhất gắng sức để duy trì thứ trật tự sơ khai của tình thương và lòng tốt trong cộng đồng du thủ du thực, bao gồm cả những tay bệnh hoạn ma quỷ như Popeye. Câu chuyện về Goodwin, như một hình ảnh của lòng trắc ẩn và lương thiện lại được cố ý kể lại theo cách gián tiếp, rời rạc, thiếu chi tiết, chìm khuất dưới vô số biểu hiện của cái thực tại hỗn độn được mô tả qua sự mù mờ, ngây ngô, điếc lác, có khi vô trách nhiệm, thậm chí trong trạng thái hoảng loạn, hoặc bằng cái nhìn đầy thành kiến... của các nhân vật khác. Nghệ thuật của sự ngắt quãng và xa lạ Bằng diễn tiến melodrama quen thuộc, câu chuyện cho thấy từng bước cái thiện và ham muốn tốt lành của đời sống đã bị vùi dập, hủy hoại một cách tàn nhẫn và bất công ra sao, tương tự trường hợp To kill the mocking bird của Harper Lee. Nhưng nghệ thuật của riêng Faulkner lại là cách ông đã buộc chúng ta đối mặt với những điều kỳ lạ, u ám và man rợ trong chính mỗi người bình thường. Bạn đọc sẽ không thể quên phiên tòa mà từ nghi can cho tới nạn nhân, nhân chứng đều trở thành kẻ đồng lõa khi giấu giếm sự thật về kẻ thủ ác... Sự vận dụng quyết liệt và cạn kiệt thủ pháp "ngắt quãng" phá bỏ logic của sự kiện và tính cao trào thông thường, câu chuyện được dựng lại hết sức hình thức và máy móc, theo lối hình dung võ đoán, có khi thuần túy thị giác. Các nhân vật trở nên xa lạ, không thể đoán định so với con người khởi đầu của nó... Trong một thế giới bị "tung hỏa mù", không còn cột mốc thông thường để đánh dấu thiện - ác, chúng ta "bị ép" tẩy rửa định kiến, ghi lại những dấu mốc mới tinh trong việc xác định một thái độ đạo đức và sinh tồn. Faulkner đã "dành thời giờ suy nghĩ những gì mà một con người ở Mississippi tin tưởng là khuynh hướng (đời sống) căn bản hiện nay, cố gắng tìm ra câu trả lời xác đáng nhất, và hư cấu những câu chuyện khủng khiếp nhất mà bản thân tôi có thể tưởng tượng", tạo ra thứ động lực tinh thần mới trong một đời sống bị đe dọa hủy hoại tới tận cùng mọi biểu hiện. Cũng chính ông là người đưa ra thông điệp: không phải bản thân cái ác, mà nỗi khiếp nhược trước tội ác sẽ làm sụp đổ toàn bộ giá trị mà con người phải trả giá bằng hàng ngàn năm gây dựng, như luật pháp, công lý, nền văn minh. KHÁNH PHƯƠNG Review ___________ (*): Thánh địa tội ác(nguyên tác: The sanctuary), tác giả: William Faulkner, người dịch: Trần Nghi Hoàng, NXB Văn Học, tháng 7-2012. Mời các bạn đón đọc Thánh Địa Tội Ác của tác giả William Faulkner.
Tuần Làm Việc 4 Giờ
Nếu bạn biết cách quản lí thời gian, các mục tiêu cũng như thứ tự ưu tiên các công việc một cách hợp lí thì bạn hoàn toàn có khả năng tạo ra nguồn thu nhập đầy đủ dù chỉ làm việc 4 giờ mỗi tuần. Và thế là, tạm biệt nhé - những ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ nặng nhọc! Cuốn sách THE 4-HOUR WORK WEEK đã làm dấy lên một làn sóng tư tưởng mới mẻ tại thung lũng Silicon. Marc Andreesen - chuyên gia về tối ưu hoá năng suất làm việc cá nhân đồng thời là một trong những doanh nhân nổi tiếng nhất ở trung tâm công nghệ cao của thế giới trong một bài phỏng vấn cho biết: "Về cơ bản, việc Tim đã làm là tập hợp và chắt lọc những học thuyết về quản lý thời gian cùng năng suất lao động trong vòng 2, 3 thập kỷ vừa qua, sau đó tối ưu hoá nó và đưa ra những khái niệm mới, rất hữu dụng". Bí quyết mà tác giả phát hiện ra được gói gọn trong chữ DEAL tương ứng với bốn bước: D: Definition (Xác định) Trong bước này Tim Ferriss giúp bạn thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ sai lầm và đưa ra những qui tắc và mục đích của một phương pháp mới. Bạn sẽ có câu trả lời cho câu hỏi những nhà giàu mới (new rich) là ai và họ hành động như thế nào. E: Elimination (Loại bỏ) Giết chết những quan điểm lỗi thời về cách quản lí thời gian. Bằng cách sử dụng những kĩ thuật khác thường của những nhà giàu mới: áp dụng “sự thờ ơ có chọn lựa” – loại bỏ những thứ rườm rà không cần thiết, chỉ chuyên tâm vào những việc thực sự quan trọng, bạn có thể tăng năng suất lao động lên ít nhất mười lần. Phần này cũng giải thích nhân tố đầu tiên tạo nên một phong cách sống sung túc, đó là thời gian. A: Automation (Tự động hóa) Có những phương pháp nào khiến tiền của cứ thế tự động chảy vào túi bạn? Trong bước này bạn sẽ tiếp tục tìm hiểu về thu nhập (income): nhân tố thứ hai tạo nên một phong cách sống sung túc, thoải mái và đâu là điểm khác nhau chính giữa thu nhập tương đối và thu nhập tuyệt đối? L: Liberation (Tự do) đây là bản tuyên ngôn về tính lưu động. Bạn sẽ học được cách điều khiển công việc từ xa trong khi đang ở trong kì nghỉ. “Tự do” ở đây không có nghĩa là các kì nghỉ rẻ tiền, nó ám chỉ cách bạn thoát khỏi các mối quan hệ ràng buộc bạn với một địa điểm cố định. Phần này cũng đề cập đến nhân tố cuối cùng tạo nên một cuộc sống thoải mái: tính lưu động (mobility). Ngoài rất nhiều ý kiến khen ngợi, đồng tình với những bí quyết này, cũng có một số ý kiến phản đối khá gay gắt. Có người cho rằng cuốn sách đang cố rao giảng một thứ phương châm sống không còn mới mẻ: “Tận hưởng cuộc sống ngay khi bạn còn có thể.” (Đã được Thoreau đưa ra cách đấy 2 thế kỷ!) Và đưa ra giải pháp để có thể thực hiện lối sống “nhàn hạ” đó là bằng cách thuê làm bên ngoài (outsource) tất cả những công việc có thể, do vậy bạn giảm thiểu những việc bạn phải làm và nhờ đó có thời gian để hưởng thụ cuộc sống. Những độc giả này lập luận rằng: như vậy, thực ra chẳng có công việc nào mất đi cả, nó chỉ được thực hiện bởi những người khác mà thôi. Và nếu ai cũng làm theo lời khuyên của Tim Ferriss thì cuối cùng ai sẽ là người làm những việc đó? Thêm nữa, bí quyết làm giàu mà Tim Ferriss cung cấp trong quyển sách này tập trung vào việc thành lập một doanh nghiệp điện tử, làm giàu nhờ kinh doanh qua mạng (công thức phổ biến giúp làm nên các nhà giàu mới). Công thức này khó có thể áp dụng cho mọi người, vì không phải ai cũng được thông minh và có điều kiện tốt như Ferriss. Những luồng dư luận có vẻ “đối nhau chan chát” với cuốn sách cũng là điều dễ hiểu, bởi không có gì là hoàn toàn tuyệt đối, cũng như Tim Ferriss không tham vọng khiến cả thế giới được “xả hơi thoải mái” chỉ nhờ cuốn sách của anh. Điều đáng ghi nhận nhất ở đây có lẽ là đa số các độc giả đều đánh giá cao cuốn sách của Tim Ferriss với nhận xét: cuốn sách có lối viết kiểu tự sự dễ đọc, bố cục mạch lạc dễ hiểu và đã cung cấp rất nhiều thủ thuật hay giúp những người làm công việc công sở tiết kiệm thời gian và giảm stress (ví dụ thủ thuật kiểm tra và trả lời email 2 lần một ngày vào những giờ xác định). Họ cũng cho rằng cuốn sách giúp họ thiết lập một cuộc sống “ngăn nắp hơn” và vui vẻ hơn nhiều. Và điều đó thêm một lần nữa khẳng định thêm: mọi bí quyết chỉ là bí quyết, còn áp dụng như thế nào, tùy thuộc hoàn toàn vào bạn, mà khởi đầu cho tất cả, bạn cứ tự nhủ với mình rằng: có thể làm nó tốt đẹp và ổn thỏa hơn hiện tại rất nhiều lần! *** Bạn đang cầm trên tay cuốn sách Tuần làm việc 4 giờ, chắc chắn bạn không khỏi ngạc nhiên về tựa đề của cuốn sách, khái niệm về New Rich1  (NR) cũng như tài năng siêu việt của tác giả trẻ tuổi viết nên cuốn sách này. Cảm giác đó của bạn cũng giống như cảm giác của chúng tôi khi lần đầu tiên biết về cuốn sách, lạ lẫm bởi những nguyên tắc, những khái niệm và một lối sống hoàn toàn khác biệt với lối mòn suy nghĩ từ hàng nghìn năm về trước. Sau một năm phát hành, cuốn sách đã được xuất bản ở 30 quốc gia trên thế giới, ngoài ra cuốn sách luôn nằm trong danh sách bestseller của các tạp chí nổi tiếng như New York Times, Wall Street Journal và Business Week. Tác giả Timothy Ferriss đã mô tả vô cùng chi tiết về cách bạn có thể thiết kế lối sống cho riêng mình và gia nhập nhóm NR. Bạn đã từng có rất nhiều giấc mơ phải không, cuốn sách này sẽ giúp bạn lập kế hoạch và không để những giấc mơ đó bị lãng quên một cách vô nghĩa. Bạn có thể làm việc cả tuần ở nhà mà vẫn hiệu quả hay vừa leo lên núi Rainier hoặc thăm vịnh Panama mà vẫn xử lý tốt công việc ở công ty của mình. Bạn đã bao giờ từng thuê một người trợ lý cách xa nửa vòng trái đất làm việc cho bạn chưa, cô ta có thể viết một lá thư ngọt ngào để xoa dịu người vợ đang giận dỗi của bạn, sắp xếp lịch trình làm việc cũng như chuẩn bị cho bạn báo cáo bán hàng sáng hôm sau. Bạn cũng có thể học thành thạo một ngôn ngữ trong vòng sáu tháng và sống cuộc sống của một triệu phú. Thời gian làm việc của bạn có thể giảm đi 20 lần nhưng thu nhập lại tăng lên gấp hơn 10 lần... Nếu bạn là người không xác định được mình thực sự cần gì, thì đây là cuốn sách dành cho bạn. Nếu bạn là một ông chủ hay một nhân viên đang chìm ngập trong đống công việc, cuốn sách này cũng dành cho bạn. Cuốn sách này không chỉ giúp bạn làm việc thông minh hơn, kiếm được nhiều tiền hơn mà còn giúp bạn thực hiện được những giấc mơ đã bị lãng quên của mình. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở chỗ đưa ra những quan niệm, những câu châm ngôn hay ví dụ của tác giả để khơi dậy trong bạn mong muốn thay đổi cuộc sống hiện tại mà cuốn sách còn mô tả rất chi tiết cách bạn cần hành động, những thông tin hay trang web mà bạn cần sử dụng trong quá trình thay đổi cuộc sống của mình. Tuần làm việc 4 giờ là món quà tuyệt vời đối với chúng tôi, những người đầu tiên tiếp cận với cuốn sách và chúng tôi mong muốn chia sẻ món quà này cùng bạn. CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH THÁI HÀ  Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 1 Những nhà triệu phú sống và làm việc tự do, không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian... Họ có thể tự Thiết kế Lối sống - Lifestyle Design (LD) cho riêng mình. Mời các bạn đón đọc Tuần Làm Việc 4 Giờ của tác giả Timothy Ferriss.