Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cậu Tú - Jules Vallès

Tập II Cậu Tú chủ yếu kể lại cuộc kiếm sống chật vật của Jăc Vanhtrax ở Pari, do đó một mặt Juyn Valex vẽ lên một bức tranh khá sinh động về xã hội Pari, mặt khác ông vạch ra bước đầu đi vào hoạt động chính trị của Jăc Vanhtrax mà cũng là của bản thân ông. Chắc chẳn là khi viết về cuộc sống chật vật của Jăc Vanhtrax ở Pari, Juyn Valex đã liên hệ với cuộc sống ở Pari của những Raxtinhăc, Ruybemprê trong Tấn trò đời mà Jăc Vanhtrax gọi là những người “anh em về tham vọng và lo âu của mình”. Nhưng cái xã hội Pari của Juyn Valex có khác cái xã hội Pari của Banzăc, là vì tham vọng của Ruybeniprô, một kẻ muốn vươn tới danh vọng và giàu sang, có khác tham vọng của Jăc Vanhtrax, một kẻ bất bình muốn chống lại bất công xã hội. Ở đây hầu như vắng bóng những quý tộc hay tư sản hãnh tiến, cùng với những cảnh ăn chơi đàng điếm, xa hoa, mà phần nhiều là nhân dân lao động, là sinh viên, và nhất là những người làm chính trị, trong đó nổi bật lên nhân vật Matutxanh, một điển hình chính khách tài tử. Không khí chính trị ở đây đậm nét hơn, căng hơn trong Vỡ mộng chẳng hạn, vì là không khí sau những ngày tháng Sáu 1848, sau cuộc đảo chính 1852 của tên độc tài Napôlêông III. Cái xã hội đó, cái không khí đó đã chuyển Jăc Vanhtrax từ cái chí hướng muốn làm thợ đến chỗ dứt khoát trở thành “người chỉ huy những kẻ mặc áo rơđanhgốt (trí thức) xếp thành hàng ngũ chiến đấu bên cạnh những kẻ mặc áo bludơ (công nhân)”, đúng như lời khuyên của người công nhân già Pari mà Jăc Vanhtrax đã gặp buổi đầu khi mới bước chân tới Pari. *** Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Cậu Tú của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Aura
“HÃY ĐỌC THÔNG BÁO ẤY: một loại mời chào mà không phải ngày nào cũng đăng đâu. Hãy đọc đi đọc lại thông báo đó. Nó dường như nhằm vào bạn, chứ không phải bất kỳ ai khác,” cho đến khi bạn, hay chính là nhà sử học trẻ tuổi đang hồi thất nghiệp Felipe Montero, trả lời thông báo và bước chân vào ngôi nhà tăm tối, ẩm ướt và lạnh lẽo đến kỳ bí, nơi góa phụ 105 tuổi Consuelo Llorente sống cùng cô cháu gái mắt xanh Aura. Theo đề nghị của Consuelo, Felipe sẽ ở lại ngôi nhà để viết một cuốn hồi ký về người chồng quá cố nguyên là một tướng quân của bà, đổi lại là một khoản thù lao hậu hĩnh. Chàng trai trẻ bắt tay ngay vào công việc. Nhưng rồi, chàng rơi vào mối tình với Aura xinh đẹp, để rồi từ đó chàng dần dần chứng kiến những sự thật kinh hoàng về thân phận thật chính mình và hai người phụ nữ trong căn nhà ma quái… “Ông là một nhà văn đại tài, và (ngạc nhiên hơn) có phong cách viết rất đặc biệt ở thể loại truyện kinh dị.” – Pseudointellectualreviews *** Đàn ông đi săn và chiến đấu. Đàn bà mưu mô và mơ ước; là mẹ của trí tưởng tượng, của các vị thần. Đàn bà có được tầm nhìn thứ hai, những đôi cánh cho phép bay tới cõi hư vô của ham muốn và trí tưởng tượng… Các vị thần cũng giống như những người đàn ông, được sinh ra và chết đi trên ngực của một người đàn bà… Jules Michelet *** Review sách “Nàng Aura” – Carlos Fuentes Do năm nào cũng thấy Nàng Aura vào trong danh sách đại giảm giá của đợt Xả kho, nên mình muốn viết 1 bài giành lại justice cho tác phẩm này, rằng nó rất hay và độc đáo. Hy vọng trong những đợt dọn kho kế kiếp các bạn sẽ không “dòng người vội vàng lướt qua” em nó… NÀNG AURA VÀ OLALLA – MỐI TƯƠNG QUAN KÌ LẠ Năm 1885, khi đang rà soát lại bản thảo của cuốn sách rồi đây sẽ trở thành kinh điển – Chuyện về bác sỹ Jekyll và ông Hyde – Robert Louis Stevenson đã mơ một giấc mộng, để rồi sau này trở thành hiện thân cho tiểu thuyết ngắn Olalla. 77 năm sau, Carlos Fuentes viết ra một kiệt tác khác – Nàng Aura vào năm 1962 mà không dư hay thiếu chữ nào, để rồi sau đó sẽ bị cấm vì các dụng ý “gợi dục”. Cách nhau gần 80 năm, thế nhưng có thể nói ý tưởng về hai kiệt tác như cuộc “đồng mộng dị sàng” thú vị của hai nhà văn thuộc hai thời đoạn, hai nền văn hóa và hai phong cách hoàn toàn riêng biệt. * Có thể thấy rằng, Mỹ Latin dường như là cái nôi mắn đẻ cho những bối cảnh cần đến phép màu. Nơi đây không cần những người con sinh ra từ đất, mà ngay cả những bên tham chiến trong cuộc chiến tranh Bán đảo giữa khối Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha với Liên hiệp Anh cũng có thể mang trong mình một tàn lửa nhất định, và rất có thể Stevenson là một trong số đó. Không cần Freud giải mã giấc mơ, dường như chính miền đất huyền diệu ấy đã phôi thai và ám hương lên hình dung của Stevenson; để những câu chuyện kì dị, gothic, liêu trai thành hình, dù cho khái niệm gothic không đến từ vùng đất này. Riêng với Carlos Fuentes – gã khổng lồ của văn chương Mexico nói riêng và châu Mỹ Latin nói chung; vùng đất của ông vừa hoang dại nhưng cũng đậm dấu ấn một cách không ngờ. Trong văn chương của Juan Rulfo, người ta nhận ra cái nóng hầm hập ngày càng đi xuống như của một cổ quan tài, nơi không có gió và chỉ có riêng tiếng sỏi lạo xạo. Triển khai từ chính cái lặng im đấy, Fuentes mang gothic vào đô thị, nhưng giờ đây cũng triệt tiêu hoàn toàn dải âm nghe thấy, để đọng lại những tạp âm trắng duy nhất về sự xôn xao của một cõi lòng xáo động. BỐI CẢNH SONG SONG Câu chuyện của Fuentes và Stevenson nhìn chung là có sự tương đồng khá thú vị. Hai nhân vật chính đều là nam giới, và định mệnh run rủi cho họ vào một tình cảnh không thể đoan trước. Trong Nàng Aura, đó là nhà sử học Montero làm việc viết sử cho một góa phụ có chồng đã chết; trong khi Olalla là một chàng lính Anh nghỉ dưỡng sau khi bị quân đội bỏ lại. Cả hai đã hơn một lần khước từ ngẫu nhiên, để nằm sau các cách cấu thành cốt chuyện, đó là trò chơi định mệnh, khi Montero không chỉ thấy một lần mẫu tin rao vặt cần một sử gia thạo tiếng Pháp, còn chàng lính Anh cũng không nguôi được nghỉ dưỡng ở gia tộc nay suy tàn dẫu cho đã được cảnh báo. Bối cảnh cách nhau một thời gian dài, nhưng nhìn chung cả hai nhà văn đều mang được sắc màu của thời đại vào tác phẩm mình. Nếu Stevenson viết trong thời đoạn Chiến tranh Bán đảo, nơi dinh thự có các cầu thang đá lớn, cửa kiểu Moor; thì Fuentes hiện đại hơn, với tòa nhà phong cách Baroque Mexico cùng các tượng thánh, giàn nho phất phơ cũng như mùi rêu ẩm mốc cùng phong cách thuộc địa cũ. Gothic trong phong cách kiến trúc được hai nhà văn khắc họa một cách rõ ràng, dẫu ở đâu thì vùng đất ấy đã mang sẵn trong mình một sự huyền ảo. “Nhân sư” dẫn dắt nhân vật chính đi vào đóng hỗ lốn của mình cũng đặc biệt giống nhau. Nếu chàng Montero luôn được một thiếu phụ áo xanh, thân thể trắng muốt, dong dỏng cao dẫn dắt trong những mê lộ hành lang của căn nhà thiếu ánh sáng vì đô thị xung quanh xây chen; thì trong Olalla, người đảm nhận vai trò này, mà khốn thay, cũng trùng cái tên Filipe như chàng Montero – em trai của Olalla. Filipe được mô tả lúc thì ngây ngô hát những bài đồng dao, nhưng cũng có khi tàn ác như khi vặn cổ chú sóc. Hai dáng hình ấy đưa nhân vật vào một không gian chung của câu chuyện có phần tương đồng, nhưng chính ở đây mọi thứ rẽ khác. HIỆN THỰC – KÌ ẢO Nếu Stevenson mang được chất huyền ảo của Latin vào trong bối cảnh nhưng hầu như câu chuyện là thực; thì Fuentes tiếp nhận và nâng cao chất kì ảo đặc trưng của dải đất quê hương, nơi ông xây dựng Nàng Aura như một hỗn hợp vừa thực mà cũng không thực- vẩn vơ, bảng lảng và mù sương khói. Stevenson vẫn dùng văn chương thuần tuyến tính của phương Tây vào thời điểm đó, ông không cách tân lối viết, tuy có dùng những yếu tố như khởi nguồn đặc trưng sau này của châu Mỹ Latin, như hình tượng cơn gió độc, bà mẹ ủ ê, thú tính vật vờ trong ánh sáng ban ngày. Hoàn toàn ngược lại, Fuentes đóng kín nhân vật của mình trong ngôi nhà số 815 phố Donules, để người đọc thấy được vòng tròn quẩn quanh mà ông tạo ra, như một kiểu mê cung của Borges. Chàng sử gia Montero hết đi đến phòng trên cao rồi lại đến chỗ bàn ăn, từ bàn ăn đi vào phòng ngủ nơi chứa những tập bản thảo cũ mốc… Câu chuyện được tiếp diễn qua vài ba vòng lặp như thế, để cứ mỗi một lần như lát cắt phạm, Fuentes tung ra sự thật từng chút một; từ cô gái trẻ xanh xao không bao giờ dùng bữa, cho đến sự xuất hiện hầu như bất động khi có mặt đồng thời bà góa và cô nàng thanh xuân, cho đến con thỏ và cuối cùng là ba đêm tội lỗi. Tuy Stevenson rất có thể nói là người đặt nền móng cho yếu tố kỳ ảo đậm chất Latin trong tác phẩm của mình; thế nhưng Fuentes mới là người nhân nó lên và biến nó trở thành đặc biệt. Olalla của Stevenson đến sau cùng vẫn tồn tại và có thật, cô không giống Aura của Fuenets, mang nhiều dáng hình cũng như cảm xúc. Fuentes với cách viết nhiều vòng tròn đồng tâm lan ra từ từ, kết hợp với yếu tố gothic – kinh dị, khóa chặt người đọc vào văn bản của mình. Ông là nhà văn thiên về tâm lý, trong khi Stevenson chỉ đơn giản thuật lại, tuy là mới mẻ nhưng không đào bới tận cùng. Với hai cách diễn đạt khác nhau, nhưng bất ngờ thay, sau cuối cả hai đều là những câu chuyện tình đau thương. GIỌT MÁU CHUNG TÌNH Tuy tiếp cận câu chuyện từ hai hướng và hai phong cách viết, thế nhưng ẩn sau tầng tầng lớp lớp yếu tố kì dị, thì tình yêu ngăn cấm là thứ mà hai nhà văn hướng đến. Stevenson không những dùng sớm yếu tố kì ảo, mà còn cho thấy vấn đề muôn thủa của lục địa này, để rồi sau đó chính Marquez sẽ nhân nó lên làm thành tác phẩm huy hoàng nhất của mình – hôn phối cận huyết. Chính yếu tố sáng rõ này là thứ phân đôi tình yêu của Olalla và chàng lính trận, để kết thúc dòng máu suy vong, để ấn định cái kết của một gia tộc. Có lẽ nào chính ngọn gió độc, tiếng thét điên cuồng của bà mẹ điên trong đêm đen thẫm hay cơn khát máu bập vào thịt sống; là những dấu chỉ rõ nhất cho thứ bệnh điên cần được loại bỏ? Hơn một lần Olalla cầu xin chàng ta rời khỏi nơi đó, để cuối cùng trên ngọn đồi cắm phập thánh giá, một lần nữa họ gặp lại nhau để Stevenson “thánh hóa” sự hy sinh của tình yêu không được đền đáp. Lần gặp thứ hai như xác tín cho đức tin, sự minh triết cũng như những gì họ đã bỏ qua. Cũng thư thế, Fuentes mất đến ba đêm để chắc chắn thứ trước mắt chàng Montero không là ảo ảnh. Từ hành động lột da dê song song ở hai người đàn bà, một ở bếp và một ở phòng ngủ, Montero bắt đầu có những nghi ngại đầu tiên. Thế nhưng bởi dục vọng chìm đắm trong sắc đẹp của Aura, chàng đã ở lại với đôi mắt thỏ và những linh hồn lẩn khuất trong đêm. Đêm đầu tiên, chàng cảm thấy da thịt của một cô gái trẻ, đúng là Aura với chiếc váy xanh mà chàng thèm muốn. Thế nhưng đến đêm thứ hai, đó đã là da thịt trưởng thành, cứng lại, rắn đanh, mang dấu ấn thời gian của người đàn bà trung niên với tình yêu dường như đã đi qua một nữa đời mình. Đêm thứ ba, đêm cuối cùng; da thịt mơn man đã về lại với nhăn nheo ở quãng đời cuối, của sự co lại, gập gềnh núi đá lởm chởm, đó cũng là khi Montero biết mình dấn thân vào câu chuyện gì. Cả Fuentes và Stevenson không kết thúc một cách rõ ràng câu chuyện của mình. Montero bừng tỉnh trong đêm thứ ba và câu thoại (hay là tuân mệnh?) đi tìm Aura thanh xuân; trong khi anh lính trẻ không ngừng quay lại để thấy Olalla đứng mãi bên cây Thánh giá. Nàng đã hóa thánh, được gột rửa sạch và nhận hết mọi tội lỗi của dòng tộc suy vong; trong khi giờ đây Montero như bị thôi miên trong những vòng màu đan cài, giữa thời khắc của cổng thời gian kéo dài ba ngày, có thể mãi mãi hay không bao giờ đóng, liệu còn gắn bó hay sẽ chia phôi với Nàng Aura, ai biết. Nhưng dẫu sao đó là chuyện tình đau thương và đầy muộn phiền của sự đứt gánh. * Là mối tương giao kì lạ của hai nhà văn ở hai thời kì, Nàng Aura và Olalla mang trong mình sự tương đồng ở nhiều yếu tố trong cốt truyện, thế nhưng bằng phong cách viết cũng như triển khai cốt truyện khác nhau, phản ảnh 1:1 giữa hai tác phẩm cho ta góc nhìn thú vị về câu chuyện tình yêu vừa đẹp đẽ nhưng cũng đau đớn. Stevenson dưới cách thể hiện khác lạ nhiều yếu tố Latin mang đến Olalla lạ lẫm và đầy say mê; trong khi Fuenetes quán triệt đặc trưng của lãnh địa mình, hình thành một vòng thời gian khác lạ và đầy thôi miên. Một sự tương đồng độc đáo. Review của độc giả Ngô Minh – Nhã Nam reading club *** “NÀNG AURA” (Carlos Fuentes) – Nhân duyên tiền định hay dục vọng vô biên? Ra mắt năm 1962,*** Nàng Aura*** ***(Aura) ***là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của tác giả Carlos Fuentes, cũng là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của nền văn học Mỹ Latin đương đại. Vinh dự được trao giải thưởng cao quý Miguel de Cervantes Saavedra, tác phẩm đã đưa Fuentes trở thành một trong những tượng đài lớn của văn học Mỹ Latin bên cạnh Gabriel Garcia Marquez, Mario Vargas Llosa, … Câu chuyện của Nàng Aura bắt đầu từ đoạn tình cảm lỡ dở, gập ghềnh và trắc trở kéo dài 27 năm đằng đẵng giữa Giorente và Consuelo. Khi còn trẻ, họ đã đến với nhau bởi tiếng sét ái tình và trở thành đôi vợ chồng đầu ấp tay gối đến tận lúc đầu bạc răng long. Tưởng rằng cái c.h.ế.t sẽ là dấu chấm hết cho mối tình đẹp đẽ, nhưng Consuelo lại không nghĩ như vậy. Consuelo sở hữu một pháp lực trời ban, cùng niềm khao khát thanh xuân vĩnh cửu, bà đã nhập thân vào hình hài cô gái đôi mươi Aura để sống một cuộc đời trẻ mãi không già. Nhưng cũng bởi vậy, bà cũng phải chứng kiến sự già đi rồi chết dần của Giorente, người mình yêu thương nhất. Cứ vậy, suốt 27 năm về sau, Consuelo, trong thân phận “nàng Aura”, vẫn sống một kiếp đời bất tử trong nỗi nhớ nhung da diết giày vò từng ngày từng đêm. Để rồi khi một chàng trai trẻ tên Felipe xuất hiện, ngọn lửa tình yêu cuồng nhiệt lại nhen nhóm trong Consuelo một lần nữa. Bởi Consuelo biết, anh chính là chuyển thế của Giorente, được định mệnh sắp đặt để tái ngộ với bà. Cách Felipe đến với “nàng Aura” hệt như Giorente thuở nào, từ ánh mắt si tình chỉ trong lần đầu gặp gỡ “nàng Aura”, đến cái cách anh nâng niu từng trang sách lịch sử, những trang hồi ký của người chồng quá cố. Tiếc rằng, chỉ có khuôn mặt kia, đã không còn là Giorente bà từng biết nữa. Nhưng với ma pháp cao cường của Consuelo, bà rắp tâm biến mọi thứ không thể phải thành CÓ THỂ. Một âm mưu kinh hoàng dần được bày ra, với hàng loạt những ám thị nối đuôi nhau. Những bí mật khuất lấp dần được hé lộ, về người đàn bà Consuelo, và về ngôi nhà cổ quái của bà ta. Một bí mật về tuổi xuân vĩnh cửu, về dục vọng ẩn sâu. Và đó cũng là câu chuyện tình vượt thời gian, vượt qua cả cái c.h.ế.t, bất chấp mọi giới hạn mà con người có thể tưởng tượng ra. Bằng một câu chuyện giản đơn chỉ vỏn vẹn chưa đầy trăm trang giấy, Carlos Fuentes đã dẫn độc giả bước vào không gian Mỹ Latin cổ xưa đậm chất Gothic ma mị nhưng không kém phần quyến rũ. Lồng ghép trong một câu chuyện tình vượt thời gian, cốt truyện cũng sử dụng những nút thắt mở tài tình, khiến cho độc giả phải xoay mòng mòng trong những giác cảm mơ hồ giữa thực và mơ, giữa quá khứ và hiện tại. **Nàng Aura **bắt đầu bằng một không gian Mỹ Latin đầy hoài niệm: đó là khung cảnh những dinh thự cổ có kiến trúc kiểu Baroque Mexico từ thời thuộc địa, với những bức tượng thánh cổ quái cùng những hành lang tróc sơn cũ kĩ. Ở nơi đó cũng thấp thoáng những dấu hiệu chuyển giao thời đại, với những khu dân cư hỗn tạp đủ mọi mọi ngành nghề dần chiếm chỗ khu dinh thự, với nhịp sống hối hả và bộn bề tấp nập đang từng bước thay thế đời sống cũ. Những đoạn văn gợi tả đó, dù chỉ ngắn gọn trong vài trang đầu, nhưng đủ để làm nền cho cảnh trơ trọi lẻ loi của ngôi nhà cổ quái của Consuelo giữa trung tâm khu phố xưa, làm bật lên vẻ ma mị đáng sợ cổ quái với những ai ghé thăm nơi đây lần đầu tiên. Motif kinh dị lãng mạn của** Nàng Aura** có thể nói là không quá mới mẻ, nhưng chất liệu Mỹ Latin lại là nhân tố đáng chú ý khiến mình phải lưu tâm tới. Không gian trong Nàng Aura được bao trùm bởi màu sắc hiện thực huyền ảo hiển hiện trong nhiều chi tiết, từ sự già đi bất thường của “nàng Aura” đến màn hóa thân gây choáng váng của nàng. Nó còn ẩn hiện trong những hành tung kì quái và sự xuất hiện đồng thời của cả hai người phụ nữ là Consuelo và “nàng Aura”, đến những ảo giác ma quỷ thoắt ẩn thoắt hiện trong tiềm thức Felipe mỗi đêm. Không chỉ vậy, Carlos Fuentes cũng thể hiện xuất sắc trong việc khắc họa bầu không khí Gothic vừa quỷ dị vừa huyền ảo trong căn nhà của Consuelo. Ngôi nhà bị bao trùm bởi bóng tối dày đặc, chìm nghỉm lúc nhúc giữa các tòa nhà hiện đại đan xen nhau, tựa như hình ảnh người chủ nhân phải chịu cảnh cô đơn hiu quạnh suốt năm tháng. Trong cái không gian chật hẹp đó, những tiếng mèo kêu nhức óc, lũ chuột và con thỏ mắt đỏ được thêm thắt vào như là những yếu tố gợi mở đầy ẩn ý. Trong căn phòng được bày ngổn ngang các dụng cụ thờ cúng, nhưng thực ra lại để dành cho một nghi thức tà đạo ma quái. Chỉ có ánh nến lờ mờ dường như là nguồn sáng duy nhất hiện diện giữa bóng tối u minh. Nhưng đâu ai biết, những lúc chập chờn, lúc chạng vạng có hay mới là lúc ma quỷ hiện diện rõ ràng nhất. Sự khắc họa những góc tối sâu thẳm trong nhân tâm của truyện cũng khiến mình băn khoăn rất nhiều, trước khi nút thắt cuối cùng được bật mở. Đó là một Consuelo bị ám ảnh bởi cái c.h.ế.t và tuổi xuân vĩnh hằng. Đó là Giorente – kẻ mà dù ở kiếp nào, dù mang hình hài Llorente hay Fellipe, đều tỏ rõ là hạng người dễ bị cám dỗ bởi dục vọng và dường như không có khả năng kháng cự lại nó. Nực cười là, Giorente đã từng chê trách rằng Consuelo “đã từ thiên thần hóa quỷ dữ”, rằng bà đã quá tham lam khi cố níu kéo thanh xuân, nhưng chẳng phải chính bản thân ông ta, ở cả hai kiếp sống, cũng không thể cưỡng lại sự ham muốn với vẻ đẹp của “ác quỷ” đó sao? Chẳng phải chính ông cũng giấu trong lòng cơn thèm khát không thể tả bằng lời với nét thanh xuân rạng rỡ của “nàng Aura” sao? Tuy vậy, khi gấp lại cuốn sách, mình hoàn toàn không cảm thấy đáng sợ hay căm ghét họ, bởi xét cho cùng, dục vọng của họ chỉ là đại diện cho ước mơ muôn thuở của con người. Khi còn trẻ, chúng ta giống Felipe, khao khát yêu đương, khao khát sống hết mình vì tuổi trẻ. Còn khi về già, chúng ta trở thành Giorente và Consuelo, lại hoài niệm về thanh xuân, hoài niệm đến ăn mày dĩ vãng, dẫu cho đó là điều bất khả không bao giờ trở thành hiện thực được, chỉ trừ trong** Nàng Aura.** Review của độc giả Kiên Trần – Nhã Nam reading club Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Aura của tác giả Carlos Fuentes & Phạm Triệu Lập (dịch).
Mạch Buồn
Đây là những câu chuyện thuyết phục nhất về con người và chiến tranh. Là tâm trạng của những người lính đã chiến đấu và bỏ mạng tại Anzio. Nhiệm vụ của họ là chiếm đồi Alban để tiến đến Rome cách đó bốn mươi dặm. Suốt hơn bốn tháng trời, họ chống chọi với bom đạn, bùn lầy và mùa đông giá rét để giữ mạng sống. Họ đã để lại một vết máu dài cùng nỗi thống khổ khôn tả trên bình nguyên Latium. Không có anh hùng, không có chiến thắng chỉ có bộ mặt chiến tranh khổng lồ, điên rồ và tàn khốc. Đây không chỉ là Abzio mà là bất cứ chiến trường nào nơi con người phải đối mặt với cái chết... *** MỘT SỐ LỜI BÌNH CHO MẠCH BUỒN “Một cuốn sách đáng chú ý, cho chúng ta thấy rõ hơn bộ mặt khổng lồ và điên rồ của chiến tranh.” J.B. Priesley “Một trong những cuốn sách về chiến tranh gây xúc động nhất, vừa chân thực vừa giàu chất thơ.” Times Literary Supplement “Một kiệt tác… Xét một số khía cạnh cuốn sách này hay hơn cả cuốn Phía Tây không có gì lạ…” Irish Times “Tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào về chiến tranh hay hơn cuốn sách này, một cuốn sách giàu tính nhân văn, hàm chứa sự thật đau thương đến nỗi khiến tôi lặng người…” Time Out *** Trước khi anh đặt chân đến cảng cá nhỏ bên bờ biển Tyrrhenian, trời đã ngả về cuối chiều. Ánh hoàng hôn vàng đượm bắt đầu chuyển thành màu xám. Dải đồi Alban đã choàng lên mình tấm khăn sương của đêm. Trên đỉnh đồi cao nhất một đống lửa lớn cháy lấp lánh. Một con bò đực trắng đã bị giết để tế thần. Đích thân Caesar chứng kiến lễ tế này. Thần Jupiter đã được dỗ yên. Tất cả những người đàn ông giờ đã có thể bước đi bên nhau trong hòa bình. Người lữ hành nhìn thấy nước trước khi anh thấy bóng dáng của thị trấn. Antium nằm khuất sau một nếp gấp của bình nguyên Latium. Nhưng người lữ hành biết chỗ nào con đường bất ngờ dốc xuống biển. Chính nơi đây anh đã biết được câu chuyện về nữ thần Fortuna và chính nơi đây nhiều năm trước anh đã tiếp tục cuộc hành hương của mình. Anh bước đi dọc bờ biển, tiếng móng guốc của những con lừa vọng trên mặt đường trải sỏi, những con mòng biển sà xuống sát đầu anh bật lên những tiếng thét. Anh rẽ vào một cái sân hẹp. Anh quỳ xuống, cầu thánh thần phù hộ cho mình trở lại Antium bình an vô sự. Sáng hôm sau, vừa tới đền thờ thần Fortuna, người lữ hành sửng sốt khi nghe một người đàn ông nói rằng Caear đã bị ám sát. Trong vài phút anh ngây người nhìn chằm chằm xuống con tàu bằng thủy tinh chứa những đồ cúng bé xíu của mình, con tàu trượt khỏi tay anh rơi xuống đất vỡ tan tành. Rồi anh bước vào điện thờ thần Fortuna, vị thần nắm giữ trong tay mọi hiểu biết về tương lai. *** Một cuốn sách về chiến tranh được in khá đẹp với những lời ca ngợi rất “kêu” trên bìa lót, một trong số đó đã có ấn tượng đến mức tôi quyết định đọc thử : “Xét một số khía cạnh cuốn sách này hay hơn cả cuốn Phía Tây không có gì lạ…” – Irish Times. Tôi không phải là kiểu người chọn sách dựa trên những lời khen in bìa như thế, đôi khi còn ác cảm nữa kia. Nhưng lần này lại khác, bởi trong lời nhận xét ấy có nêu đối tượng so sánh cụ thể là kiệt tác của Remarque. Bình thường người ta có thể tung hô thoải mái song khi đã đặt lên bàn cân một cái tên lừng lẫy như vậy hẳn nhiên phải có ít nhiều cơ sở. . Mạch buồn là một tiểu thuyết chiến tranh, thuật lại cuộc chiến của quân Đồng minh tại Anzio, chiếm Rome, vào chiến tranh thế giới lần thứ II. Bản thân William Woodruff đã trực tiếp tham gia chiến dịch này, ông còn là một nhà sử học vì vậy cuốn sách này hết sức trung thực về mặt tư liệu. Cần nói rằng, nhà văn đã chọn cho mình một lối viết khá lạ, khi không chọn ra  tuyến nhân vật nào cho tác phẩm. Mạch buồn là một tiểu thuyết không có nhân vật cụ thể mà thay đổi liên tục theo dòng sự kiện, khi là một anh hạ sĩ, khi là một lính Đức, lúc lại là một đứa trẻ bản xứ… Nhân vật duy nhất cố định xuyên suốt tất thảy là chiến tranh. Đã có không ít sách viết về chiến tranh, nhưng William Woodruff đã đạt được một thành công khác biệt bởi chiến tranh trong sách của ông không hề bị giới hạn trong không gian. Góc quan sát trong truyện liên tục thay đổi, thậm chí nhiều lúc còn không có một dấu hiệu chuyển góc nhìn rõ ràng, những quang cảnh chiến đấu, mất mát, bom đạn… đổ tràn trên trang giấy từ rất nhiều góc độ tại cùng một mốc thời gian. Chính thủ pháp này đã khiến Mạch buồn có một cái nhìn toàn diện, khách quan hiếm có của một sử liệu ở một tác phẩm văn học. Cũng có ý kiến cho rằng tác giả đã ca ngợi chủ nghĩa anh hùng tập thể chứ không phải xây dựng hình tượng anh hùng cá nhân tương tự một số tiểu thuyết khác. Tôi không đồng ý lắm. Trong cuốn sách này, tôi đã không hề thấy chất anh hùng. Dường như anh hùng là một khái niệm quá màu mè, hoa mỹ khi dùng để nói đến một tác phẩm giàu chất hiện thực đến kinh ngạc như vậy. Chiến tranh trong Mạch buồn không có kẻ chiến thắng, không có niềm vinh quang, chẳng có thất bại và có lẽ cũng không có cả sự đau khổ. Nó là một thứ gì đó vượt qua mọi giới hạn của nhận thức thông thường, đưa tất cả về những giá trị cơ bản nhất : sống – chết. William Woodruff, cũng như Remarque, không viết về cuộc chiến dưới cái nhìn của một người đứng về một bên chiến tuyến, ông viết nó dưới tư cách của một con người bình thường, phản ánh nên một hiện thực khốc liệt, soi rọi nhiều số phận nhỏ bé đã bị vinh quang của lịch sử lấp nhòa. Có lẽ chính cái nhìn khách quan mà vẫn thấm đẫm tính người ấy đã đưa Mạch buồn trở thành một điểm sáng trong dòng chảy tiểu thuyết cùng loại. Đọc xong Mạch buồn, tôi chợt hiểu rằng, một cuốn tiểu thuyết chiến tranh xuất sắc cũng chính là một tác phẩm phản chiến gây ấn tượng nhất.  Trong chiến tranh, không có kẻ nào thực sự chiến thắng. Đó là điều văn học có thể chỉ ra cho ta thấy, còn lịch sử thì không. chiemphong Mời các bạn mượn đọc sách Mạch Buồn của tác giả William Woodruff & Nguyễn Bích Lan (dịch).
Duyên Phận Bất Ngờ
Những tháng ngày tăm tối sau cái chết của vua Richard Tim Sư Tử, các vùng đất rơi vào hỗn loạn dưới sự cai trị của một ông vua người Anh thèm khát quyền lực. Duyên Phận Bất Ngờ xoay quanh nhân vật chính Gillian. Khi cô lên 4 tuổi, gia đình cô gặp phải biến cố lớn: Gillian ngây thơ vẫn còn là một đứa trẻ, khi cô chứng kiến Bá tước Alford tàn nhẫn và đầy tham vọng giết hại cha mình để tìm lại chiếc hộp trang sức quý giá cho vua John, hai chị em cô bị lạc mất nhau. 14 năm sau, cô sống cùng bác họ của mình - Lãnh chúa Morgan và người hầu gái đã chăm sóc cho cô từ nhỏ tại lãnh địa của ông. Nhưng những tên lãnh chúa đã gây ra nỗi đau cho gia đình cô năm nào lại một lần nữa xuất hiện và đe dọa đến cuộc sống của cô và những người xung quanh cô. Để cứu bác mình, cô phải đến lãnh địa Macpherson tìm lại chị và tung tích chiếc hộp châu báu đã thất lạc của vua John. Trên đường đến đây, cô tình cờ cứu giúp cậu bé Alec khỏi tay bọn bắt cóc, và chạm trán Lãnh chúa Buchanan Brodick, người bảo vệ cậu bé. Cô và vị lãnh chúa trẻ tuổi nhanh chóng nảy sinh tình cảm. Nhưng cô không thể ở lại lãnh địa của anh. Cô phải nhanh chóng tìm được chị gái và chiếc hộp để quay về cứu bác mình. Khi cô không tìm thấy chiếc hộp và quyết định trở về nước Anh mà không thông báo cho anh, cô lại một lần nữa rơi vào tay của Nam tước Alford. Cuối cùng, liệu Gillian có thể thoát khỏi nguy hiểm và trở về bên Buchanan Brodick được không? Thông tin tác giả: Julie Garwood sinh năm 1946 tại thành phố Kanas, Missouri và là con thứ sáu trong một gia đình gốc Ireland. Mary Elizabeth – người bạn cũng là người thầy tại một lớp học đọc vào mùa hè năm bà mười một tuổi đã giúp Julie mở cánh cửa vào thế giới văn chương và trở nên say mê với nó. *** Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. Julie Garwood thường xuyên lọt vào danh sách các tác giả ăn khách nhất do New York Times, Wall Street Journal, và Publisher Weekly bình chọn. Hiện nay, những tác phẩm của bà đã phát hành được hơn ba mươi lăm triệu bản trên khắp thế giới. Bà là một trong những tác giả người Mỹ nổi tiếng nhaatsthees giới về tiểu thuyết cổ điển lãng mạn, bên cạnh những tên tuổi lớn như Linda Howard và Johanna Lindsey. Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle Người Đàn Ông Lý Tưởng Shadow Music Khát Vọng Nổi Loạn Âm Điệu Bóng Đêm Vì Những Đóa Hồng - Julie Garwood Phép Màu Tình Yêu Duyên Phận Bất Ngờ ... Mời các bạn mượn đọc sách Duyên Phận Bất Ngờ của tác giả Julie Garwood & Nguyễn Thị Lệ Thi (dịch).
Bí Mật Sâu Kín Nhất
Nối tiếp Chỉ thời gian có thể cất lời và Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất là tập thứ ba trong bộ Biên niên Clifton của Jeffrey Archer. Trong phần 3 – Bí mật sâu kín nhất, mỗi nhân vật chính sẽ xuất hiện với những vai trò mới với những biến cố và thử thách mới. Harry sẽ trở thành một tiểu thuyết gia, Emma cố gắng điều hành công việc kinh doanh của riêng cô, còn Giles bắt đầu tham gia hệ thống chính trị và chạy đua vào nghị viện. Những nhân vật chính sẽ bắt đầu một chương mới của cuộc đời, nhưng liệu rằng con đường của họ sẽ thuận lợi hay nhiều chông gai? Liệu những sóng gió có quật ngã sức sống của họ? Đây không còn là câu chuyện chỉ liên quan đến Harry Clifton. Mối ràng buộc giữa hai nhà Clifton và Barrington ngày càng sâu sắc hơn. Các bí mật xoay quanh thân thế của các nhân vật và những kế hoạch của họ khiến cho số phận các thành viên hai gia đình thay đổi nhanh chóng. Cho đến phút cuối cùng, bí mật sâu kín nhất vẫn chưa được tiết lộ. Liệu còn nhân vật nào sẽ khép lại câu chuyện của mình sau khi bí mật được phơi bày? *** #Review_độc_giả BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT – JEFFREY ARCHER Cuối phần 2 – Tội lỗi của người cha, mình đã nghĩ tác giả có thể kết thúc truyện rồi vì đa số các mâu thuẫn chính đã được giải quyết; Harry và mọi người đều có kết thúc đẹp, kẻ ác thì đã trả giá. Nên mình có đôi chút lo lắng về phần 3, vì nếu cố tình kéo dài truyện thì nhiều khi các phần sau sẽ khiên cưỡng và nhàm chán như rất nhiều tác phẩm trước đây đã gặp phải.  Tuy nhiên, Archer đã không làm mình thất vọng, những nhân vật phản diện vẫn trực chờ cơ hội báo thù Harry, Giles cũng như Emma. Tất nhiên là cậu con trai Sebastian cũng bị cuốn vào; mạch truyện càng về sau càng chuyển dần qua chàng trai mới lớn này. Những thử thách và số phận của cậu hứa hẹn sẽ còn hấp dẫn hơn cả cuộc đời người cha - Harry. Người con gái nuôi của Harry và Emma mà thực chất là con của Hugo cũng hứa hẹn sẽ tạo nên những rắc rối lớn cho sau này, nhưng chắc chúng ta phải đợi tới phần 4 để theo dõi. Tuy nhiên, mình cũng hơi thất vọng một chút về Harry, một người đã trải qua nhiều năm bão táp chiến trường trong Thế chiến thứ 2 mà không thể hiện được nhiều bản lĩnh của mình, có lẽ tác giả muốn dành sân khấu cho lớp trẻ nhiều hơn chăng?? Chỉ có một tình tiết mình khá thích, nếu ai đọc của Archer nhiều thì sẽ nhận thấy các nhân vật chính của ông đều đầy tài năng nhưng không chung thủy, họ dễ bị ngã vào vòng tay của nhưng người mới, tình huống tương tự cũng được Acher xây dựng cho Harry và Emma, kết quả ra sao thì mình sẽ để cho mọi người tự khám phá để tránh spoil. Cá nhân mình thích kết phần 3 hơn kết phần 2 rất nhiều, vì nó hứa hẹn phần 4 sẽ rất đáng mong đợi. Mình đánh giá BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT khoảng 8,5 điểm. Hy vọng chúng ta sẽ sớm được đón nhận phần 4 của series truyện này. Review: Đào Đức Tâm *** Big Ben đổ chuông bốn tiếng. Mặc dù đã kiệt sức bởi những gì diễn ra tối hôm đó, nhưng vẫn còn đủ chất kích thích được bơm đi khắp cơ thể khiến vị Đại Chưởng ấn hầu như không thể ngủ nổi. Ông đã cam đoan với các thành viên Thượng viện sẽ đưa ra một phán quyết cho vụ tranh tụng của Barrington chống lại Clifton về vấn đề thừa kế tước hiệu lâu đời và tài sản khổng lồ của gia tộc. Thêm một lần nữa, ông cân nhắc các sự kiện thực tế, vì ông tin vào chúng, và chỉ có chúng được phép quyết định phán quyết cuối cùng của ông. Khoảng bốn mươi năm về trước, khi ông bắt đầu tập sự, người hướng dẫn đã khuyên ông phải loại bỏ mọi cảm xúc hay thiên kiến cá nhân khi cần đưa ra một phán quyết về thân chủ hay về vụ tranh tụng đang diễn ra trước mắt. Ngành luật không phải là ngành dành cho những kẻ có trái tim yếu đuối hay lãng mạn, sư phụ của ông đã nhấn mạnh như thế. Tuy vậy, sau khi tuân thủ tôn chỉ này trong bốn thập kỷ, ngài Đại Chưởng ấn buộc phải thừa nhận ông chưa bao giờ gặp phải một vụ việc cân bằng đến mức gần như tuyệt đối thế này. Ông chỉ ước gì F. E. Smith⁜vẫn còn sống để ông có thể tìm kiếm lời khuyên từ sư phụ của mình. ← Frederick Edwin Smith, Bá tước thứ nhất của Birkenhead, là một chính trị gia và luật sư bảo thủ người Anh. Một mặt… ông căm ghét những lời lẽ sáo mòn này biết chừng nào. Một mặt, Harry Clifton đã ra đời sớm hơn ba tuần so với người bạn thân nhất của anh ta, Giles Barrington: đó là thực tế. Mặt khác, Giles Barrington, không nghi ngờ gì nữa, là con trai chính thức của Sir Hugo Barrington và người vợ kết hôn hợp pháp của ông ta, Elizabeth: đó là một thực tế nữa. Nhưng điều đó vẫn không làm chàng trai trở thành người con được ra đời sớm nhất của Sir Hugo, và đó là điểm mấu chốt của bản di chúc. Một mặt, Maisie Tancock sinh Harry vào ngày thứ 28 của tháng thứ chín sau khi bà ta thừa nhận đã có quan hệ tình dục với Sir Hugo Barrington khi họ tham gia chuyến dã ngoại dành cho công nhân tới Weston-super-Mare⁜. Thêm một thực tế. Mặt khác, Maisie Tancock đã kết hôn với Arthur Clifton khi Harry ra đời, và giấy khai sinh khẳng định rõ ràng Arthur là bố đứa trẻ. Một thực tế khác. ← Một thị trấn ven biển ở Somerset, Anh. Một mặt… Dòng suy nghĩ của Đại Chưởng ấn quay trở lại những gì đã diễn ra trong phòng họp sau khi Viện cuối cùng cũng thực hiện biểu quyết để quyết định xem Giles Barrington hay Harry Clifton nên được thừa kế tước vị và tất cả những gì đi kèm.Ông nhớ lại chính xác những lời của người phụ trách kiểm phiếu khi công bố kết quả trước Thượng viện đông kín. “Đồng ý ở bên phải, hai trăm bảy mươi ba phiếu. Không đồng ý ở bên trái, hai trăm bảy mươi ba phiếu.” Những tiếng xôn xao ồn ã vang lên khắp các băng ghế đỏ⁜. Ông chấp nhận việc kết quả bỏ phiếu cân bằng sẽ buộc ông phải đảm nhận trách nhiệm không hề mong muốn là đưa ra quyết định ai là người được thừa kế tước vị của gia đình Barrington, công ty hàng hải danh tiếng, cũng như mọi tài sản, đất đai, vật sở hữu có giá trị. Giá như không có nhiều thứ đến vậy gắn liền với quyết định của ông khi tính đến tương lai của hai người đàn ông trẻ tuổi. Liệu ông có nên chịu ảnh hưởng bởi thực tế Giles Barrington muốn được thừa kế tước vị còn Harry Clifton thì không? Không, ông không được làm thế. Như Lord Preston đã chỉ ra trong bài diễn thuyết đầy sức thuyết phục của ông ta từ băng ghế phe đối lập, rằng như thế sẽ tạo ra một tiền lệ xấu, cho dù nó thật tiện lợi. ← Ở Quốc hội Anh, các băng ghế tại phòng họp Thượng viện sơn màu đỏ, còn Hạ viện sơn màu xanh. Một mặt, nếu ông thực sự ra phán quyết có lợi cho Harry… cuối cùng ông ngủ thiếp đi, để rồi bị đánh thức bởi một tiếng gõ cửa khe khẽ vào lúc bảy giờ, một thời điểm muộn bất thường. Ông rên lên, đôi mắt vẫn nhắm trong khi đếm từng tiếng chuông của Big Ben. Chỉ còn ba giờ đồng hồ nữa trước khi ông phải đưa ra phán quyết, và ông vẫn chưa đi được tới quyết định. Đại Chưởng ấn rên lên lần thứ hai khi ông đặt chân xuống sàn, xỏ dép vào và đi sang phòng tắm. Thậm chí lúc ngồi trong bồn tắm, ông vẫn tiếp tục đánh vật với vấn đề. Thực tế. Harry Clifton và Giles Barrington đều bị mù màu, giống như Sir Hugo. Thực tế. Bệnh mù màu chỉ có thể di truyền từ mẹ, vậy nên đây chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên, và cần được loại bỏ trên đúng cơ sở đó. Ông ra khỏi bồn tắm, lau khô người, khoác lên mình một chiếc áo mặc trong nhà. Sau đó, ông ra khỏi phòng ngủ, đi theo hành lang trải thảm dày tới phòng làm việc của mình. Đại Chưởng ấn cầm một cây bút máy và viết hai cái họ “Barrington” và “Clifton” lên đầu một trang giấy, phía dưới ông bắt đầu liệt kê những ưu thế và yếu thế của từng người. Cho tới khi ông viết kín ba trang giấy với thứ chữ gọn ghẽ như bản khắc đồng của mình, Big Ben đã đánh tám tiếng chuông. Song ông vẫn chẳng sáng suốt được thêm chút nào. Ông đặt bút xuống và miễn cưỡng đi ăn sáng. Đại Chưởng ấn ngồi một mình, lặng lẽ dùng bữa sáng. Thậm chí ông không để mắt tới những số báo ra buổi sáng được xếp ngay ngắn ở bên đầu bàn, cũng không bật máy thu thanh lên, vì ông không muốn một bình luận viên không được thông tin đầy đủ nào đó làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình. Những tờ báo nghiêm túc tập trung vào tương lai của nguyên tắc thừa kế thế tập nếu Đại Chưởng ấn phán quyết có lợi cho Harry, trong khi các tờ lá cải dường như chỉ bận tâm đến chuyện liệu Emma có thể kết hôn với người đàn ông cô yêu hay không. Khi ông quay trở lại phòng tắm để đánh răng, cán cân công lý vẫn chưa nghiêng về bên nào. Ngay sau khi Big Ben đánh chuông báo chín giờ, ông quay trở lại phòng làm việc và đọc lại các ghi chép của mình với hy vọng rằng cuối cùng cán cân cũng sẽ nghiêng về bên này hay bên kia, song nó vẫn cân bằng tuyệt đối. Ông tiếp tục nghiền ngẫm các ghi chú khi một tiếng gõ cửa nhắc nhở Đại Chưởng ấn rằng cho dù có hình dung quyền lực của ông lớn đến thế nào, ông vẫn không thể ngăn được thời gian trôi đi. Ông thở dài, xé ba tờ giấy khỏi tập sổ ghi chép, đứng dậy, tiếp tục đọc trong khi bước ra khỏi phòng làm việc và đi xuống hành lang. Khi vào phòng ngủ, ông trông thấy East, người hầu phòng, đang đứng cạnh chân giường, chờ đợi thực hiện phần việc buổi sáng. East bắt đầu bằng việc khéo léo cởi chiếc áo mặc trong nhà bằng lụa ra trước khi giúp ông chủ mặc lên người một chiếc sơ mi trắng vừa là xong vẫn còn ẩm. Tiếp theo, một cái cổ cồn hồ bột, rồi đến một chiếc khăn quàng cổ nhỏ tinh tế có dây buộc. Trong khi Đại Chưởng ấn kéo cái quần dài đen lên, ông tự nhắc nhở mình đã tăng thêm vài cân kể từ khi nhậm chức. Tiếp đó, East giúp ông mặc chiếc áo thụng dài màu đen và vàng trước khi chuyển sự chú ý sang đầu và bàn chân ông chủ. Một bộ tóc giả che kín gáy được đội lên đầu ông trước khi ông xỏ chân vào đôi giày có cài khóa. Chỉ sau khi sợi dây chuyền vàng chức tước từng được ba mươi chín vị Đại Chưởng ấn trước đó đeo đã nằm trên vai, ông mới từ bộ dạng một vai quý bà cáu bẳn trên sân khấu kịch câm chuyển thành quan chức tư pháp có quyền lực lớn nhất ở quốc gia này. Một cái liếc mắt vào gương, và ông cảm thấy đã sẵn sàng để bước lên sân khấu diễn vai của mình trong vở diễn đầy kịch tính đang được công diễn. Chỉ tiếc một điều là ông vẫn chưa biết lời thoại sẽ thế nào. Việc căn thời gian cho Đại Chưởng ấn đi vào và ra khỏi tòa tháp Bắc cung điện Westminster hẳn có thể khiến một thượng sĩ nhất của trung đoàn phải thấy ấn tượng. Vào lúc 9 giờ 40 phút sáng, có một tiếng gõ cửa và David Bartholomew, thư ký của vị đại thần, bước vào phòng. “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” ông ta mở lời. “Chúc buổi sáng tốt lành, ông Bartholomew,” Đại Chưởng ấn chào lại. “Tôi rất tiếc phải thông báo,” Bartholomew nói, “là Lord Harvey đã qua đời tối qua, trong một chiếc xe cứu thương trên đường tới bệnh viện.” Mời các bạn mượn đọc sách Bí Mật Sâu Kín Nhất của tác giả Jeffrey Archer & Lê Đình Chi (dịch).