Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Chú Chim, Con Ếch Và Khu Vườn Màu Xanh

TỪ BỎ Ư? TRONG TỪ ĐIỂN CỦA TÔI KHÔNG CÓ HAI TỪ ĐẤY! Đã bao giờ bạn rơi vào tận cùng của chán nản, muốn buông bỏ tất cả? Đã bao giờ bạn cảm thấy dù nỗ lực thế nào cũng bị hiện thực đánh gục? Đã bao giờ bạn từ bỏ đam mê chỉ vì không đủ niềm tin, không đủ sức lực? Nếu đã từng ít nhất một lần rơi vào tình trạng ấy, chắc chắn bạn không nên bỏ lỡ câu chuyện này - câu chuyện về Jack - một cậu bé luôn có mơ ước thay đổi thị trấn nơi mình đang sống. Dù cho hoàn cảnh có khó khăn, khắc nghiệt đến mấy, Jack cũng chưa bao giờ có ý định từ bỏ thị trấn. Bởi ở đó có gia đình gắn bó, có quê hương ấm áp tình người, có những điều thân thuộc nhưng rất đỗi quan trọng.  “Chuyện chú chim, con ếch và khu vườn màu xanh” sẽ là một "La Dolce Vita" dành cho bạn: Ai trong chúng ta cũng đều muốn sống một cách có ý nghĩa nhất, tận hưởng những điều tốt đẹp nhất mà tạo hóa đã ban tặng. *** NHỮNG CÂY CẦU Sống ở Thị Trấn Đồng giống như sống trên mặt trăng. Toàn bộ khu vực là đất đá nguyên sơ, trơ trụi gập ghềnh do những mương rãnh chống xói mòn cắt ngang qua mọi hướng. Xa tới tận đường chân trời, cảnh vật trông như một chiếc túi giấy nâu nhàu nát. Không có cả cây bụi lẫn trảng cỏ, không có mảng xanh nào len qua mặt đất để gắn nhà cửa của chúng tôi vào mảnh đất này, để những ngôi nhà trông như thuộc về nơi đây. Vậy vì sao cô Post lại mất công dạy chúng tôi về cây cối trong khi chúng tôi chẳng có cây cối gì? Những người thợ đã sử dụng hết cây khi bắt đầu khai thác mỏ đồng ở đây từ một trăm năm trước. Họ chặt cây để làm nhiên liệu cho các lò luyện kim lộ thiên, họ dùng những lò này để nung trước khi nấu chảy quặng. Khói từ những ống khói tạo ra mưa axit, và chính mưa axit đã giết sạch mọi vật. Giờ họ không còn làm như vậy nữa nhưng tự nhiên vẫn chưa trở lại. Dẫu vậy, cô Post nói rằng tất cả chúng tôi nên biết cây hoàng dương - loài cây tiêu biểu của bang Tennesse trông ra sao, và biết phân biệt cây hoàng dương với các loài thông, sồi, dẻ vàng hay phong. Cô bảo rằng không có cây cối là điều bất thường, mặc dù đối với chúng tôi việc đó thật bình thường. Trên tấm màn chiếu, cô cho chúng tôi xem hết slide này đến slide khác hình ảnh cây cối, từ các thân cây màu nâu to bự với ngọn xanh đầy lá, cho tới các cành nhánh dài mảnh khảnh với các lá kim trông như bàn chải. Với những gì chúng tôi biết về cây cối thì cô có trưng ra phi thuyền không gian chúng tôi cũng tin. Bên ngoài cửa sổ phòng học, tất cả những gì chúng tôi thấy là Những Ngọn Đồi Đỏ, như cách người dân địa phương vẫn gọi, đó là vùng đất chỉ có ích cho việc khai thác mỏ đồng và lái những chiếc xe đạp thể thao địa hình BMX. Nói vậy chứ tôi cũng chẳng có một chiếc xe loại ấy. Chiếc xe đạp đầu tiên của tôi là loại rẻ tiền, nó đã thoát khỏi tay tôi, lao xuống con đường đất rồi nảy trên các mương chống xói mòn, ném mình vào không khí như một chú chim cất cánh bay. Tôi có chiếc xe đạp này từ hồi lên mười, vì thế lúc chiếc xe rời bỏ tôi, nó đã trở nên quá nhỏ. Tôi liên tục nói bóng gió với mẹ rằng tôi cần một món quà Giáng sinh thật chất, một chiếc xe đạp đua BMX mới như chiếc xe trưng ở cửa hàng Công ty. Nhưng mẹ nói chiếc xe ấy quá đắt và nguy hiểm, thật chẳng có lý gì hết. Dẫu sao, nếu có xe đạp, tôi đã không phải cuốc bộ với Piran vào cái ngày tháng tám đó, ngày mà chúng tôi đụng độ Eli cùng đám bạn của hắn, và có thể tôi đã không làm gãy cánh tay mình. Piran được đặt tên theo vị thánh bảo trợ ngành khai thác thiếc, bạn hẳn nghĩ rằng cậu bạn thân nhất của tôi là một thiên thần. Nhưng cậu ấy khiến chúng tôi gặp rắc rối còn nhiều hơn cả quỷ sứ. Việc tôi băng qua cây cầu cạn đó là lỗi của cậu ấy, nếu cậu ấy không thách thì tôi đã không làm. ※ Đó là một ngày mùa hè nóng nực, không khí nặng nề và mọi vật đều nhuốm ánh vàng son. Eli Munroe cùng băng nhóm của hắn - một đám con trai cấp ba đang tụ tập hút thuốc ở đầu cầu cạn khi chúng tôi đi ngang qua trên đường tới Ao Thải Cũ Số Hai. “Nhìn các em bé dễ thương này.” Chúng cười. “Cá là các bé quá nhát không dám băng qua cầu đâu.” “Thôi đi.” Tôi lừ mắt và tiếp tục đi, nhưng Piran chộp lấy cánh tay tôi. “Coi nào Jack, băng qua cầu đi.” Cậu ấy nói. Khuôn mặt Piran bị biến dạng qua cạnh chiếc kính dày cộp cậu ấy đang đeo khi nhìn tôi từ một phía. “Không đời nào!” “Năm tới bọn mình sẽ lên cấp ba, đến lúc ấy một đứa trong đám này sẽ là học sinh năm cuối. Cậu muốn chúng gọi bọn mình là thỏ đế à? Tốt nhất là. giờ hãy chứng tỏ cho chúng thấy.” Piran thì thầm. “Tớ thách cậu đấy. Tớ đi trước nhé.” Piran không chờ tôi trả lời. Cậu ấy hất cằm rồi bước lên một thanh tà vẹt. Eli cùng băng của hắn rú lên reo hò. Tôi lo bệnh hen suyễn của Piran sẽ tái phát như thường lệ mỗi khi sợ hãi hay căng thẳng, nhưng cậu ấy vô cùng bình tĩnh giữ thăng bằng đi từ thanh đòn này sang thanh đòn khác. Cậu ấy băng qua cầu, nhảy xuống đất, rồi quay lại nhìn tôi cười nhăn nhở. Đến lượt tôi. Ánh nắng phản chiếu lên lớp kính chắn gió chiếc xe Jeep cũ của Eli làm tôi phải che mắt. Đây không phải cây cầu cạn cao nhất Hạt Polk nhưng cũng khá cao. Dưới trụ cầu, làn nước màu hổ phách đã gần khô cạn kể từ đợt mưa trước, chỉ thấy một lớp bùn vàng dày bám quanh những thanh đòn được tráng nhựa đường của cây cầu. Chạy từ đầu cầu tới cuối cầu cũng chỉ như chạy từ trụ thứ nhất đến trụ thứ hai, nhưng tôi chưa từng chạy trên các thanh đòn nằm quá gần nhau chỉ dành cho đi bộ thế này, nhất là khi nó lại nằm quá cao so với mặt đất. Bên dưới lòng chảo, mặc dù không có cây cối nhưng các ngọn đồi xung quanh cũng đủ để che phủ mọi thứ. Tôi lắng nghe mong có tiếng tàu vọng tới, nhưng thật yên lặng. Sự im lặng của Thị Trấn Đồng nghĩa là không có tiếng côn trùng hay chim chóc, thậm chí không có cả gió, điều đó làm tôi đổ mồ hôi nhiều hơn. Không còn cách nào tránh khỏi việc này. Nếu không băng qua cầu, không những tôi sẽ phải nghe đám Eli nhắc đi nhắc lại chuyện này, mà Piran cũng sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa. Tôi hít một hơi thật sâu, xoa xoa chiếc chân thỏ may mắn trong túi áo rồi bước lên. Tôi mới chỉ vượt qua nửa cây cầu thì đoàn tàu xình xịch xuất hiện. “Chạy đi… CHẠY!” Tất cả hét lên. Nhưng tôi chẳng thế sang kịp đến bờ bên kia, mà mặt đất lại cách quá xa để nhảy xuống. Các thanh tà vẹt nhô ra như những móc treo phía ngoài đường tàu làm tôi nảy ra một ý tưởng. Tôi quỳ xuống, bò ra tới rìa, những mảnh vụn gỗ đá đâm vào tay và đầu gối tôi. Tôi nghiến răng vì đau đớn. Đoàn tàu vừa tới gần, tôi kịp thời dùng tay ôm chặt một móc treo rồi lẳng hai chân qua một bên. Tôi đá chân liên tục mong tìm kiếm một điểm tựa. Nhưng tất cả những gì chân tôi đụng phải chỉ là không khí. Dạ dày tôi lộn tùng phèo, đầu tôi quay mòng mòng. Tôi ấn má vào lớp nhựa đường nóng dính trên thanh đòn khi tôi giữ chặt nó, tôi ngửi thấy mùi như lốp xe cháy sát bên cạnh. “Tránh xa địa phận Công ty ra, Jack nhé.” Tôi nhớ tới lời bố dặn. “Nguy hiểm lắm.” Nhưng Công ty sở hữu gần như mọi thứ quanh đây, không có nhiều việc có thể làm ở Thị Trấn Đồng mà không dính đến nguy hiểm theo cách này hay cách khác. Tôi nên làm gì, ngồi trong nhà cả mùa hè à? Tôi đã đủ lớn để tự lo cho bản thân. Nhưng ngay lúc này, tôi ước mình đã nghe lời bố. Đoàn tàu rú ầm ĩ lao về phía tôi, tiếng còi lớn tới nỗi đầu tôi ù đi. Từ góc nhìn của tôi, đoàn tàu như một con quái vật khổng lồ bằng sắt với tấm vỉ nướng phía trước đầy những răng kim loại, nó đang lao tới để nhai tôi ngấu nghiến. Tôi không còn cảm nhận được các ngón tay của mình chứ đừng nói tới phần còn lại của cơ thể. Sau này khi kể lại tôi vẫn khẳng định rằng chuyển động rung lắc đã khiến tôi buông lơi, nhưng nói thật với trời đất tôi đã buông tay. Tôi rơi hàng chục mét xuống lớp bùn bên dưới. Được rồi, chắc chỉ khoảng vài mét thôi, nhưng tôi nhớ rõ những tiếng “bõm!”, “tõm!” của lớp bùn, chính nó đã cứu sống tôi, ngay trước tiếng “rắc!” Đau đớn ùa tới cánh tay tôi. Eli cùng băng của hắn biến khỏi đó không thể nhanh hơn. Chúng trèo lên nhau thành một đống trong chiếc xe Jeep cũ mèm của Eli, rồi lao đi để lại đám mây bụi. Nhưng một đứa trong đám đã chậm chân và bị bỏ lại phía sau. “Will McCaffrey!” Piran hét lên. “Người trong mương kia là con trai của ông Ray Hicks đấy, mà bố anh làm việc ở mỏ. Tôi có cần cho anh hay chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh không mau đi tìm người giúp không hả?” Tôi không biết vào khoảnh khắc đó mình ghét hay quý Piran nữa, nhưng tôi không có nhiều thời giờ nghĩ về việc ấy. Tôi ngất đi. Khi tôi tình lại, Piran đang ngồi cạnh tôi vừa hít ống xịt vừa khóc lóc xin lỗi vì đã đẩy tôi vào tình huống khó khăn đó. Tôi thì khóc vì quá đau. Cậu ấy dùng chân làm gối để đầu tôi tựa vào. Tư thế thật vụng về, nhưng chúng tôi là một mớ hỗn độn bù lu bù loa nên tôi cũng chẳng bận tâm. Khi nước mắt đã khô và hơi thở bình tĩnh lại, Piran kể chuyện cười cho tôi nghe để giúp tôi không nghĩ tới cơn đau đang hành hạ. Dĩ nhiên tôi đã nghe tất cả những chuyện cười này trước đây. “Cậu không có chuyện gì mới à?” Tôi hổn hển. “Quỷ tha ma bắt, tớ không biết nữa. Tớ xin lỗi Jack ơi.” Piran lại khóc. “Bố sẽ giết tớ khi biết chuyện này, nhất là khi biết bọn mình đang tới chỗ ao thải cũ…” Chúng tôi không được phép tới đó. Đấy là nơi Công ty đổ bỏ nước họ dùng để tách những phần khoáng cuối cùng trong quặng. Khi họ đóng một ao thải lại, họ sẽ không bơm nước vào nữa. Vì thế, mặc dù tên là Ao Thải Cũ Số Hai nhưng nơi ấy không giống ao chút nào. Khắp nơi khô ráo, không có gì ngoài bụi silicat cứng màu trắng, vào những ngày gió, lớp bụi này thổi khắp Thị Trấn Đồng. Ao thải trông như một sa mạc với làn nước màu đồng rịn qua bờ ao, phủ lên đá một lớp nước bùn sắt màu mù tạt. Khu vực ao thải rộng hàng mẫu trông còn cằn cỗi hơn cả phần còn lại của Thị Trấn Đồng, tôi đoán đấy là lý do chúng tôi nghĩ nơi này rất ngầu. Ở đó trông như hành tinh khác vậy, vì thế chúng tôi thường giả vờ mình đang trên đường di cư giữa các vì sao ngoài không gian như trong phim Star Trek và hạ gục nhau bằng những khẩu súng bắn laze vô hình. “Cậu không cần cho bố biết.” Tôi nghẹn lời. “Chứ không thì vì sao bọn mình lại đi xa đến tận đây? Dù bố tớ không phải là một thợ mỏ nhưng ông ấy không ngốc đâu.” “Khỉ gì chứ, chú ấy chắc chắn là người thông minh nhất ở đây.” Tôi gắng sức nói. Mặt trời nung chúng tôi như cái lò. Tôi khát quá, lưỡi tôi phồng lên như quả bóng chày. “Bố cậu không cần phải xuống lòng đất làm việc.” Bố của Piran quản lý bưu điện của thị trấn, dường như việc này khiến cậu ấy ngượng. “Nhưng dưới lòng đất mới là nơi kiếm được nhiều tiền.” Cậu ấy nói. “Nếu không vì bệnh hen suyễn, tớ sẽ trở thành thợ mỏ.” Hẳn là tôi đang bị ảo giác. “Gì cơ? Vì sao?” “Cậu đùa à?” Piran đáp. ”Ở dưới ấy chẳng bao giờ có mưa hay tuyết, quanh năm lúc nào cũng một nhiệt độ. Cả thị trấn đối đãi với cậu như hoàng tộc, rồi cậu còn được giảm giá ở cửa hàng của Công ty nữa. Một ngày nào đó tớ muốn trở thành thợ mỏ giống như cậu.” Giống tôi ư? Tôi ráng nuốt xuống nhưng cổ họng khô khốc. Tôi ước mình cũng yêu công việc thợ mỏ như Piran hay bố tôi, yêu những chiếc mũ cứng, sức mạnh của công việc, tình cảm gắn bó đặc biệt giữa các thợ mỏ. Nhưng rồi tôi sẽ lại nghĩ về những người tôi quen biết đã chết hoặc bị thương bởi những vụ nổ hay sập hầm. Tôi nghĩ về bố tôi ngày nào đi làm về cũng phải kỳ cọ người thật kỹ mà chẳng bao giờ sạch hẳn. Những việc ấy dường như không hề làm bố tôi sợ. Bố của bố, ông nội Hicks của tôi đã mất trước khi tôi ra đời, bố coi cái chết của ông như một tấm huy hiệu danh dự. “Chúng ta là thợ mỏ, Jack ạ.” Bố đã nói. “Khai mỏ nằm trong máu chúng ta.” Tôi chắc chắn một điều là khai mỏ không nằm trong máu của tôi. Bố vẫn trông chờ tôi nối gót bố và sớm thôi tôi sẽ phải bảo bố rằng tôi không muốn. Nghĩ đến chuyện đó khiến tôi đau dạ dày. Bố đã tới làm việc ở mỏ từ hồi mười bảy tuổi, và em trai bố, chú Amon, làm ở đó từ lúc mười lăm, chỉ hơn tôi bây giờ hai tuổi. “Cậu có thể nói vài lời tốt về tớ khi cậu vào đó làm.” Piran nói. Tôi rên rỉ. Một phần để cậu ấy ngậm miệng, nhưng chủ yếu là bởi tôi đau quá, mà việc suy nghĩ còn khiến tôi đau đớn hơn. Lâu vô tận mới có người tới giúp, nhưng cuối cùng họ cũng đến. Các nhân viên y tế mang tôi đi trên một chiếc cáng trông như ván trượt màu cam cực hiện đại. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái mương ấy khi họ cứ thở hổn hển như thể chưa từng leo lên một ngọn đồi nào suốt cuộc đời. Cũng có thể coi là may mắn khi họ suýt làm rơi tôi và tôi lại ngất đi. Việc ấy giúp tôi khỏi thấy đau đớn suốt nửa hành trình leo lên dốc đá lở. ※ Tôi vẫn còn bị bó bột khi chúng tôi quay lại trường học vào tháng 9. Mỗi lần kể lại chuyện này Piran càng khiến câu chuyện trầm trọng hơn, cho tới khi tôi trở nên cực kỳ nổi tiếng. Cả lớp ký lên cánh tay bó bột của tôi, bao gồm cả đội bóng chày Thợ Mỏ mà tôi tham gia. Buster, cậu em họ tôi nói: “Em sẽ giết anh nếu anh làm gãy tay trong mùa bóng chày đấy.” Cứ như gãy tay trong kỳ nghỉ hè thì tốt hơn ấy nhỉ? Tôi đoán đấy là cách nói khác thường của Buster rằng cậu ta quan tâm đến tôi. Hoặc là không quan tâm. Tôi chọc cây bút chì xuống dưới lớp bó bột, cố gãi một chỗ ngứa vừa khéo… ngoài tầm với. Tôi chẳng thế chờ đến lúc bỏ thứ trời đánh này đi. “Jack Hicks, em có chú ý đến bài giảng không đấy?” Cô Post nạt. “Có điều gì đặc biệt về cái cây này?” Cô hỏi khi chỉ thước vào màn chiếu có hình một thân cây ngọn rậm rạp. “Cái cây có màu xanh ạ?” Tôi nói và mọi người đều cười. Nhưng tôi nghĩ đó là câu trả lời hay đấy chứ. Trong một thế giới với đất nâu, bùn vàng và cánh tay bó bột bẩn thỉu của tôi, bất cứ thứ gì màu xanh cũng đều đặc biệt. Thực tế nếu làm được tôi đã biến cả Thị Trấn Đồng thành màu xanh rồi. Mời các bạn đón đọc Chuyện Chú Chim, Con Ếch Và Khu Vườn Màu Xanh của tác giả Elizabeth O. Dulemba & Nguyễn Trang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vượt Lên Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc - Richard Carlson
Nhiều người trong chúng ta dành phần lớn thời gian và năng lượng của bản thân cho công việc – tám tiếng, mười tiếng, thậm chí mười hai tiếng một ngày. Dù chúng ta làm việc cho tập đoàn danh tiếng hay một doanh nghiệp nhỏ; dù chúng ta thành lập công ty riêng, làm cho nhà nước hay hoạt động trong bất cứ ngành nghề nào, thì có một điểm chung mà không ai có thể chối cãi: công việc không chỉ có thể mà còn là yếu tố thường xuyên khiến ta căng thẳng! Tuy nhiên, điều chúng ta bàn đến sau đây không liên quan đến việc làm thế nào để xóa bỏ căng thẳng trong công việc hay làm thế nào để bạn không gặp rắc rối – bởi vì đây là những điều chắc chắn sẽ xảy ra. Đề tài mà chúng ta bàn dưới đây là: “Bạn sẽ đối phó như thế nào với căng thẳng?”. Tôi đã học được một điều rõ ràng rằng: nếu bạn có ý định tìm kiếm một phương pháp giúp giảm bớt căng thẳng trong công việc, bạn phải tìm nó trong chính bản thân mình. Bởi vì chẳng có công việc hay cuộc sống nào không chứa thách thức cả. Nếu từng đọc qua những cuốn sách trước đây của tôi, hẳn bạn cũng nhận ra rằng tôi là người rất lạc quan. Tôi tin rằng tất cả mọi người đều có thể nâng cao chất lượng cuộc sống của mình bằng cách tạo ra những thay đổi nhỏ về thái độ và cách xử sự của bản thân. Dù chẳng có cách nào giảm thiểu khó khăn trong cuộc sống nhưng tôi cam đoan rằng chúng ta không phải là nạn nhân của cuộc đời. Chúng ta có thể thay đổi cuộc sống của mình. Tuy nhiên, sự thay đổi sẽ không đến khi những khó khăn được giảm thiểu hay khi cuộc sống trở nên dễ dàng hơn. Sự thay đổi phải đến từ bên trong chúng ta. Và khi ta thay đổi, công việc cũng như cuộc sống của ta sẽ trở nên dễ dàng và ít căng thẳng hơn. Sau khi xuất bản cuốn “Tất cả chỉ là chuyện nhỏ”, tôi đã nhận được hàng ngàn bức thư và điện thoại từ độc giả. Tất cả đều cảm ơn vì cuốn sách đã giúp họ cảm thấy thoải mái hơn trong cuộc sống. Nhiều người đã đề nghị tôi viết thêm những cuốn sách với cùng mục tiêu đó, nhưng chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định, chẳng hạn như công việc. Bản thân tôi đã từng vượt qua được nhiều chuyện nhỏ trong công việc và cũng đã tiếp xúc với nhiều người như vậy. Vậy nên tôi đã quyết định chia sẻ những kinh nghiệm mà mình đã tích lũy được với các bạn thông qua cuốn sách này. Việc phân tích cách thức con người dùng để đối phó với rắc rối trong công việc - chẳng hạn như quan sát thái độ của một người bị sa thải, bị đối thủ vượt qua, bị thuyên chuyển công tác; hay quan sát vấn nạn ăn cắp từ trong nội bộ - đã mang lại cho tôi nhiều thích thú. Tôi nhận thấy rằng hầu như trong những tình huống buộc phải đối phó với thách thức lớn, chúng ta đều tỏ ra can đảm, sáng tạo và kiên cường lạ thường. Nhưng, cũng giống như các khía cạnh khác trong cuộc sống, việc đối phó với những “chuyện nhỏ” trong công việc lại là chuyện khác hẳn. Khi nhìn lại, bạn sẽ nhận thấy rằng trong quá trình làm việc, dù thỉnh thoảng vẫn có những vấn đề thật sự nghiêm trọng xảy đến, nhưng hầu hết những rắc rối khiến ta căng thẳng hàng ngày đều là những “chuyện nhỏ”. Có thể nói, với hầu hết chúng ta, những rắc rối hay vấn đề nghiêm trọng thường xảy ra không nhiều và cách quãng, trong khi điều làm ta căng thẳng và muốn nổi đóa lên lại chính là những chuyện nhỏ hằng ngày. Bạn hãy dừng lại trong giây lát để hình dung xem chúng ta đã tốn biết bao nhiêu năng lượng cho những lúc căng thẳng, giận dữ hay nản lòng chỉ vì chuyện nhỏ nhặt? Còn những lúc ta bị xúc phạm, quấy rầy hay bị chỉ trích thì sao? Và hãy hình dung về những lúc bạn cảm thấy lo lắng, sợ hãi hoặc đau buồn. Hãy nghĩ xem những cảm xúc tiêu cực này sẽ tác động xấu như thế nào đến năng suất và niềm đam mê công việc của bạn. Thật lãng phí phải không? Bây giờ, hãy tưởng tượng mọi chuyện sẽ ra sao khi bạn dùng chừng đó năng lượng – thậm chí chỉ một phần năng lượng – nhưng làm việc trong trạng trái hưng phấn và sáng tạo? Dù không thể kiểm soát những biến cố nghiêm trọng nhưng phải thừa nhận rằng rất nhiều lúc, ta đã thổi phồng những vấn đề nhỏ nhặt và làm rối tung mọi thứ. Chúng ta dễ mệt mỏi và nản lòng khi phải đối phó với các vấn đề nhỏ nhặt chồng chất. Theo đó, chúng ta xâu chuỗi các rắc rối lại với nhau và xử sự như thể chúng là những vấn đề nghiêm trọng vậy. Bởi vì công việc thường chứa đựng rất nhiều “chuyện nhỏ” mà bạn phải đối phó, nên giữa cách bạn giải quyết chúng và những kinh nghiệm bạn thu được thường có một sự tương quan nhất định. Nếu bạn có thể học cách đối phó với những rắc rối hằng ngày bằng tầm nhìn sáng suốt, sự kiên nhẫn và lạc quan, nghĩa là bạn đã bắt đầu phát huy được khả năng tốt nhất của bản thân cũng như của đồng nghiệp. Bạn sẽ không còn cảm thấy căng thẳng, cáu kỉnh, thất vọng nữa mà ngược lại, bạn sẽ làm việc với cảm giác hưng phấn và sáng tạo hơn. Những giải pháp được tìm thấy khi ta ở tâm thái điềm tĩnh cũng nhiều bằng những rắc rối xảy đến nếu tâm trạng ta phiền muộn. Một tác dụng tích cực khi bạn học cách vượt qua những chuyện nhỏ đó là cuối cùng, bạn sẽ nhìn những rắc rối xảy đến hằng ngày như những chuyện nhỏ thật sự. Nếu trước kia, bạn xử sự với hầu hết mọi chuyện như thể chúng rất nghiêm trọng thì bây giờ, bạn sẽ ứng phó với chúng sáng suốt hơn vì bạn biết phân biệt rạch ròi giữa vấn đề thật sự nghiêm trọng và những vấn đề nhỏ nhặt. Nào, hãy cùng tôi khám phá bí quyết để vượt qua những chuyện nhỏ trong công việc! - Richard Carlson *** Richard Carlson sinh ngày 16 tháng 5 năm 1961 tại Piedmont, California, Mỹ, mất ngày 13 tháng 12 năm 2006 ở San Francisco, California, Mỹ. Ông là tác giả người Mỹ, nhà tâm lý, nhà diễn thuyết. Cuốn sách Tất cả đều là chuyện nhỏ (1997) của ông đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại và làm nên lịch sử xuất bản, bán chạy nhất 2 năm liên tiếp của USA Today's. Cuốn sách còn được xuất bản tại 135 quốc gia và dịch sang tiếng Latvia, Ba Lan, Iceland, Serbia và 26 ngôn ngữ khác. Tác phẩm: - Tất Cả Đều Là Chuyện Nhỏ - Vượt Lên Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc - Hạnh Phúc Bằng Bất Cứ Giá Nào  *** Đừng ngần ngại thể hiện mình là nhân viên hạnh phúc Nhiều người không cho phép bản thân được thể hiện niềm say mê, cảm giác thoải mái hay niềm hạnh phúc tại công sở. Tôi cho rằng đó là một hình thức coi nhẹ bản thân. Dường như họ cảm thấy lo ngại rằng mọi người xung quanh, từ khách hàng, đồng nghiệp cho đến sếp, sẽ nghĩ gì khi thấy vẻ bề ngoài hạnh phúc của mình. Họ kết luận rằng: “Một người thư thái không thể là một nhân viên chăm chỉ”. Lý lẽ mà họ đưa ra ở đây là: Nếu tỏ ra hạnh phúc, mọi người xung quanh sẽ cho rằng họ đang hài lòng với tình trạng hiện tại nên không còn động lực để phấn đấu hay tiến xa hơn trong công việc. Thực tế, bạn nên suy nghĩ ngược lại. Thật vô lý khi cho rằng một người hạnh phúc sẽ thiếu đi những động lực cần thiết trong công việc. Những người hạnh phúc luôn yêu thích việc họ đang làm. Và họ sẽ không ngừng thể hiện sự nhiệt tình để cải thiện hình ảnh bản thân cũng như tác phong làm việc của mình. Họ trở thành những người biết lắng nghe và tiếp thu nhanh. Thêm nữa, những nhân viên hạnh phúc còn rất sáng tạo, thân thiện cũng như làm việc nhóm rất hiệu quả. Còn những nhân viên luôn tỏ ra phiền muộn? Họ thường căng thẳng và gây trở ngại trong công việc. Họ thiếu động lực làm việc bởi bản thân họ đang héo mòn vì những rắc rối hay căng thẳng của riêng mình. Những người phiền muộn thường cảm thấy mình bị đồng nghiệp bắt nạt và môi trường làm việc thật bất công. Họ hiếm khi tự giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc mà luôn tìm cách đổ lỗi cho người khác. Thêm vào đó, do chỉ bận tâm về công việc của bản thân nên làm việc nhóm kém hiệu quả. Họ thường tỏ thái độ chống đối và hiếm khi lắng nghe ý kiến của người khác. Vì vậy, bạn đừng ngần ngại thể hiện mình là nhân viên hạnh phúc. Bí quyết này rất thích hợp để mở đầu cuốn sách này, bởi một trong những điều mà tôi muốn gửi gắm đến các bạn là chẳng có vấn đề gì khi bạn tỏ ra hạnh phúc và thư thái. Việc tỏ ra hạnh phúc sẽ đem lại cho bạn nhiều lợi ích, cả trong cuộc sống cá nhân lẫn trong công việc. Chẳng có lý nào hạnh phúc lại khiến bạn đánh mất động cơ làm việc hay trở thành một nhân viên tầm thường, lười biếng và lơ đễnh cả. Ngược lại, tôi có thể đảm bảo với bạn rằng khi bạn sống hạnh phúc, bạn sẽ cảm thấy hứng thú, sáng tạo và hăng hái hơn; nhờ đó có thể đóng góp cho công ty nhiều hơn. Bạn sẽ tìm ra được các giải pháp và cơ hội trong khi người khác chỉ nhìn thấy rắc rối. Thay vì nản lòng khi bị thua kém hay thất bại, bạn sẽ nhanh chóng vượt qua những điều đó. Với nguồn năng lượng dồi dào của tinh thần lạc quan hạnh phúc, bạn có thể làm việc trong môi trường khốc liệt nhất. Và bạn sẽ được tin cậy để trở thành người ra quyết định trong những tình huống khó khăn. Nói cách khác, bạn sẽ trở thành người dẫn đầu. Cuộc sống và công việc của bạn sẽ bước sang một trang mới tươi sáng hơn.   Mời các bạn đón đọc Vượt Lên Những Chuyện Nhỏ Trong Công Việc của tác giả Richard Carlson.
Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí - Alan Phan
Nhờ vai trò lịch sử trong 2 cuộc chiến tranh Pháp – Mỹ, Việt Nam đã có tiềm năng để nổi tiếng và tạo thiện cảm với nhân dân thế giới. Tuy nhiên sau 37 năm từ ngày chấm dứt chiến tranh, hình ảnh Việt Nam đã mờ dần trong trí nhớ của những thế hệ trẻ sau này. Sự thiếu vắng những thành quả ấn tượng trên mọi lãnh vực từ kinh tế đến khoa học, từ nghệ thuật đến thể thao đã bào mòn thương hiệu Việt Nam. Trước 1990, không mấy ai trên thế giới suy nghĩ nhiều về tài sản “mềm”, mà đo lường sự thịnh vượng thành công của 1 công ty hay 1 con người qua các đồ chơi sờ mó được như bất động sản, khoáng sản, thực phẩm, xe cộ, điện máy… Nhưng bây giờ đã khác. Tài sản mềm mang giá trị quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế tương lai. Nhìn lại Việt nam, liệu chúng ta có thể đánh giá được những tài sản mềm? Vai trò của chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào trong chiến lược kinh tế khu vực và toàn cầu? Tiến sĩ Alan Phan là doanh nhân Việt kiều đầu tiên đưa công ty tư nhân của mình lên sàn chứng khóan Mỹ vào năm 1987. Năm 1999, Tập đoàn Hartcourt của ông đạt mức thị giá lên đến 670 triệu USD, hiện nay đã tách thành năm công ty (HRCT, SRRY, ETLK, ENVI và SPXP) và tiếp tục niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ. Ông cũng là người đầu tiên giới thiệu hệ thống bán cổ phiếu qua mạng và giáo dục online tại Trung Quốc vào năm 1997. Trước đó, ông đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong các công ty đa quốc gia tại Mỹ, châu Âu và Trung Quốc. Ông cũng là cổ đông lớn tại 6 công ty đại chúng ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. *** Tiến sĩ Alan Phan là người bạn lớn, bạn tốt, bạn chân thành của tôi. Cũng theo quy luật của trời đất “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, chúng tôi gặp nhau và trở thành bạn. Tôi biết ơn vũ trụ cho chúng tôi gặp nhau để rồi đồng hành trong hàng chục chương trình dành cho doanh nhân, sinh viên và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tiến sĩ Alan Phan không chỉ là một học giả với hai bằng tiến sĩ và các chương trình giảng dạy tại đại học. Anh là một doanh nhân đáng nể. Anh lăn lộn khắp năm châu, bốn bể để tìm kiếm cơ hội và lập nghiệp, để kinh doanh và đầu tư. Anh đã hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau và ở đâu anh cũng để lại những dấu ấn đáng kể. Tiến sĩ Alan Phan và tôi có khá nhiều điểm tương đồng, nhất là tâm huyết cho thế hệ trẻ. Bất cứ chương trình nào dành cho giới trẻ, nhất là sinh viên là chúng tôi luôn bên nhau, nếu có thể. Chúng tôi đều mê đọc sách và cho rằng đọc sách là điều kiện tiên quyết để thành công. Chúng tôi nghiên cứu, thực hành và chia sẻ nhiều về tri thức. Chúng tôi luôn hướng về tương lai, về thế hệ nối tiếp chúng tôi. Tiến sĩ Alan Phan nói chuyện rất hài hước. Cách nói chuyện dí dỏm và tự nhiên của anh làm say mê lòng người, nhất là giới trẻ. Có lẽ nhờ điều này nên tôi luôn thấy anh trẻ, và đặc biệt trẻ trong tâm hồn của mình. Tiến sĩ Alan Phan rất tâm huyết với dự án “10 triệu máy tính bảng cho sinh viên”. Tôi nghe đến dự án này và cảm nhận được tâm huyết của anh. Tôi, với thâm niên 12 năm làm việc tại FPT, doanh nghiệp về công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam, nên luôn mong muốn góp sức cùng anh. Và hôm nay, khi nhận được bản thảo cuốn sách của Tiến sĩ Alan Phan, tôi rất vui và đọc liền một mạch. Cuốn sách gồm những bài viết rất sâu sắc và lắng đọng, ý nghĩa và thực tế, về những câu chuyện cũ nhưng rất mới, về quá khứ mà như nói cho tương lai, về những câu chuyện mộc mạc mà như những bài giảng quý. Tôi đưa bản thảo của anh cho vài người bạn doanh nhân đọc và ai cũng khuyên nên xuất bản ngay, càng sớm càng tốt. Thế là sau 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc, Niêm yết sàn Mỹ, Một tư duy khác về kinh tế và xã hội Việt Nam, Không có bữa ăn nào miễn phí là một cuốn sách nữa của Tiến sĩ Alan Phan được Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc và Thái Hà Books xuất bản. Tôi tin tưởng rằng những ai muốn tìm hiểu về kinh tế và quản trị, về làm giàu và đầu tư, về tri thức và ứng dụng, nhất là những ai đang hâm mộ Tiến sĩ Alan Phan sẽ có thêm một cuốn sách hay cho bộ sưu tập của mình. Đây là một cuốn sách có giá trị, bổ sung vào kho sách tri thức của Thái Hà Books – những cuốn sách không lý thuyết mà chuyên về ứng dụng, rõ ràng và hoàn chỉnh, ngắn gọn mà đầy đủ. Đây là cuốn sách lôi cuốn bạn khi đọc, là cuốn sách mà khi đọc bạn phải nghĩ. Nếu nói một vài từ, tôi xin thưa rằng “lôi cuốn và hấp dẫn”. Xin trân trọng cảm ơn các bạn của tôi tại Thái Hà Books và Nhà xuất bản đã làm việc miệt mài để cuốn sách sớm ra đời; xin chân thành chúc mừng bạn đọc đã có duyên lành được cầm trên tay cuốn sách này của bạn tôi - Tiến sĩ Alan Phan. TS. Nguyễn Mạnh Hùng  Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Thái Hà Books *** Bộ sách Góc Nhìn Alan gồm có: Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí Đừng Hoang Tưởng Về Biển Lớn Dành Tặng Doanh Nhân Việt Trong Thế Trận Toàn Cầu 42 Năm Làm Ăn Tại Mỹ Và Trung Quốc Một Tư Duy Khác Về Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam ... *** Tài sản mềm của Việt Nam Trước 1990, không mấy ai trên thế giới suy nghĩ nhiều về tài sản “mềm”, mà đo lường sự thịnh vượng thành công của một công ty hay một con người qua các đồ chơi sờ mó được như bất động sản, khoáng sản, thực phẩm, xe cộ, điện máy… Khi tôi còn làm cho hãng Eisenberg và Hartcourt vào những năm đầu mở cửa của Trung Quốc (1975-1990), chúng tôi được tiếp đón nồng hậu và được mời đầu tư vào những công ty mà chính phủ Trung Quốc cho rằng là “hòn ngọc” giá trị nhất của họ. Đó là những đại công ty có nhà máy lớn như sân vận động, hàng chục ngàn nhân công, cơ sở văn phòng bề thế… tọa lạc phần lớn tại các vùng khỉ ho cò gáy (kế hoạch tránh các phi vụ ném bom trong chiến tranh). Những doanh nghiệp nhà nước này mang rất nhiều tính chất xã hội và quản lý theo kiểu “cha chung”… nên thua lỗ thường trực. Giá trị của tài sản mềm Do đó, khi Hartcourt đem tiền đầu tư chuyên vào các công ty IT hay truyền thông, nhiều tư vấn Trung Quốc cho rằng chúng tôi ngu, đem tiền đi đổ sông Ngô. Ngay đến hôm nay, phần lớn doanh nhân Việt vẫn không nhận ra giá trị mềm của công ty họ. Khi họ chào bán hay mời mọc, họ vẫn khoe nhiều về nhà máy hoành tráng, diện tích đất bao quanh lớn, văn phòng tráng lệ ngay tại trung tâm thành phố và chiếc xe Rolls Royce họ đang lái… Tôi có đến thăm tập đoàn Foxconn ở Thâm Quyến hai năm về trước. Nhà máy hiện đại với hơn 30 ngàn nhân công, hệ thống dây chuyền sản xuất và các phòng “sạch” (clean room) rộng lớn, rất ấn tượng. Sản phẩm chính họ gia công là Iphone, Ipad, Ipod cho Apple. Trong khi Apple làm chủ bản quyền trí tuệ và thương hiệu nên kiếm lời khoảng 140 đô la mỗi đơn vị Iphone, lợi nhuận của Foxconn khoảng 7 đô la một sản phẩm. Hãng Nike có thương vụ lớn nhất toàn cầu về giày dép và trang phục thể thao. Họ không sở hữu bất kỳ nhà máy nào trên thế giới. Tài sản quý giá nhất là thương hiệu đã xây dựng suốt 50 năm qua cùng với những trung tâm thiết kế và các phòng thí nghiệm hiện đại nhất về công nghệ và sản phẩm. Những công ty có thị giá cao nhất trên thế giới đều là những công ty mà giá trị mềm vượt trội: Google, Microsoft, Facebook, Pfizer, Oracle, IBM… Không một công ty bất động sản nào nằm trong Top 100 (100 công ty hàng đầu). Tài sản mềm mang giá trị quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế tương lai. Nhìn lại Việt Nam, liệu chúng ta có thể đánh giá được những tài sản mềm? Vai trò của chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào trong chiến lược kinh tế khu vực và toàn cầu? Hãy kiểm điểm. Tài sản con người Hai yếu tố tạo mũi nhọn cho đội ngũ nhân lực là sáng tạo và năng động. Đây là phạm trù của tuổi trẻ và Việt Nam thường hãnh diện với 65% người dân dưới 30 tuổi, trên 50 triệu người. Thêm vào đó, học sinh, sinh viên Việt Nam thường tỏa sáng tại các trường trung, đại học trên toàn thế giới. Mặt khác, Việt Nam có 3,8 triệu kiều bào có kinh nghiệm nghề nghiệp cao, trong đó 32% tốt nghiệp đại học. Nói chung, so với 9 quốc gia còn lại trong khối ASEAN, Việt Nam dẫn đầu về tiềm lực nhân tài, trên cả Indonesia với gần 250 triệu dân. Tuy nhiên, sự yếu kém của nền giáo dục lý thuyết từ chương đã làm hạn chế tiềm năng này. Công ty Intel đã không tìm ra đủ 180 nhân viên trung cấp cho nhà máy 1 tỷ đô la của họ ở Thủ Đức và phải nhập khẩu một số lớn chuyên viên từ Malaysia và Philippines. Các công ty FDI khác tại Việt Nam đều có những than phiền tương tự. Thêm vào đó, tư duy sao chép nguyên bản các tư tưởng truyền thống, các công thức khoa học lỗi thời và chính sách dùng người hạn chế đã thui chột nhiều sáng kiến, nhiều đổi mới, nhiều tiến bộ. Dù Việt Nam có số lượng giáo sư, tiến sĩ cao nhất ASEAN (gần 10 ngàn người), nhưng trong các năm qua, chỉ có 5 bằng sáng chế nộp tại Âu Mỹ. Năm 2011, Singapore với 5 triệu dân đã đăng ký 648 bằng sáng chế, số lượng bằng sáng chế của Việt Nam với 90 triệu dân là zero. Thương hiệu quốc gia Các tên tuổi mà mạng truyền thông Việt không ngừng vinh danh như Vinamilk, Trung Nguyên, Kinh Đô, Bitis… đều chưa có thương hiệu tầm cỡ khu vực và thế giới trong khi việc hội nhập càng sâu vào thị trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy về thương hiệu và phải có tầm nhìn dài hạn và chiến lược marketing tổng thể. Ngay cả Vietnam Airlines đáng lẽ phải là một đầu cầu để phát triển các thương hiệu khác cho Việt Nam trên khắp điểm đến của thế giới cũng chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhờ vai trò lịch sử trong hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, Việt Nam đã có tiềm năng để nổi tiếng và tạo thiện cảm với nhân dân thế giới. Tuy nhiên, sự thiếu vắng những thành quả ấn tượng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế đến khoa học, từ nghệ thuật đến thể thao đã bào mòn thương hiệu Việt Nam. Nhật Bản phải mất gần 40 năm mới tạo dựng cho Made in Japan một thương hiệu đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm và sáng tạo. Trung Quốc cố gắng tạo một thương hiệu quốc gia suốt 35 năm qua. Tuy nhiên, lấy lại lòng tin của khách hàng vì sự mất uy tín của thương hiệu là cuộc chiến đấu quyết liệt ở Trung Quốc vì chạy theo lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp đã bất chấp cả sức khỏe và sinh mệnh của người tiêu dùng, điều ấy đã tạo ra sự phản cảm, dẫn đến sự công phẫn của công luận trong và ngoài nước với không ít sản phẩm Made in China. Nhưng nhiều doanh nghiệp Việt đã và đang đi lên bằng kinh nghiệm dày dạn, sáng kiến đột phá cùng khát vọng ở tầm chiến lược, từng bước chinh phục thị trường thế giới. Vị thế trên thị trường Mọi nền kinh tế cũng như doanh nghiệp đều có thể tạo cho mình một thế mạnh trong các thị trường ngách, mà không cần đến các yếu tố cạnh tranh trên. Thí dụ, Thụy Sĩ hay Singapore không có một nền tài chính lớn mạnh như Mỹ, Anh… cũng không có đội ngũ hay công nghệ gì sáng tạo hơn; nhưng họ biết biến quốc gia nhỏ bé của họ thành một trung tâm tài chính thế giới qua chính sách mở rộng mà kín đáo, hiệu năng và minh bạch. Việt Nam có thể tìm một lợi thế cạnh tranh theo phương thức trên. Dù công nghiệp Việt không thể sánh với Trung Quốc trên rất nhiều phương diện, nhưng các nhà sản xuất Hàn, Nhật đã đầu tư nhiều vào Việt Nam để tránh rủi ro khi bỏ tất cả trứng vào cái giỏ Trung Quốc. Về du lịch, dù không thể cạnh tranh với Thái Lan hay ngay cả những quốc gia nhỏ như Singapore và Malaysia, Việt Nam có thể đào sâu vào một chiến lược đặc trưng như sinh thái, thám hiểm hay hưu trí để tạo thị trường. Hai ngành nghề tôi tin là Việt Nam có thể dẫn đầu tại ASEAN nếu biết phát triển đồng bộ và sáng tạo. Thứ nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Tạo ra những sản phẩm xanh, sạch, an toàn được đảm bảo bởi những cơ quan kiểm phẩm nổi danh thế giới là bước đầu. Việc giáo dục huấn luyện cho các nông dân những công nghệ mới, những quy trình dùng IT để điều hòa và tiếp liệu, sử dụng đội ngũ tiếp thị trẻ và bén nhậy từ thành phố có thể tạo nên một làn sóng thay đổi bộ mặt của nông thủy sản Việt Nam. Người tiêu dùng tại các nước Á Châu, nhất là tại các nơi có thu nhập cao như Hồng Kông, Nhật, Singapore… đang có nhu cầu rất lớn về an toàn thực phẩm. Thứ hai là ngành IT (công nghệ thông tin) tại các thành phố lớn bao quanh bởi các trường đại học tiên tiến và hiện đại. Giáo trình học phải thay đổi và các trung tâm IT phải có những cơ sở hạ tầng tối tân nhất để giúp tính sáng tạo của đội ngũ phát huy đúng mức. Trên hết, luật về bản quyền trí tuệ phải được thắt chặt và nghiêm túc thực thi trên mọi cấp bậc của thị trường. Văn hóa gia đình và xã hội Người Việt Nam gắn bó thân tình chặt chẽ với gia đình, làng xóm và đất nước, nên sự đùm bọc và tiếp sức tạo một thế đoàn kết mạnh hơn chủ nghĩa cá nhân của Âu Mỹ. Nhưng đây cũng có thể là một bất lợi vì tầm nhìn bị giới hạn, tính cộng đồng rất cao và quá gần nhau thì cũng dễ gây ra xích mích, mâu thuẫn. Một mặt khác, một bộ phận thanh niên trong xã hội đang bị tha hóa về đạo đức và xuống cấp tinh thần trầm trọng, tinh thần công dân trở nên tệ hại với những vấn nạn về tham lam, vô cảm, thói gây ô nhiễm và tư duy ích kỷ. Nói tóm lại, cơ hội để tạo dựng những tài sản mềm cho Việt Nam hiện diện trên nhiều lĩnh vực và tiềm năng của các tài sản này có thể là cú hích đưa kinh tế Việt bắt kịp các láng giềng giàu ở ASEAN trong một hay hai thập kỷ sắp đến. Ba đòi hỏi quan trọng nhất trong quy trình đột phá này: 1. Tư duy của đại đa số người dân phải thay đổi để hiểu rằng cái giá phải trả cho sự thịnh vượng tương lai là can đảm vứt bỏ ngay lập tức những thói quen tai hại, những tư tưởng lỗi thời và những định kiến sai lầm về kinh tế, xã hội và văn hóa. Một cuộc đổi mới toàn diện từ trí tuệ của trí thức, nông dân, công nhân, trẻ già, giàu nghèo là ưu tiên số một. 2. Thành phần ưu tú và đang được hưởng thụ những thành quả từ sự thay đổi cơ chế phải nắm lấy cơ hội để tạo cho doanh nghiệp mình đang làm chủ hay làm công lĩnh hội được những kiến thức, công nghệ hiện đại, những kỷ cương đạo đức dài hạn, những sáng tạo đột phá trên thị trường và phải bắt đầu xây dựng thương hiệu bền vững. 3. Ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp là nền tảng quan trọng cho việc hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và vận hành thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hãy “cởi trói” cho người dân để họ tự lực cánh sinh và đừng áp đặt thêm những gánh nặng không cần thiết qua chính sách thuế khóa công bằng và thủ tục hành chính đơn giản, minh bạch. 21 tháng 09 năm 2012 Mời các bạn đón đọc Không Có Bữa Ăn Nào Miễn Phí của tác giả Alan Phan.
Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht
Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.
Mặc Kệ Thiên Hạ - Sống Như Người Nhật - Mari Tamagawa
Cuốn sách gối đầu giường cho những người hay lo lắng, sợ hãi và luôn thấy mình kém may mắn Dành cho những ai muốn được sống là chính mình, cuộc đời của mình, tuổi trẻ của mình. Đã đến lúc bạn nên dừng tìm kiếm sự an ủi ở người khác, hoặc chờ đợi sự giúp đỡ từ một ai đó. Bởi an ủi hay giúp đỡ về mặt cảm xúc đôi khi giống như con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp bạn chống đỡ lo âu hay muộn phiền nhất thời, nhưng lại đẩy bạn chìm sâu hơn vào những cảm xúc tiêu cực đó. Giống như một đứa trẻ khi vấp ngã, bạn mong đợi một sự xoa dịu từ người lớn, mà quên mất rằng sự “hỗ trợ” ấy chỉ càng khiến bạn mãi chẳng thể nào “biết đi”. Và Mặc hệ thiên hạ, sống như người Nhật chính là cuốn sách dành cho những người muốn đi bằng chính đôi chân mình. Dành cho những người muốn gạt bỏ những nỗi sợ bởi chính tay mình, chứ không cầu cứu bất kì sự trợ giúp nào. Hãy thử sống một ngày “mặc kệ thiên hạ”, mặc kệ những lời nhận xét từ người khác. Hãy thử sống một ngày bạn cho phép mình từ bỏ, từ bỏ những thứ khó khăn, ngổn ngang lo lắng. Hãy thử sống một ngày bạn trân trọng mọi cung bậc cảm xúc bên trong con người bạn. “Nếu bạn có thể thẳng thắn đối diện với bản thân và từ bỏ những thứ đang giam cầm bạn, bạn sẽ trở thành con người có chính kiến, biết quý trọng hơn và đặt những cảm xúc của bản thân lên trên mọi ánh nhìn của người khác.” Mari Tamagawa khuyến khích mỗi người nên sống thật và ngưng phán xét bản thân. Thật lãng phí khi bạn để cuộc đời mình phải trải qua những tháng ngày khổ sở chỉ vì cái nhìn của người khác. Cũng đừng tin vào những “chiếc phao” cứu cánh mà bạn nhầm tưởng rằng sẽ giúp mình rũ bỏ được mọi lo lắng. Tổn thương tâm lí, áp lực hay nỗi sợ… của bản thân, chúng ta phải đối mặt với nó, chiến đấu và tự chữa trị cho chính mình. Đã đến lúc bạn cần phải nói lời tạm biệt với cuộc sống đầy âu lo đang rút cạn năng lượng của bạn. Cuộc đời của bạn không thuộc về ai khác, cuộc đời của bạn thuộc về bạn. Tháng 3 này hãy để “Mặc kệ thiên hạ, sống như người Nhật” giúp bạn bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời mang tên chính mình. *** 1:Nỗi buồn của tất cả mọi người thường bắt nguồn từ một người khác "Bạn mệt lả rồi đúng không? Để chúng tôi giúp bạn thư giãn" Có lần đang đứng đợi xe buýt trong một dịp đến thăm thành phố nọ, tôi bất chợt bị thu hút bởi những dòng chữ trên tấm biển quảng cáo. Hình như đó là quảng cáo cho một thiết bị bán tại siêu thị ở địa phương. Trên tấm biển quảng cáo là một bức tranh phong cảnh vô cùng yên bình. Một thiếu nữ nằm dài thư giãn bên hàng ngàn bông hoa ngát hương với vẻ mặt vô cùng thoải mái. Khoảnh khắc nhìn bức tranh, tôi chợt nhận ra lâu nay mình chẳng thấy thanh thản gì cả, tôi nảy ra ý đinh đến cái chỗ kia để ai đó giúp tôi thả lỏng gân cốt, dù chỉ một lúc thôi cũng được. Hai người phụ nữ khoảng 30 tuổi đứng chờ xe buýt ngay cạnh tôi có vẻ cũng chú ý đến tham biển quảng cáo này. "Nghe hay phết nhỉ? Mình cũng muốn được thư giãn! " "Phải khoảng đấy? Ngày nào mình cũng bị stress, thật sự rất mệt mỏi " Cuộc nói chuyện nghe qua chẳng có điều gì bất thường, nhưng thực ra, nhũng lo lắng của họ dường như chẳng thể nào giải quyết được.trước mắt họ là sự tồn tại của một bẫy rập lớn. Ảnh hưởng của sự "doa xịu"đến mỗi người cũng gần giống như sự an ủi tạm thời.Hiểu được điều đó, ta sẽ thấy được hiểu quả thực sự của "xoa dịu" trong việc giúp thay đổi tâm trạng con người. Phần lớn những người luôn tìm kiếm sự an ủi từ ai đó đều mong được giải thoát khỏi nỗi phiền muộn. Họ hy vọng sự xoa dịu giống như một loại ma thuật giúp họ giải quyết tất cả mọi thứ. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng, nếu muốn thay đổi tình trạng bế tắc của mình bằng cách đó thì họ đã sai lầm nghiêm trọng. Tôi làm việc ở hiroshima với tư cách một nhà tâm lí học. Hiện tại tôi đã thành lập công ty tư nhân phi lợi nhuận nhưng trước đây tôi từng làm việc cho lực lượng phòng vệ mặt đất nhật bản.tôi là chuyên viên tâm lí hiện trường đầu tiên của lực lượng phòng vệ mặt đất,làm việc cho bộ Quốc Phòng Suốt 5 năm, tôi trị liệu tâm lí cho những binh sĩ chịu nhiều áp lực. Họ nhận thức được tình trạng nguy hiểm đe doạ tính mạng mỗi ngày. Thực ra, trước khi học tâm lí và trở thành tư vấn viên,tôi từng là một người lính tự vệ vô cùng bình thường phục vụ cho quân đội 8 năm, sau khi tôi tốt nghiệp cấp 3.hơn nữa,tôi bị số mệnh khắc nghiệt đùa giỡn, trải qua bạo lực gia đình mắc chứng trầm cảm, ly hôn và bị lừa. Đến khi nhận ra điều đó thì tâm hồn đã chịu không biết bao nhiêu tổn thương và tan vỡ, không cần như thuở ban đầu. Có lẽ do bản thân từng trực tiếp trải nghiệm những điều ấy cho nên trong khoảng thời gian làm việc tại quân đội, tôi khá gần gũi với những người lính. Trong lực lượng phòng vệ toàn quốc, tôi vô cùng tự hào khi binh sĩ tín nhiệm luôn đạt top đầu và tỉ lệ thành công phục chữ lên đến 90%,trở thành một phòng tư vấn "phải xếp hàng mới có thể vào"với khoảng 2000 buổi trò chuyện/hội thảo. Ở vị trí này. Tôi từng chứng kiến nhiều người mang trong mình những nỗi niềm khác nhau. Có những người tự nhiên cảm thấy khó chịu mà không biết nguyên nhân tại sao,cũng có những người chìm trong đau khô vì cuộc sống không như mong muốn. Tuy mức độ mỗi người khác nhau nhưng nỗi phiền muộn của họ lại gần như tương đồng. Mỗi người đều gặp rắc rối trong những mối quan hệ xã hội, hay có thể nói, mối quan hệ giữa bản thân và "một người khác".Người này có thể là đồng nghiệp, cấp trên, người yêu hoặc bạn đời, thậm chí là cha mẹ hay người đã khuất."Hầu hết những vấn đề mọi người bị bận tâm đều bắt nguồn từ một người khác. Những người tìm đến tôi đều bị quấn bởi nỗi lo âu và muốn nhah chóng được giải thoát những đau đớn khổ sở ấy. Tuy nhiên càng muốn được xoa dịu thì họ lại càng bị xoáy sâu hơn vào nỗi đau khổ. Hai người phụ nữ đứng chờ xe buýt cùng tôi khi đoá có lẽ cũng vậy dựa dẫm vào sự xoa dịu. Để thoát khỏi nỗi đau khổ tâm,họ chọn cách đi tắm onsen(suối nước nóng) hoặc tìm kiếm dịch vụ massage. Nếu muốn thay đổi tâm trạng và thư giãn thì điều này hoàn toàn tốt,nhưng nếu muốn giải quyết rắc rối hay thoát khói đau khổ thì đây không phải phải phương án tối ưu. Tôi không khuyến khích bạn lựa chọn phương án này. Càng muốn được an ủi thì bạn càng không đạt được điều đó. ... Mời các bạn đón đọc Mặc Kệ Thiên Hạ - Sống Như Người Nhật của tác giả Mari Tamagawa.