Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức - Lester C. Thurow
Lester C. Thurow là Giáo sư Khoa quản trị và kinh tế của Học viện kỹ thuật Massachusetts ( MIT) từ nǎm 1968. Từ nǎm 1987 đến nǎm 1993 ông là Trưởng khoa Quản trị của MIT. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như : The Zero - Sum Society, Head to head và The Future of Capitalisme đều thuộc loại " bestsellers" Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức... Những cá nhân, những tập đoàn và tất cả các quốc gia phải làm gì để có thể thành công trong nền kinh tế mới mẻ này của thế kỷ 21? Thay vì chú ý đến những vấn đề tiêu thụ, Lester C. Thurow thuyết phục chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực kiến thức cơ bản, giáo dục và cơ sơ hạ tầng. Chỉ bằng cách công khai xây dựng sự giàu có cho cộng đồng, chúng ta mới có thể tối đa hoá các vận hội để làm giàu cho cá nhân. *** Ở mặt trái của tờ giấy bạc một đô la có hình một kim tự tháp chưa hoàn tất, trên đỉnh có một con mắt sáng long lanh, lấy từ mặt trái đã bị quên lãng của đại huy hiệu Hiệp Chủng Quốc và do Tổng thống Roosevelt cho đặt lên tờ đô la vào năm 1935, giữa cuộc đại khủng hoảng khi mà sự giàu có của Hoa Kỳ đang giảm mạnh. Kim tự tháp được sử dụng làm biểu tượng cho sức mạnh và sự trường tồn kinh tế và chính đặc điểm chưa hoàn tất cũng nhằm biểu hiện cho sự giàu có ở Hoa Kỳ ngày càng tăng. Người Mỹ cần đặt hy vọng vào một nền kinh tế đang sụp đổ sẽ được thay thế bằng một nền kinh tế sẽ tồn tại mãi mãi, những ngày tốt đẹp nhất đối với Hoa Kỳ đang ở phía trước, không phải ở sau lưng. Một câu ghi bằng tiếng La tinh (Annuit Coeptis) cho dân Hoa Kỳ biết rằng Thượng đế ủng hộ công việc của họ. Một câu thứ hai (Novos Ordo Seclorum) tiên đoán một trật tự giàu có mới của Hoa Kỳ. Như vậy, trong những ngày đen tối nhất về mặt kinh tế, người Mỹ vừa mượn biểu tượng thành công bền vững của nhân loại, vừa cầu nguyện Thượng đế hỗ trợ. Đằng sau con mắt long lanh, một biểu tượng của sự hướng dẫn thiêng liêng, là chóp chưa hoàn tất của kim tự tháp cần phải xây dựng. Người Mỹ có thể nhìn thấy cần phải làm gì để gặt hái thành công. Họ cần phải khẳng định mình là những người kiến tạo. Ngày nay, người châu Á nhìn thấy thế giới cũng giống như người Mỹ thấy vào những năm 1930. Sự phát triển kinh tế nhanh đã bị phá vỡ. Sự giàu có của cá nhân, của doanh nghiệp và của xã hội nhanh chóng biến mất. Thị trường chứng khoán của Indonesia giảm trên 80%. Điều mà mới đó tưởng chừng như một sức mạnh kinh tế không gì ngăn chặn nổi và sẽ khống chế thế kỷ 21 lại giống như một sự đổ vỡ vĩnh viễn. Sự phát triển kinh tế có vẻ vững như đá bây giờ lại như băng tuyết đang tan chảy. Mô hình tăng trưởng kinh tế châu Á bằng con đường xuất khẩu đã đem hy vọng lại cho hầu hết thế giới thứ ba là sẽ thu ngắn cách biệt kinh tế với các nước đã phát triển, nay đang tả tơi. Những nước thành công đã sụp đổ. Sự tan rã tài chính châu Á đe dọa nền tảng thành công tại các nước trong thế giới thứ ba như Brasil. Vốn và công nghệ từ các nước thuộc thế giới thứ nhất đổ vào nay lại ra đi và các nhà dự báo đánh giá thấp viễn cảnh kinh tế trong tương lai. Con đường cũ đã bế tắc, đâu là con đường đúng để tích tụ giàu có? Lục địa châu Âu nhìn thế giới trong đó mô hình ưa chuộng - nền kinh tế thị trường xã hội - nơi mà phúc lợi được trả cao và nhà nước can thiệp mạnh để phân phối rộng rãi sự giàu có không còn thích hợp. Trong khi có những biến động lên xuống mang tính chu kỳ nhưng xu hướng lâu dài về thất nghiệp ở châu Âu không ngừng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp 2 chỉ số chưa bao giờ thấy từ những năm 1930 nay được xem như tình trạng thường xuyên. Một châu lục nghĩ rằng có thể đảm bảo việc làm cho công dân của mình nay mới thấy là không thể làm điều đó. Các nhà chính trị đều hứa là sẽ làm điều gì đó nhưng mọi người biết là sẽ chẳng làm gì. Trong nền kinh tế tri thức nhân tạo mới của thế kỷ 21, toàn châu Âu gần như không có lãnh đạo công nghiệp thành công. Công ty sản xuất máy tính địa phương cuối cùng đã bán cho Đài Loan năm 1998. Châu Âu nói đến việc đuổi theo nhưng biết rằng khoảng cách công nghệ giữa họ và Hoa Kỳ ngày càng tăng. Châu lục đã từng sản sinh ra văn hóa nay phải nhập từ Hoa Kỳ. Biểu tượng tương tự như “Intel Inside” có thể được in trên hầu hết những gì mới tại châu Âu. Việc tái cấu trúc, thu gọn và đưa sản xuất ra ngoại biên được xem là mô hình kinh tế tư bản kiểu Hoa Kỳ cần phải tránh xa lại đến. Tại châu Âu, châu Á và phần còn lại của thế giới thứ ba, nỗi băn khoăn kinh tế lên cao. Tất cả đều mong muốn sức mạnh và sự bền vững của kim tự tháp thể hiện trên tờ một đôla của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không nằm trong những nước có mối lo lắng cao độ này. Hoa Kỳ đã phục hồi! Trong những năm 1990, Hoa Kỳ thành công nhất trong thế giới các nước công nghiệp. Khoảng cách kinh tế giữa Hoa Kỳ và các nước còn lại của thế giới lại gia tăng. Mức gia tăng 2.000 tỷ đô la tổng sản phẩm nội địa trong thập kỷ 1990 của Hoa Kỳ cao hơn tổng sản phẩm nội địa của tất cả các nước trừ Nhật Bản. Thay vì chựng lại hay sụt giảm trước tình hình khủng hoảng ở châu Á, thành tích kinh tế của Hoa Kỳ trong năm 1998 lại đạt tỷ lệ tăng trưởng 4,3%. Thất nghiệp ở mức thấp nhất trong lịch sử và không có lạm phát. Người giàu nhất hành tinh một lần nữa lại là người Mỹ. Sự giàu có của các vua dầu lửa (Trung Đông) đã bị lu mờ. Số tỷ phú người Mỹ đã có hàng trăm. Các doanh nghiệp Mỹ đã chiếm lại vị trí hàng đầu. Trong năm 1990, chỉ có hai doanh nghiệp Mỹ trong số 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới, con số này là 9 vào năm 1998. Tương tự, vào đầu thập kỷ 1990, không có một ngân hàng Mỹ nào trong số 15 ngân hàng lớn nhất, nhưng vào cuối năm 1998 đã có 9 ngân hàng Mỹ lọt vào danh sách. Ưu thế bên dưới đỉnh cao cũng rất lớn. Hai mươi trong số 25 doanh nghiệp to nhất hiện nay là của Mỹ. Nếu không có xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang tăng trưởng, một sự suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 1999. Sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ đã được phục hồi và tái thống nhất với quyền bá chủ quân sự của họ. Đây là thời kỳ vàng son của Hoa Kỳ. Nhưng ngay bên trong Hoa Kỳ cũng có những ưu tư. Một nền kinh tế đang tăng trưởng nhưng cũng có những dấu hiệu đi xuống mạnh mẽ đối với nhiều người. Rất nhiều người Mỹ tin rằng con cháu của họ sẽ có mức sống thấp hơn họ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi mà 2/3 lực lượng lao động có mức lương thực tế thấp hơn mức lương vào năm 1973. Những gì mà họ tin rằng sẽ xảy đến cho con cháu họ cũng đang đến với họ. Thành phần trung lưu đang giảm sụt. Một ít giàu lên nhưng phần lớn đi xuống. Cũng không đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những gì đang xảy ra đối với lương của thành phần thợ trung cấp nhưng cũng rất đáng ngại. Các trang thông tin tài chính hàng ngày đều cho thấy thị trường chứng khoán tăng mạnh nhưng thu nhập bình quân của các hộ gia đình lại giảm thay vì tăng lên và tài sản tài chính của họ dưới mức 10.000 đô la. Số 20% người nghèo nhất có số nợ cao hơn tài sản của họ. Trong khi kinh tế đang tăng trưởng mạnh, hàng năm có đến 500.000 đến 700.000 công nhân bị các công ty đang làm ăn có lãi cho nghỉ việc - trong năm 1998 có đến 680.000 công nhân. Những công nhân bị cho nghỉ việc trên 55 tuổi sẽ khó tìm được việc làm tốt. Những công nhân dưới 55 tuổi phải chấp nhận mức lương thấp hơn để được thu dụng lại. Dự kiến cho một nghề đem lại cuộc sống thoải mái suốt đời đã trở thành một bí ẩn lớn - ngay cả đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Làm thế nào để có sự thành đạt bền vững? Tìm đâu ra sự an toàn về mặt kinh tế? Chúng ta rất thích thú nhìn những nghệ sĩ biểu diễn đi dây trên cao nhưng thật sự không thích thú chút nào nếu mình là người đi trên sợi dây đó. Cũng như trong thời kỳ Đại khủng hoảng, tốt hơn chúng ta nên ở vị trí đỉnh cao của kim tự tháp biểu hiện sự giàu có và sẽ mãi mãi bền vững. Đáng lo ngại nhất là năng suất giảm gấp ba lần kể từ những năm 1960. Vì sau cùng, chính sự gia tăng năng suất (khả năng tạo nhiều sản phẩm hơn trong khi sử dụng ít nguyên liệu hơn) sẽ thúc đẩy việc tạo giàu có thật sự. Những biến động tạm thời trên thị trường chứng khoán có thể đem lại giàu có theo thị trường trong ngắn hạn nhưng nếu không có sự gia tăng mạnh về năng suất sẽ không tìm được của cải của sự giàu có về lâu về dài. Con mắt long lanh trên đỉnh của kim tự tháp trên tờ 1 đôla làm người ta không quan tâm đến phần đáy của nó. Cũng thế, sự sáng chói của mức độ giàu có nằm ở nấc cao nhất trên thang phân bổ giàu có - những tỷ phú mới - làm lu mờ phần đáy của kim tự tháp, là nền tảng của chính sự giàu có. Nhưng cho dù được nằm ở đỉnh là cả một sự hấp dẫn, kim tự tháp thật được xây dựng từ đáy lên chứ không phải từ đỉnh xuống. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sáu công nghệ mới - vi điện tử, máy tính điện tử, viễn thông, nguyên liệu nhân tạo mới, rô bốt và công nghệ sinh học - đang tác động qua lại tạo ra một thế giới kinh tế mới và rất khác biệt. Những tiến bộ trong khoa học cơ bản làm nền tảng cho 6 lãnh vực này đã tạo ra những công nghệ đột phá làm nẩy sinh hàng loạt công nghiệp vừa to lớn, vừa mới mẻ: máy tính điện tử, mạch bán dẫn, tia la de... Những công nghệ này tạo cơ hội để cải tiến nhiều ngành công nghiệp cũ: Mua bán qua mạng thay thế mua bán thông thường; điện thoại di động rải khắp nơi. Nhiều sự việc mới có thể thực hiện được: cây và con biến đổi gien xuất hiện; một nền kinh tế toàn cầu hóa lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại trở thành hiện thực. Nói một cách tượng hình, đây là thời kỳ công nghiệp nhân tạo từ tri thức. Nền tảng cũ của sự thành công đã biến mất. Đối với hầu hết lịch sử nhân loại, nguồn gốc của sự thành công là sự kiểm soát tài nguyên thiên nhiên - đất đai, vàng bạc và dầu mỏ. Bất chợt lời giải là “tri thức”. Người giàu nhất thế giới, Bill Gates, không sở hữu bất kỳ vật hữu hình nào - không đất đai, không vàng bạc, không dầu mỏ, không nhà máy, không qui trình công nghệ, không quân đội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người giàu nhất chỉ sở hữu tri thức. Tri thức là cơ sở mới của sự giàu có. Điều này chưa bao giờ là một sự thật. Trước đây, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có của mình, họ nói về quyền sở hữu nhà máy, máy móc thiết bị và tài nguyên thiên nhiên. Trong tương lai, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có, họ sẽ nói về sự kiểm soát tri thức. Ngay cả ngôn ngữ để thể hiện sự giàu có cũng thay đổi. Người ta có thể nói về sở hữu thiết bị hay tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm về “sở hữu” ở đây rất rõ ràng. Nhưng người ta không thể nói sở hữu tri thức. Sở hữu tri thức là một khái niệm rất lỏng lẻo. Người có tri thức không thể trở thành nô lệ. Chính xác là làm sao để sở hữu tri thức mới thực sự là vấn đề cốt lõi trong nền kinh tế tri thức. Sự biến đổi hiện nay thường được mô tả một cách sai lầm là cuộc cách mạng thông tin hay là một xã hội thông tin. Nó còn vượt xa hơn thế nữa. Thông tin nhanh hơn hay rẻ hơn tự nó chẳng có giá trị gì. Thông tin chẳng qua là một trong những yếu tố đầu vào mới sử dụng để xây dựng một nền kinh tế khác biệt trong đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ rất khác biệt. Thông tin nhiều hơn cũng chẳng có gì quan trọng hơn những loại nguyên liệu mới, những thực thể sinh học mới, hay những loại rô bốt mới trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức mới này. Xã hội cần phải tổ chức lại thế nào để tạo môi trường thúc đẩy làm giàu dựa trên tri thức? Điều gì cần thiết để làm cho các nhà doanh nghiệp thay đổi và làm cho sự giàu có nẩy nở? Làm thế nào để cho sự giàu có dựa trên tri thức phát sinh? Đòi hỏi kỹ năng gì? Tài nguyên thiên nhiên và môi trường tham gia vào nền kinh tế tri thức mới này thế nào? Vai trò của việc chế tạo công cụ trong nền kinh tế tư bản tri thức là gì khi mà các công cụ vật chất không còn chiếm vị trí trung tâm của hệ thống? Qui trình nào để sự giàu có có thể mua bán được của tư nhân xuất hiện? Cơ bản là làm thế nào sử dụng “tri thức” để xây dựng một kim tự tháp giàu có mới cho cá nhân, cho công ty và cho xã hội? Đây là những câu hỏi cần phải trả lời nếu muốn thành công trong nền kinh tế tri thức. Điều quan trọng về bất kỳ kim tự tháp nào không phải được khám phá bằng cách trèo lên đỉnh mà chính là các đường hầm dẫn đến các kho tàng ẩn giấu bên trong. Làm thế nào để lợi dụng các công nghệ mới để cải tiến sản xuất các sản phẩm cũ và tạo ra các sản phẩm cải tiến mới? Kỹ thuật xây dựng mới là gì để đưa các tảng đá to hơn (năng suất cao hơn) vào vị trí? Làm thế nào chúng ta có thể sử dụng các công nghệ mới này để xây dựng các kim tự tháp giàu có to hơn và cao hơn trong tương lai? Xây dựng một kim tự tháp giàu có bền vững đòi hỏi trước hết chúng ta phải tìm hiểu khung cảnh kinh tế mới đang hình thành. Nằm đâu đó trong khung cảnh này sẽ là một kim tự tháp biểu hiện sự giàu có mới. Một khi đã khám phá ra nó, các tính chất khảo cổ của nó cần phải được thông hiểu tường tận. Nó đã được xây dựng thế nào? Đâu là các lối vào? Thiếu các thông tin này, các nhà săn tìm kho tàng không thể tìm thấy của cải kinh tế chôn vùi bên trong. Chỉ sau khi là những nhà khám phá, nhà khảo cổ và những người săn lùng kho tàng, con người mới có thể trở về với công việc thực của mình - học cách xây dựng cho bản thân, cho công ty và cho xã hội của chúng ta một kim tự tháp biểu tượng cho sự giàu có vĩ đại, mới và bền vững. Mời các bạn đón đọc Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức của tác giả Lester C. Thurow.
Thịnh Vượng Tài Chính Tuổi 30 Tập 2 - Go Deuk Seong
Là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và kỹ năng quản lý tài chính từ bước đi của một nhà hoạch định tài chính nổi danh của ngân hàng SC First Hàn Quốc được tập hợp trong cuốn sách này. “Thịnh vượng tài chính tuổi 30 – tập 2” chú trọng đến những bước chuẩn bị về tài chính, và sự chuẩn bị đó được áp dụng vào đời sống thực tế như thế nào. Có thể nói cuốn sách này là bản thực hành của con người trước những việc cần chuẩn bị cho cuộc sống sau này, những hiện thực khốc liệt, tính cấp bách, tính tất yếu và mức độ cẩn trọng của công việc chuẩn bị cho những tháng năm về hưu. Đại diện Bảo hiểm nhân thọ AIG – Kim Seongil đã nhận định: “Nếu được đọc cuốn sách này sớm, con đường đến thành công của bạn sẽ bằng phẳng hơn. Đây không phải là cuốn sách dạy làm giàu hay liệt kê cách quản lý tài chính đơn thuần. Thông qua việc mô tả kinh nghiệm của năm nhân vật đang làm những công việc bình thường, cuốn sách sẽ lần lượt giảng giải về những vấn đề mà bạn gặp phải trong từng giai đoạn cuộc đời và hướng dẫn bạn cách quản lý tài chính trong giai đoạn đó. Các bạn thanh niên độ tuổi đôi mươi mới bước vào đời, các bạn độ tuổi ba mươi đang trong giai đoạn lập nghiệp, những người độ tuổi bốn mươi với vai trò người chủ gia đình, cùng những công chức độ tuổi năm mươi chuẩn bị về hưu…” Tiền bạc từ xưa đến nay luôn là vấn đề khiến con người suy nghĩ và phiền muộn nhiều nhất. Không sử dụng một mệnh lệnh thức, mà nhờ cách hành văn theo lối tiểu thuyết, tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen, tác giả khéo léo mô tả cuộc sống của con người với việc chi tiêu cá nhân trong ngày. Từ đó nhẹ nhàng truyền tải đến người đọc những nguyên tắc ý nhị, sâu xa nhất, những ý tưởng và nguồn năng lượng tràn đầy. Chỉ đơn thuần là lời giảng, là bài học của Giáo sư Masu mà như một phép thần thông những khó khăn trong quá trình quản lý tài chính được gỡ bỏ một cáh nhẹ nhàng, và mục tiêu về một cuộc sống thịnh vượng trong tương lai không chỉ còn là mơ ước đối với mỗi người nữa. Và theo chính tác giả Go Deuk Seong thì “mục đích cuối cùng của quản lý chi tiêu là đạt đến sự tự do về mặt tài chính, cả đời không phải đau đầu vì tiền, lúc nào cần đến tiền là có để dùng ngay. Đến lúc về hưu chúng ta cũng cần phải được tự do về tài chính, chỉ có như vậy ta mới ứng phó được với những vấn đề sau khi về hưu. Cần biết rằng khoản tiền 1.000 NDT ta đã tiêu khi còn trẻ nếu để dành đến lúc về hưu sẽ có ý nghĩa và tác dụng lớn lao hơn rất nhiều”. Như một con ong chăm chỉ, như một chú kiến cần mẫn, siêng năng, tích lũy từng chút mật ngọt cho đời. Công việc vất vả và hi sinh của ngày hôm nay sẽ được trả thích đáng cho một tương lai tươi sáng, an bình và thịnh vượng sau này. Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có thời gian là thước đo chính xác nhất kết quả sự nghiệp của mỗi người. Thành công và thịnh vượng hay không, con đường làm giàu 30 năm hay thậm chí chỉ mất hơn 10 năm cũng đều là con đường do bạn phác thảo, vẽ ra và đi qua. “Thịnh vượng tài chính tuổi 30 – tập 2” – sẽ là hành trang, là bản thiết kế chi tiết cho cuộc sống hạnh phúc của bạn mai sau. *** Những bước chuẩn bị hôm nay sẽ quyết định tương lai 30 năm sau Khi còn nhỏ, cha mẹ thường dạy chúng ta rằng: “Con hãy học tập chăm chỉ, đạt điểm cao, thi đỗ trường đại học danh tiếng, con sẽ tìm được công việc với mức lương cao và đãi ngộ tốt”. Ngày nay, bạn tốt nghiệp đại học, bắt đầu đi làm, phấn đấu trong công việc, ngày nghỉ đi du lịch cùng bạn bè, như vậy cũng là tạm ổn. Nhưng 30 năm sau thì sao? Bạn đã bao giờ mường tượng về cuộc sống của mình 30 năm sau? Bạn sẽ cầm tay người bạn đời của mình ngắm mặt trời mọc trên biển Aegean Hy Lạp, hay ngồi ăn cháo trắng trong ngôi nhà nhỏ bé của mình? Mỗi người chúng ta đều sẽ già đi, nhưng không ai mong muốn thu nhập hôm nay kém hơn hôm qua; ai cũng mong mình sống lâu, và không muốn phải chịu cảnh buồn tủi lúc tuổi già. Bạn đã bao giờ tính toán thử xem 30 năm sau, với vai trò làm cha mẹ, bạn sẽ có bao nhiêu tiền để cho con ăn học, kết hôn? Sau khi nghỉ hưu bạn sẽ duy trì mức sống như hiện nay bằng cách nào? Bạn cần bao nhiêu tiền để làm việc đó? Giả sử hiện nay bạn 30 tuổi, bạn sẽ nghỉ hưu năm 55 tuổi, và sẽ mất vào năm 80 tuổi. Hiện nay chi phí tối thiểu cho cuộc sống ở thành phố và bảo hiểm y tế là 300.000 Won/tháng, tạm tính tỷ lệ lạm phát là 4%, 25 năm sau nếu muốn duy trì mức sống như hiện nay cần phải có 800.000 Won/tháng. Cuộc sống sau khi nghỉ hưu trong 25 năm tối thiểu cần 800.000 Won/tháng x 12 tháng x 25 năm = 240.000.000 Won. Nếu thêm 200.000 Won chi phí du lịch và thư giãn tối thiểu, thì sẽ phải thêm 160.000.000 Won nữa, tổng cộng là 400.000.000 Won. 400.000.000 Won mới chỉ là chi phí cho bản thân, tổng chi phí cho hai vợ chồng tính sơ sơ cũng lên đến 800.000.000 Won. Hơn nữa, nếu có sức khỏe, bạn còn có thể sống đến 85 tuổi thậm chí là 90 tuổi. Thêm vào đó là những chi phí không thể tính trước dành để chữa trị những căn bệnh của tuổi già. Do vậy mà số tiền cần thiết để dưỡng già sẽ có thể lên tới 1.000.000.000 Won hoặc cao hơn nữa. Nhưng tôi sẽ tiết lộ cho bạn biết thời gian để chúng ta kiếm ra số tiền đó. Theo giả thiết trên, nếu bạn đi làm năm 25 tuổi, thì thời gian làm việc là 30 năm, thời gian nghỉ hưu 25 năm, cũng có nghĩa là trong 30 năm đi làm bạn sẽ phải chuẩn bị 800.000.000 Won, trong đó chưa bao gồm khoản tiền mua nhà, mua xe và nuôi con cái. 30 năm, 800.000.000 Won, tôi dám chắc rằng bạn đang choáng váng với những con số này. Thực ra, bạn không cần phải hoang mang đến vậy, bởi vì nhà hoạch định tài chính hàng đầu châu Á đã tìm ra đối sách cho bạn, giúp bạn vượt qua bức tường ngăn cách giữa nghèo khó và giàu sang! Hãy cùng tôi xem xét bảng tính sau: Mỗi tháng 200.000 Won, 30 năm sau sẽ có 1.200.000.000 Won. Nếu bạn 30 tuổi, mỗi tháng bạn chỉ cần đầu tư 200.000 Won, thì 30 năm sau, tức là khi bạn 60 tuổi, bạn sẽ có 1.200.000.000 Won! 1.200.000.000 Won đủ cho bạn và người bạn đời hưởng thụ cuộc sống an nhàn lúc tuổi già. Có thể bạn thấy điều này thật khó, bạn đang trong độ tuổi lập nghiệp, bạn phải mua nhà, mua xe, chuẩn bị kết hôn, không thể để ra 200.000 Won mỗi tháng, vậy thì bạn có thể lùi lại 10 năm, đến khi 40 tuổi được không? Đáp án là có, nhưng bạn sẽ tổn thất hơn 900.000.000 Won. Từ năm 30 tuổi mỗi tháng đầu tư 200.000 Won, trong 30 năm thu lời sẽ là 1.200.000.000 Won. Đến năm 40 tuổi mới bắt đầu đầu tư, đầu tư trong 20 năm thì lợi nhuận sẽ là bao nhiêu? 282.744.200 Won! Chỉ chậm 10 năm thôi, thu nhập của bạn đã giảm đi hơn 900.000.000 Won. ... Mời các bạn đón đọc Thịnh Vượng Tài Chính Tuổi 30 Tập 2 của tác giả Go Deuk Seong.
Tự Tin Khởi Nghiệp - T. Jason Smith
Bước chân vào môi trường làm việc mới, chắc chắn bạn sẽ không tránh khỏi những bỡ ngỡ, thiếu sót và đôi khi là thất vọng. "Tự tin khởi nghiệp" là cuốn sách được một Chuyên gia Quản lý nhân sự viết ra từ những trải nghiệm của chính mình suốt 14 năm trong nghề. Cuốn sách sẽ gợi mở cho bạn nhiều kinh nghiệm quý báu trên bước đường khởi nghiệp, giúp bạn vượt qua những khó khăn ban đầu để đi đến thành công, đồng thời có được sự cân bằng trong cuộc sống.   Với những phần công việc thường ngày là tuyển dụng nhân viên mới cho công ty, tạo điều kiện cho họ phát triển, thưởng - phạt khi cần thiết và theo dõi một số vấn đề khác xoay quanh việc quản lý nhân sự, tác giả T. Jason Smith đã chia sẻ những “mẹo nhỏ” để bạn tự tin trên bước đường khởi nghiệp. Tuy nhiên, cuốn sách không đi vào những kỹ năng cụ thể mà tập trung tìm hiểu các hành vi. Nếu kỹ năng là điều bạn có được dựa trên kiến thức và thực hành thì hành vi là những phản ứng mang tính bản năng. So với kỹ năng thì hành vi phức tạp hơn nhiều. Hành vi của bạn như thế nào thường xuất phát từ tư cách của bạn, chứ không phải ở việc bạn có hiểu biết hay không. Một trong những mục đích của cuốn sách này là đi vào phân tích những hành vi cần và nên tránh trong năm đầu khởi nghiệp.   Giai đoạn đầu của quá trình hòa nhập và làm quen với công việc dường như khó khăn với bạn trẻ, bởi những kinh nghiệm non nớt trong ứng xử - giao tiếp với khách hàng, đồng nghiệp; bởi những hiểu biết hạn hẹp về những kỹ năng trong công việc và cách thức học hỏi từ những đồng nghiệp đàn anh, đàn chị. Và cuốn sách này được xem như một cẩm nang giúp bạn hòa nhập và thích ứng với môi trường làm việc mới. Những cân nhắc trước khi đưa ra ý kiến, giữ hòa khí, nổ lực cải thiện bản thân và không nhầm lẫn bất đồng công việc với xung đột cá nhân... là những điều đáng lưu ý và là trong số những chủ đề được đề cập trong cuốn sách. Mỗi nội dung sẽ có một bài kiểm tra để bạn thử sức. Do không thể biết trước được đâu là tình huống bạn sẽ phải đối mặt trong năm đầu tiên, nên cách tốt nhất, bạn hãy tìm hiểu qua tất cả chủ đề. Điều này sẽ giúp bạn có thêm kinh nghiệm và tránh bị sốc trước những khó khăn bất ngờ gặp phải trong môi trường làm việc mới.   Cuốn sách này hướng đến đối tượng là những sinh viên mới ra trường, những bạn trẻ hiện đang hoặc chẳng bao lâu nữa sẽ bước vào môi trường làm việc mới. Họ là những người năng động, nhiệt tình và đầy hoài bão. Ngoài ra, nếu bạn là người đã đi làm, bạn vẫn có thể dành một ít thời gian để tham khảo cuốn sách này, biết đâu bạn sẽ tìm được trong đó những kinh nghiệm bổ ích, tránh được những sơ suất đáng tiếc.   Những điều tác giả chia sẻ với bạn trong cuốn sách không có nghĩa sẽ giúp bạn trở thành vị lãnh đạo cao nhất, mà đơn giản chỉ là những kinh nghiệm giúp bạn bắt đầu xây dựng nền móng nghề nghiệp vững chắc để có được thành công trong tương lai. Bên cạnh vấn đề làm thế nào tránh được những sai lầm không đáng có, bạn sẽ được tìm hiểu nhiều vấn đề khác, ngoài công việc – những điều bạn vốn không xem trọng nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến nền tảng nghề nghiệp của bạn.   *** Mỗi chúng ta đều ít nhiều mắc phải những sai phạm và hối tiếc về điều đó. Nhưng trong môi trường làm việc chuyên nghiệp, bạn sẽ không có nhiều cơ hội khắc phục sai phạm, nhất là những sai phạm khiến người khác có thành kiến về bạn. TRÁCH NHIỆM Trong phần này cũng như những phần sau, tôi muốn nói về những tình huống mà hành vi cá nhân có thể chen vào cuộc sống của bạn bằng những cách mà bạn không thể kiểm soát được. Trước tiên, chúng ta hãy bàn đến một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến năm khởi nghiệp của bạn, đó là trách nhiệm. Trách nhiệm được hiểu là phần việc được giao, hoặc coi như được giao, phải đảm bảo hoàn thành, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả. Việc hiểu và biết chịu trách nhiệm trong cuộc sống rất quan trọng đối với việc tự lập hướng tới tương lai. Khi còn là một đứa trẻ, bạn được sống trong vòng tay nâng niu, chăm sóc của người thân yêu trong gia đình. Lớn hơn một chút, bạn có thể phải đi học xa, sống xa nhà, phải tự quản lý việc chi tiêu của mình. Nhưng nhìn chung, giai đoạn này hầu như bạn vẫn ít nhiều có được sự giúp đỡ từ gia đình. Khi cần tới tiền bạc hoặc cần sự trợ giúp, bạn có thể gọi điện về nhà nhờ người thân. Kết thúc khóa học, bạn được trở về nhà nghỉ ngơi, được ngủ một giấc thật sâu, ăn những thức ăn ngon do bố mẹ chuẩn bị. Tóm lại, đây là quãng thời gian bạn được đón nhận rất nhiều sự giúp đỡ và được thỏa mãn những nhu cầu của bản thân. Bước sang giai đoạn trưởng thành, bắt đầu cuộc sống tự lập, bạn cần điều chỉnh cách nghĩ, cách sống của mình sao cho phù hợp với thực tế. Lúc này, hầu như mọi thứ đều do bạn quyết định, tương lai của bạn tùy thuộc vào những quyết định ấy. Trách nhiệm của bạn là nhận biết đâu là điều cần thiết cho cuộc đời mình, biết dấn thân và chấp nhận những hậu quả có thể xảy ra. Sau mỗi hành động, người nhận được niềm vui hay nỗi buồn nhiều nhất, không ai khác ngoài bạn. Bạn không thể đổ lỗi cho bất cứ ai bởi đó là những quyết định bạn đã lựa chọn. Những người càng nắm giữ nhiều trọng trách càng phải gánh vác nhiều trách nhiệm, nhưng những kinh nghiệm tích lũy được sẽ trợ giúp cho họ rất nhiều. Ngược lại, một người trẻ tuổi lần đầu tiên đi làm sẽ phải chịu sức ép từ nhiều trọng trách khác nhau; họ sẽ dễ bị sốc và quá tải. Có thể nói, trách nhiệm len lỏi qua mọi khía cạnh cuộc sống tự lập của bạn, nhất là trong năm đầu khởi nghiệp. Bài học về trách nhiệm và việc hoàn thành trách nhiệm luôn là bài học hóc búa nhất mà ngay cả đến những nhân viên làm việc lâu năm đôi khi cũng phải vật lộn với nó. Trong công việc, trách nhiệm được thể hiện ở chỗ bạn sẽ thực hiện đến cùng và hoàn tất công việc được giao. Bên cạnh đó, khi hoàn tất công việc đúng thời hạn, bạn sẽ có được uy tín, sự tin tưởng của đối tác, khách hàng… Ở trường học, bạn có thể nói: “Xin lỗi, em đã không hoàn thành bài tập đúng hạn”, hoặc một ngày nào đó không muốn đến lớp, bạn vẫn có thể nghỉ ở nhà mà chẳng ảnh hưởng đến ai. Nhưng trong công việc lại khác. Khi bạn không hoàn thành trách nhiệm được giao, điều này có thể tác động không tốt đến người khác. Chẳng hạn, bạn có nhiệm vụ lên kế hoạch cho một sự kiện tại hội nghị thường niên trong đó công ty bạn là thành phần ban tổ chức. Công ty bạn bảo trợ mọi thứ, từ những bữa điểm tâm cho đến những bữa ăn tối, rồi vấn đề diễn giả… Đại sảnh được trang hoàng bằng tên và biểu tượng của công ty bạn. Việc lập kế hoạch cho sự kiện này khiến bạn quá mệt mỏi. Bạn quyết định nhờ một nhân viên khác làm nốt phần việc còn lại, trong khi bạn thì về nhà nghỉ ngơi, mặc dù ngày mai hội nghị diễn ra. Hậu quả của việc trốn tránh trách nhiệm này xảy ra ngoài dự đoán của bạn và cũng vô phương cứu chữa. Tên công ty của bạn được xướng lên trong đại hội nhưng những sự kiện mà bạn có trách nhiệm thực hiện thì thất bại hoàn toàn. Trong mắt của hàng ngàn người tham dự, ấn tượng về công ty bạn thật thảm hại. Và người “mất mặt” nhất hôm ấy không phải là bạn mà là sếp của bạn - người đã tin tưởng giao trách nhiệm cho bạn. Chẳng còn gì có thể cứu vãn được tình hình. Thất bại quá rõ ràng. Người ta sẽ không quan tâm đến những lý do như bạn quá mệt mỏi, bạn không thể làm được hay bạn không biết, hoặc bạn quên và rất lấy làm tiếc đã để chuyện đã xảy ra v.v… Điều duy nhất người ta nghĩ về bạn lúc này đó là một người thất tín. ... Mời các bạn đón đọc Tự Tin Khởi Nghiệp của tác giả T. Jason Smith.
Thịnh Vượng Tài Chính Tuổi 30 Tập 1 - Choi Pyong Hee & Go Deuk Seong & Jeong Seong Jin
cách nhìn nhận của nhân vật chính. Nếu là độc giả ở tầm tuổi tứ tuần hoặc đầu ngũ tuần thì dù có hơi muộn một chút cũng hãy tập trung vào việc phải lựa chọn những phương pháp nào để bù đắp lại thời gian đã mất. Cuốn sách này không thể cho bạn mọi đáp án cho mọi vấn đề. Nhưng các tác giả đã biên tập cuốn sách này để truyền đạt hiểu biết cho các độc giả, để các độc giả không bỏ bê tuổi già của mình, nâng cao ý thức về sự chuẩn bị cho tuổi già, và để chỉ ra phương hướng chuẩn bị cho tuổi già của các bạn. *** Chúng tôi hi vong cuốn sách này đã trở thành ngọn hải đăng soi sáng đường khi độc giả hướng ra biển lớn cuộc đời. Cuối cùng chúng tôi muốn yêu cầu độc giả "hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay lúc này!". Hãy vận động ngay khi bạn đóng cuốn sách này lại. Cuốn sách này không phải là để nuôi dưỡng tâm hồn hay triết lý sâu sắc mà để chỉ ra hướng đi cho độc giả. Nếu đọc cuốn sách này mà thấy sởn gai ốc hay đầu gật gù thì hãy dù chỉ là một ngày cũng hãy nhanh chóng chuyển theo hướng đó. Khi biên tập cuốn sách chúng tôi đã rất chú tâm đến những phần như làm sao để độc giả dễ dàng đón nhận câu chuyện về sách chuẩn bị cho tuổi già, làm thế nào để có thể cảm nhận được bằng xúc giác vấn đề tuổi già trong tương lai xa không phải là vấn đề trước mắt, phương hướng thật sự mang lại lợi ích cho độc giả là gì? Thông qua cuốn sách này phải mang lại lợi ích đến đâu? … Ba tác giả cùng nhau làm việc trong vòng một năm và viết ra những lời này không phải là dễ nhưng chúng tôi thấy tự hào ở chỗ đã thu thập ý kiến, suy nghĩ của rất nhiều nhà chuyên môn chứ không chỉ đơn thuần là suy nghĩ của một cá nhân. Và chúng tôi rất mong muốn cuộc sống hiện tại và tuổi già của độc giả sẽ trở nên sung túc, tươi đẹp hơn. *** Nếu nâng cao tỉ lệ lợi nhuận, bạn sẽ thấy đáp án cho tuổi già “Mình ơi…, mình. Mình dậy đi, đã 7 giờ rồi.” “Ừ… đã 7 giờ rồi à?” “Mình mau dậy rồi rửa mặt đi. Bữa sáng em đã chuẩn bị xong rồi.” “Được rồi… Anh dậy ngay đây!” Không còn cách nào khác, Kim Min Seok phải bước ra khỏi giường. Ánh nắng mùa xuân đã in dài trên nền tường trong phòng thông qua cánh cửa sổ. “Hai…a!” Sau khi vươn vai, anh kéo chăn ra và bắt đầu bước xuống dưới. Ngày cuối tuần không được nghỉ vì tìm kiếm thông tin trên mạng liên quan đến đối sách trù bị cho tuổi già nên giờ người anh uể oải và nặng nề. Điều chỉnh nhiệt độ bình nóng lạnh cho phù hợp và đứng dưới làn nước ấm, anh có cảm giác mệt mỏi dường như tan biến. Anh ăn qua loa rồi mặc quần áo và đi xuống bãi đỗ xe, cho chìa khóa vào ổ và anh đột nhiên nghĩ “không hiểu chiếc xe này có phải là quái vật ăn tiền không nhỉ?” “Tiền trả góp hàng tháng tính ra chỉ 600 nghìn won… nhưng còn tiền xăng hàng tháng ít ra cũng 300 nghìn, tiền bảo hiểm, tiền bảo dưỡng rồi tiền thuế, tổng cộng cả tháng cũng hết gần 4,5 triệu won… thể nào cũng phải “chào tạm biệt” với mày thôi.” “Vâng, tôi là Kim Min Seok, trưởng phòng kế hoạch và tài chính đây.” “Min Seok à, tớ là Un Woo đây. Lâu rồi bọn mình không gặp nhau. Tối nay hai đứa làm chén chứ?” “Được chứ. Cậu không rủ thì tớ cũng đang thèm rượu đây.” Sau khi ăn cơm trưa xong, rồi lại vùi đầu vào mạng, Kim Min Seok không thể không vui mừng trước cuộc gọi điện của Jang Un Woo. Nhìn bộ dạng của mình trong giấc mơ mà Tiên ông đã chỉ cho, anh lại càng ghen tị hơn với cuộc sống của Jang Un Woo khi đó, anh cũng mơ ước rằng mình sẽ có cuộc sống như thế. Hiện tại, Jang Un Woo đang làm việc với vai trò tư vấn tại trung tâm PB của ngân hàng nên cứ khi nào gặp là Jang Un Woo lại bàn bạc sôi nổi nào là về ký quỹ, bất động sản hoặc gửi tiền tiết kiệm. Bình thường, Kim Min Seok luôn cảm thấy bất mãn bởi chỉ vì Jang Un Woo mà làm mất không khí của tiệc rượu, nhưng lần này thì hoàn toàn khác. Đến hơi muộn một chút, ngay từ ngoài cửa, Kim Min Seok đã nhận ra Chei Kyoeng Won - người đang ngồi trong bàn ăn, vừa nướng thịt vừa nâng chén rượu. Đó đúng là người bạn cấp ba của anh, hiện đang làm việc tại một công ty bảo hiểm. Sau khi nói với nhau về hiện trạng của mình, chén đi chén lại, Kim Min Seok bắt đầu thổ lộ những băn khoăn của mình. “Này, các cậu đang chuẩn bị thế nào cho tuổi già của mình?” Jang Un Woo và Chei Kyoeng Won đều trợn tròn mắt ngạc nhiên trước câu hỏi khác hẳn tính cách của Kim Min Seok thường ngày. Hai người ngạc nhiên như thể ngày mai mặt trời sẽ mọc ở đằng tây, còn Kim Min Seok chẳng có biểu hiện gì cả, mà chỉ dốc chén lên uống tiếp. Jang Un Woo bắt đầu hỏi trước: “Nếu là Kyoeng Won và mình thì đương nhiên việc trù bị cho tuổi già đã được bắt đầu từ lâu rồi. Ngay sau khi vào ngân hàng, ngoài khoản tiền tiết kiệm, mình còn tham gia vào một sản phẩm bảo hiểm niên kim, cũng được khoảng gần 10 năm rồi. Cách đây không lâu, mình tăng thời gian bảo hiểm lên 20 năm và còn tiết kiệm một khoảng riêng vào quỹ tiết kiệm… Kyoeng Won à, cậu cũng làm vậy đúng không?” “Ừ. Trước khi vào làm tại công ty bảo hiểm mình cũng đã tham gia vào bảo hiểm niên kim. Rồi sau khi vào làm tại công ty, mình cũng tham gia vào bảo hiểm niên kim và bảo hiểm niên kim khả biến(1). Min Seok thì sao? Cậu cũng làm như mình chứ?” “Thì ra là vậy… Các cậu đều có chuẩn bị trước cả rồi. Nhưng sao lại chỉ có mình thế nhỉ. Mình không hề suy nghĩ gì về vấn đề này cả cho đến bây giờ…” Kim Min Seok định kể cho Jang Un Woo nghe câu chuyện của Tiên ông và tương lai mà mình được nhìn thấy, nhưng anh lại thôi. “Mình cũng thử tìm cách này cách nọ, nhưng chưa có đáp án.” Nhìn xuống chén rượu, Kim Min Seok tiếp tục câu chuyện: “Hiện giờ thu nhập của mình và vợ mỗi tháng khoảng 5,8 triệu won, nếu trừ các khoản như: chi phí sinh hoạt, lãi suất trả vay mua nhà, tiền trả góp mua xe, rồi các chi phí khác… thì để dành được khoảng 620 nghìn won… Có nghĩa là hai vợ chồng mình tiêu gần hết số tiền kiếm được. Vì vậy, cuối tuần vừa rồi mình và vợ ngồi bàn bạc với nhau sẽ điều chỉnh lại chi tiêu. Nếu làm vậy thì hàng tháng nhà mình sẽ tiết kiệm được khoảng 1,79 triệu won. Nếu nhà mình cứ duy trì được mức tiết kiệm này thì chắc là không có vấn đề gì lớn… Vấn đề ở đây là sau 5 năm nữa, vợ mình sẽ phải nghỉ việc. Rồi chuyện học phí của con cái, và khi vợ mình nghỉ làm, thì số tiền tiết kiệm lúc này chỉ còn được 500 nghìn won. Nếu cứ tiếp tục tiết kiệm với mức đó thì đáp án cho tuổi già chẳng có gì khá khẩm hơn. Nhà cũng phải mở rộng hơn, tiền học cho con đầu, rồi đứa thứ hai sắp ra đời nữa, lại còn phải tiết kiệm cho cuộc sống về già sau này, rồi còn trù bị tiền vốn để tiết kiệm hoặc đầu tư… Nếu thử chia 150 nghìn won thì một năm sẽ là 1,8 triệu won, 10 năm sau tính cả tiền lãi tiết kiệm cũng chỉ được 20 triệu won đúng không? Với 20 triệu won thì không thể mơ đến việc chuyển nhà được… phải tiết kiệm 20 triệu won trong 10 năm thì tiền học của con cái hàng tháng mấy trăm nghìn won cũng còn chưa đủ nữa…Vấn đề quan trọng nhất là mỗi tháng mình phải để ra được 150 nghìn won thì sau 25 năm nữa cũng chỉ được 68 triệu won mà thôi. Tuổi già của mình có vẻ mờ mịt quá. Mình cố vắt óc nghĩ thế nào cũng không thấy đáp án. Chẳng có đáp án gì cả!” ... Mời các bạn đón đọc Thịnh Vượng Tài Chính Tuổi 30 Tập 1 của các tác giả Choi Pyong Hee & Go Deuk Seong & Jeong Seong Jin.