Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Bình Mai (có tranh)

THÔNG TIN EBOOK • Nguồn text: vnthuquan.net • Soát chính tả, thêm chú thích, gắn tranh: Bình An *** VỀ TÊN SÁCH “Kim Bình Mai” được ghép lại từ tên của 3 nhân vật nữ chính: Kim Liên (sen vàng), Bình Nhi (cô Bình/Lọ), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân). Bản thân cụm từ “Kim Bình Mai” cũng có nghĩa là “Nhành mai trong lọ vàng”, do đó, bản tiếng Anh của David Tod Roy đã dịch nhan đề là “The plum in the golden vase”. Mặt khác, theo David Tod Roy, nhan đề này cũng là một sự chơi chữ với cụm từ đồng âm có nghĩa là “Khoái cảm thâm nhập âm đạo”. CÁC HỆ VĂN BẢN Theo các nhà nghiên cứu, các văn bản Kim Bình Mai đang được lưu truyền có thể quy thành 3 hệ: • Hệ bản A: bản sớm nhất và gần với tác phẩm gốc nhất. Bản tiếng Anh của David Tod Roy được dịch từ hệ này. Theo dịch giả, ông đã dịch mọi thứ có trong hệ văn bản này. Cũng theo ông, bản dịch đầy đủ đầu tiên từ hệ A sang ngôn ngữ châu Âu là bản tiếng Pháp của André Lévy năm 1985. Các bản dịch trước đó đều từ hệ B hoặc C. • Hệ bản B và C: văn bản đã được sửa chữa, rút gọn; có thể có thêm lời bình. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng được dịch từ hệ này. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ A VÀ B,C Cũng như nhiều bạn đọc, ban đầu tôi lầm tưởng bản B-C là bản A cắt bỏ vài chi tiết nhạy cảm, nhưng khi so sánh bản tiếng Anh của David Tod Roy và bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng, tôi thấy nội dung khác nhau rất xa. – Bản lược (B-C) không phải là cắt bỏ vài cảnh, mà là đã được viết lại theo kiểu tóm lược bản A; có những cảnh trong bản A dài vài trang thì trong bản lược chỉ tóm lại vài dòng. – Bản A có rất nhiều thơ và lời hát; bản lược gần như bỏ hết, chỉ giữ lại vài bài. – Trong bản lược, có những chỗ người viết bịa ra những tình tiết mới không có trong bản A. Điển hình như các chương 2, 3, 4 trong bản lược được viết mới hoàn toàn. – Các chi tiết mô tả tính dục ở bản A đều được cắt bỏ hoàn toàn ở bản lược. Do sự khác biệt quá xa này nên không thể căn cứ vào bản lược để đánh giá giá trị văn chương của bản A. *** Trong phiên bản ebook này, tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của David Tod Roy (1993) để bổ sung thêm các chú thích so sánh sự khác nhau về chi tiết giữa bản lược và bản A, tuy nhiên cũng không thể truyền tải được không khí và mức độ táo bạo của bản gốc. Hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ có bản dịch đầy đủ của Kim Bình Mai. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ. (Chú thích hệ * là của nhà xuất bản, chú thích hệ số [1], [2]... là của người làm ebook.) Người làm ebook 09/2022 *** DỊCH GIẢ Nhà Hán học Nguyễn Quốc Hùng sinh năm 1938 trong một gia đình danh giáo, có thân phụ từng giữ chức Đốc học tỉnh Hải Dương. Năm 1969, khi chỉ mới 31 tuổi, ông đã công bố cùng một lúc bản dịch hai bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo và dịch thuật quý giá khác như Trung Quốc toàn sử, Lịch sử Văn hóa Trung Hoa, Lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa, Hán Việt tân từ điển… Năm 2003, Nguyễn Quốc Hùng qua đời tại Canada, để lại một số tác phẩm vẫn chưa kịp xuất bản. Bản Việt dịch Kim Bình Mai của Nguyễn Quốc Hùng ra đời ở Sài Gòn từ tháng 8 năm 1969, do Chiêu Dương xuất bản xã phát hành, được in thành 12 tập, mỗi tháng in từ 1 đến 2 tập. Đến đầu năm 1970, sách đã được in trọn bộ với tổng cộng hơn 2.700 trang. *** LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên địa vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi. Kim Bình Mai quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bịp bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch. Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục. Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt. Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu, đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy. Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội: Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc, con hát Lưu Quế Thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám người kí sinh trong xã hội đô thị. Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hình có xương có thịt. Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, Kim Bình Mai có một vị trí quan trọng. Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hành với điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573-1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết. Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại: Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc. Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học. Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thứ ba là tiểu thuyết “công án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án. Thứ tư là tiểu thuyết “thế tình” (tình đời). Loại này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội. Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, Kim Bình Mai được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của Dickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng Kim Bình Mai. Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với Kim Bình Mai: Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của Kim Bình Mai. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng Kim Bình Mai không sánh được. Ngay cả sau khi Kim Bình Mai bị liệt vào hạng “sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và Kim Bình Mai. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều giảng Kim Bình Mai và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc. Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược: “Tiểu thuyết (Kim Bình Mai) lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyệnlàm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”. Kim Bình Mai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”. Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của Kim Bình Mai, thực hiện bởi A.P. Bazin: Histoire de Wou Song et de Kim Lien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp). Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York. Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch. Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập, hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản Kim Bình Mai từ thoại. Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000 bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách: “In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào. Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên Kim Bình Mai từ thoại mới là văn bản tiêu biểu. Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó (tạm dịch):   Hệ văn bản 3 Hệ văn bản 2 Hồi 1 Bạn bè kết nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ; Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa. Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ; Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan. Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa. *** Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau “cải cách mở cửa”). Một là vấn đề “văn bản Kim Bình Mai”. Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau: Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng: Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là Kim Bình Mai truyện thì tên sách đề là Tân khắc Kim Bình Mai từ thoại.Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản Kim Bình Mai từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản Kim Bình Mai từ thoại (bản cổ có tranh vẽ) v.v... Cuối đời Minh, do chỗ Kim Bình Mai từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai (bản khắc mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản Kim Bình Mai (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này là “bản Sùng Trinh”*. Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loại này. Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai, Đệ nhất kì thư tú tượng Kim Bình Mai, Tú tượng Kim Bình Mai đệ nhất kì thư.Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăng đồ tượng túc bản Kim Bình Mai, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nền Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc Kim Bình Mai kì thư. Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt “Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cái gọi là “Kim Bình Mai chân chính”, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản Kim Bình Mai, Tiêu điểm cô bản cổ bản Kim Bình Mai, Cảnh thế kì thư Kim Bình Mai v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật), “cô” (hiếm), cổ (xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời. Cho đến nay tính ra Kim Bình Mai lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản: 1 – Hệ văn bản “từ thoại”: Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là Kim Bình Mai từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản A”. Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản Kim Bình Mai đã biết. Hệ này nay còn lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ ở Nhật Bản. Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật “thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. Kim Bình Mai từ thoạituy mang tên như vậy song không thể coi là “từ thoại” chính cống nữa mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại” mà thôi. 2 – Hệ văn bản “tú tượng phê cải” (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại “bản Sùng Trinh” và loại “bản Trương Bình”. Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình; 2 / tranh thêu. So với hệ văn bản “từ thoại” nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết. a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh. Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau: Thư viện Nước Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) Trung Quốc Thư viện Thượng Hải Thư viện Đại học Bắc Kinh Thư viện Thiên Tân Thư viện Trung ương Đài Loan Nội các văn khố Nhật Bản Trường Đại học Tôkiô Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên). 3 – Hệ văn bản rút gọn: Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”, xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là “chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng. *** Hai là vấn đề “tác giả Kim Bình Mai”. Tác giả Kim Bình Mai là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản Kim Bình Mai từ thoại khắc in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là Tiếu Tiếu Sinh sinh tác. Tiếu Tiếu Sinh rõ ràng là một bút danh có nghĩa là “chàng cười”, “chàng hay đùa” (“Tiếu” là cười, còn “sinh” là tiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách Tiếu Tiếu Sinh từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận, thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của Tiếu Tiếu Sinh mà thôi. Ngoài Kim Bình Mai ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”). Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứ trực tiếp. Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn Kim Bình Mai khảo chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố. Ngụy Tử Vân trong Kim Bình Mai đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả trong truyện, Ngụy Tử Vân cho rằng Tiếu Tiếu Sinh phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc. Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên (1501-1568). Đầu năm 1984, Kim Bình Mai tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh. Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981. Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được” kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”, đồng thời công bố liền hai bài “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo” và “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Chiết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bộ Lễ. Khảo trong Kim Bình Mai từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”, chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai lí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết Kim Bình Mai là điều có thể tin được. Năm 1985, Kim Bình Mai nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của Kim Bình Mai) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”, mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả Kim Bình Mai. Dĩ nhiên đối với một “câu đố” đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác. Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi. Phan Văn Các 1-1999 Mời các bạn đón đọc Kim Bình Mai (có tranh) của tác giả Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh & Nguyễn Quốc Hùng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vô Lại Và Quyến Rũ - Loretta Chase
Vô lại và quyến rũ là câu chuyện xoay quanh Sebastian Ballister và Jessica Trent. Chàng, một chàng hầu tước to lớn, đen đúa và nguy hiểm. Chàng luôn tự chứng tỏ mình là một người bất lịch sự trước mặt giới thượng lưu và dường như điều đó lại càng khiến chàng đắc trí dù với thiên hạ đó là những việc tồi tệ. Chàng đích thực là một tên vô lại. Nàng, một cô nàng cực kì thông minh, và quyến rũ. Nàng có ý chí quyết liệt, mạnh mẽ và không bao giờ chấp nhận sự thất bại. Song, số phận đã đặt nàng trong một thử thách vô cùng “khó chịu”: để cứu lấy tương lai của nàng và em trai mình, nàng bắt buộc phải đương đầu với chàng hầu tước – con quái vật, bị mọi người khinh ghét kia. Trong cái giây phút gặp gỡ đầu tiên ấy, nàng đã từng nghĩ sẽ hạ bệ tên vô lại ấy một cách quyết liệt nhất để sống sót. Thế nhưng, điều kì diệu như một định mệnh, họ bị cuốn vào nhau đến bất tận, vượt qua mọi ranh giới của những hận thù, âu lo đời thường. Một người khôn ngoan như nàng lại có thể yêu tên vô lại ấy đến điên cuồng cả tâm trí mình? Một kẻ vô lại, với những ý đồ xấu xa. Một kẻ luôn luôn hắt hủi và coi thường những người đàn bà bên cạnh mình lại có thể bị cô gái bé nhỏ Jessica cảm hóa? *** Hầu tước Dain bước khỏi buồng tắm vào lúc hai giờ sáng. Rồi chàng phải khoác chiếc áo choàng mặc trong nhà và xỏ dép đi tìm vợ mình, vì như chàng đã đoán chừng, lúc này nàng không nằm trên giường ngủ, mà đáng lý ra thì nàng phải ngủ mới được. Chàng thử nhìn qua Tháp Nam trước, nhưng nàng không có bên giường của Dominick. Mary đang ở đó, thiêm thiếp ngủ trên ghế. Thằng bé nằm sấp, ngủ rất say, đống chăn màn bị đạp dồn thành một đống cuối chân giường. Dain thầm càu nhàu, lôi tấm khăn trải giường và cái chăn lên, nhanh tay đắp quanh con trai mình. Rồi chàng vỗ nhẹ đầu thằng bé đang ngủ không biết trời trăng gì ấy và bỏ đi. Mười lăm phút sau, chàng tìm ra Jessica trong phòng ăn. Nàng đang đứng trước lò sưởi, quấn mình trong chiếc áo khoác ngủ màu đen và vàng, tóc tai được cẩn thận bới lên, kẹp chặt trên đỉnh đầu. Những ngón tay nàng khum khum cầm một cốc rượu mạnh và nàng đang nhìn lên bức chân dung của mẹ chàng. “Lẽ ra nàng phải mời ta uống chung với nàng chứ,” chàng nói từ ngoài cửa. “Đây là chuyện giữa em và Lucia,” nàng nói, mắt vẫn nhìn lên bức chân dung. “Em đến đây để nâng ly vinh danh bà.” Nàng nâng ly lên. “Dành cho phu nhân, thưa bà Lucia đáng yêu: vì đã mang ông chồng quỷ quyệt của con đến thế giới này... vì đã trao cho chàng quá nhiều điều tốt đẹp nhất của bà... và vì đã bỏ chàng lại đây, để chàng có thể sống sót và lớn lên thành một người đàn ông... để con tìm thấy chàng.” Nàng xoay xoay cái chất lỏng vàng sóng sánh trong ly, và hít lấy một hơi vẻ tán thưởng. Đoạn, với một tiếng thở dài khe khẽ khoan khoái, nàng nâng ly lên môi. Dain bước vào phòng, đóng cửa lại sau lưng. “Nàng không biết mình đã may mắn thế nào đâu khi tìm ra ta đâu,” chàng nói. “Ta là một trong số ít những tên đàn ông ở Tây Âu có thể chịu nổi nàng. Thứ rượu đó, ta đoan chắc, là brandy loại hảo hạng của ta đấy.” “Thực tình em đã tính đến hầm rượu của chàng khi em cân nhắc những tài sản và tiêu sản của chàng,” Jessica nói. “Kho rượu của chàng chắc chắn là đã làm cán cân nghiêng về phần ưu điểm của chàng đấy.” Nàng khoát cánh tay đang cầm ly rượu về phía bức chân dung. “Trông bà ấy thật rạng rỡ ở đấy đúng không?” Dain đi đến đầu bàn, ngồi vào ghế của mình và ngắm nghía bức chân dung. Xong chàng lại đứng lên đi lại tủ chén bát và ngắm bức chân dung từ góc ấy. Chàng săm soi bức tranh từ lối cửa vào Phòng trưng bày nhạc cụ, từ các cửa sổ, và từ đầu kia chiếc bàn ăn dài ngoẵng. Cuối cùng chàng đi lại bên vợ mình trước lò sưởi, khoanh tay trước ngực, và đứng đấy trầm ngâm chiêm ngưỡng mẹ mình. Nhưng dù chàng có nhìn bà từ góc cạnh nào hay nhìn lâu nhìn kỹ đến đâu, chàng cũng không còn cảm thấy lòng mình đau đớn nữa. Tất cả những gì chàng nhìn thấy là một thiếu phụ xinh đẹp, người đã yêu thương chàng theo cách thất thường của riêng mình. Dù chàng sẽ không bao giờ biết hết sự thực của những gì đã xảy ra hai mươi lăm năm về trước, nhưng chàng đã biết đủ nhiều, tin tưởng đủ nhiều để tha thứ cho mẹ mình. “Bà ấy thực là xinh đẹp, phải không?” chàng hỏi. “Đẹp tuyệt trần.” ... Mời các bạn đón đọc Vô Lại Và Quyến Rũ của tác giả Loretta Chase.
Tôi Mang Thai Đứa Con Của Chị Gái - Tạ Hà Như Bình
Là một trong 5 tác phẩm lọt vào vòng chung khảo Giải thưởng Văn học Đoàn Thị Điểm, Tôi Mang Thai Đứa Con Của Chị Gái của Tạ Hà Như Bình là câu chuyện kể về quãng đời của ba chị em gái nhà nghèo. Ba chị em nương tựa, bao bọc cho nhau từ lúc thiếu thời mồ côi cả cha mẹ đến khi trưởng thành lập gia đình. Họ thành công, có cuộc sống ổn thỏa là thành quả đáp đền cho sự nỗ lực. Điều duy nhất không viên mãn là việc chị hai không thể sinh con và cần người mang thai hộ. Cuốn sách như một hành trình muôn màu của cuộc sống hiện đại. Ở đó người ta bắt gặp những sóng gió nối tiếp, sự bình yên chưa được bao lâu lại có những khó khăn, trắc trở khác ập tới. Sau tất cả, người ta hiểu ra rằng, hạnh phúc mong manh trong gia đình chỉ có thể giữ gìn bằng tình yêu thương, sự vị tha và thấu hiểu. *** Trở về với cuộc sống hiện tại, tôi đã không thể sinh đứa con thứ hai ngay như dự định, bởi đã phải mổ khi sinh bé Hồng Tiệp. Thỉnh thoảng, bố mẹ và chồng tôi có lỡ lời nói rằng, “bình thường thì bây giờ chúng ta có thêm đứa nữa bằng thằng Hồng Tiệp rồi”. Những lúc ấy tôi cũng chạnh lòng và buồn. Sinh mổ một lần, sức khỏe tôi cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Đôi lúc tôi cũng thấy lo lắng không biết khi định sinh lại thì sẽ thế nào. Bác sĩ khuyên tôi đợi ba năm hãy sinh lại. Nhưng vợ chồng tôi bàn nhau chỉ kế hoạch sau hai năm thôi vì lúc đó tuổi của tôi cũng ngoài ba mươi rồi. Nhiều lúc đi ngoài phố, nhìn những đứa trẻ, tôi lại nghĩ, đáng lẽ tôi cũng đã có thêm một em bé như thế. Nhưng rồi lại vội xua đi ý nghĩ ấy. Biết được những suy nghĩ đó của tôi, chị Hai chắc chắn sẽ rất buồn và day dứt. Và tôi cũng tự thấy xấu hổ với chính mình. Vâng, cuộc sống là một bài toán buộc bạn phải tìm cách giải quyết. Nếu tôi sống cho mình, cho chồng con mình, tôi sẽ không mang thai cho chị Hai, và có lẽ bây giờ tôi đã có thêm đứa con nữa, sẽ không phải thắc thỏm lo âu chờ đợi thêm mấy năm. Nhưng, nếu được vẹn toàn như thế, liệu tôi có thực sự thấy cuộc sống của mình hạnh phúc hơn không, trong khi nhìn cảnh chị gái đau đáu thèm con, mong con. Tôi chắc chắn sẽ không hối hận về quyết định của mình. Tôi quay lại làm việc sớm hơn quy định nghỉ sinh của công ty. Trong thời gian tôi nghỉ sinh, công ty đã bổ nhiệm một vị trí phó giám đốc và đó là một người mới về. Lẽ ra, tôi đã có thể ngồi vào chiếc ghế danh vọng đó. Thực lòng, tôi có hụt hẫng khi bắt nhịp lại với công việc. Đôi lúc, tôi không xử lí được tình huống mâu thuẫn với phó giám đốc mới. Những người đồng giới thường hay hiếu thắng với nhau hơn là với những người khác giới. Không những thế, người cùng giới kia lại là kẻ xa lạ ngồi vào vị trí mà mình đã mất nhiều năm cố gắng. Những ngày tới công sở của tôi trở nên nặng nề và không còn hào hứng như trước đây. Nhiều hôm tôi trở về nhà trong trạng thái stress nặng. Sau lần sinh này, tôi không rõ lí do vì sao tôi sụt cân nhanh. Đến bảy tháng sau thì cân nặng của tôi ở vào tình trạng thiếu cân. Cảm giác mệt mỏi cũng thường xuyên bủa vây. Cân nặng theo đó lại càng giảm. Cuộc sống của tôi dần dần rơi vào trạng thái chán nản và nặng nề. Tôi ốm và xin nghỉ làm nhiều hơn tất cả những năm trước. Bố mẹ và chồng tôi có lẽ cũng bị lây cảm giác tiêu cực của tôi. Cuộc sống phải chăng cứ thích đẩy người ta vào những khúc quanh như thế? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Mang Thai Đứa Con Của Chị Gái của tác giả Tạ Hà Như Bình.
Tôi Bị Bố Bắt Cóc - Mitsuyo Kakuta
Tôi bị bố bắt cóc đạt giải Văn học Robo no ishi năm 2000 (Totto- chan: Cô bé bên cửa sổ cũng đạt giải thưởng này năm 1983). Tôi bị bố bắt cóc viết về một chuyến nghỉ hè. Đây là một chuyến nghỉ hè "lạ lùng" - bởi người ta đi nghỉ cùng tên bắt cóc! Đây là một chuyến bắt cóc "lạ lùng" - bởi kẻ bắt cóc là bố, "một người lớn không tốt!" và người bị bắt cóc là con gái "còn không biết là mình yêu hay ghét bố nữa" (vì người ta phải gặp nhau thì mới biết yêu, hay ghét). Thế nhưng, chuyến đi của hai người - thủ phạm Takashi và nạn nhân Haru, hay chính xác là bố và con - không hề mất đi tính gay cấn, hồi hộp của một chuyến “bắt cóc” và cũng không thiếu những thú vị, trong trẻo, yêu thương của một chuyến “du lịch gia đình”. Hơn tất cả, đây là "một chuyến đi sẽ nối liền trái tim đứa bé và cha mẹ vì lý do nào đó phải sống xa nhau". Nhà văn nổi tiếng Nhật Bản Shigematsu Kiyoshi nhận xét: "Cuốn sách cần thiết cho những người lớn đang chật vật với những khó khăn của việc làm cha, làm mẹ". *** Mitsuyo Kakuta sinh ngày 8 tháng 3 năm 1967 tại Yokohama, Nhật Bản. Cô tốt nghiệp Đại học Waseda chuyên ngành sáng tác văn học. Cuốn Ngày thứ tám của Mitsuyo đã đạt Giải văn chương Chuo Koron. Cô còn là tác giả của cuốn Woman on the Other Shore, đạt Giải Naoki và Tôi bị bố bắt cóc đoạt giải "Văn học Robo no Ishi" năm 2000 cùng hơn 30 tiểu thuyết và tuyển tập truyện ngắn khác. *** Đến ga, chung quanh đã tối hẳn, bóng đèn trắng của nhà ga chiếu sáng vòng xuyến. Những người phụ nữ tay xách túi hàng như mới đi chợ về, tụi học sinh mang cặp tới lớp học thêm, người người qua lại dưới ánh đèn. Tôi rủ bố về đến tận nhà nhưng bố trả lời: - Cho bố kiếu! Tôi nói: - Bố lại đến bắt cóc nhé! - Ờ! Bố đeo cái kính mát to đùng rồi cười. - Vậy thôi! Tôi đưa tay ngang mặt, từ từ vẫy chào bố. - Hẹn gặp lại! Bố vỗ nhẹ vai tôi. Tôi tiến về vòng xuyến đông người qua lại. Tôi đã được giải phóng bởi tên bắt cóc. Tôi ngẩng cao đầu, dấn bước bằng những bước chân sải rộng, đánh tay thật mạnh, tay chân tôi rám nắng. Về đến nhà tôi sẽ đi tắm. Phải dành cả đống thời gian để kỳ cọ, tắm rửa cho thật sạch cái cơ thể dơ bẩn, hôi hám này. Sau đó vừa ăn kem vừa xem ti vi. Lâu lắm rồi mới được xem ti vi. Hoặc gọi điện cho dì Yuko cũng được. Chỉ kể cho mỗi dì Yuko nghe chuyện mấy ngày nay thôi. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ những việc sẽ làm sau khi về đến nhà, chân không ngừng bước. Đến góc rẽ ở vòng xuyến, tôi quay lại nhìn. Tôi thấy bố vẫn đứng ở cửa soát vé, như bị đẩy ra bởi bao nhiêu người qua lại. Nhận ra tôi dừng lại, bố bỏ kính, vẫy tay. Tôi cảm giác người bố đứng vẫy tay xa xa kia như một người lạ. Như ông bố mặc áo thun đang công kênh em bé trên vai, như người đàn ông tóc nâu đang khoác tay một phụ nữ, như người đeo kính mặc vét kia, thật sự chẳng khác gì một ai đó không quen biết. Thế nhưng, tôi cũng thấy người đàn ông mặc chiếc áo nhàu bẩn, da đen sạm vì nắng, đuôi mắt sụp xuống, lúc ẩn lúc hiện giữa đám đông qua lại kia đang tỏa sáng một cách kỳ lạ. Cứ như được bao bọc bởi một cái kén vàng. Không phải tại ánh sáng nhà ga, cũng không phải nhờ ánh đèn của mấy ki-ốt. Rồi tôi bỗng nghĩ, chắc lần đầu gặp bố, mẹ cũng nhìn thấy bố tỏa hào quang như vậy chăng? Trong đám đông, chỉ một người, tỏa sáng, theo một cách đặc biệt. Tôi thấy thích người đàn ông đang vẫy tay liên tục một cách khù khờ đó. Cho dù người ấy không khác gì một người xa lạ. Khi xác nhận trong lòng như vậy, tôi hít một hơi thật sâu rồi quay bước đi. Mời các bạn đón đọc Tôi Bị Bố Bắt Cóc của tác giả Mitsuyo Kakuta.
Tình Yêu Là Một Nỗi Buồn - Vũ Lập Nhật
Bạn đã từng yêu chưa? Nếu đã từng bạn sẽ cảm nhận được câu chuyện này một cách sâu sắc. Đúng như người ta vẫn nói, khi hai đã yêu nhau họ có thể làm tất cả cho nhau. Tình yêu thiêng liêng, tình yêu của những con người có những trái tim bị tổn thương dành cho nhau lại càng thiêng liêng. Tình yêu đẹp, qua bao khó khăn, bất hạnh lại càng đáng trân trọng biết nhường nào. Sống trong một cuộc sống càng đầy đủ thì nỗi buồn càng trở nên vĩ đại. Tình yêu là một nỗi buồn khắc họa một cách nhẹ nhàng, sâu sắc câu chuyện tình buồn của Yier, một thiên tài âm nhạc xấu xí. Người ta yêu những bản nhạc của ông say đắm nhưng lại ghét bỏ ông, còn ông thì quay lại với cái thế giới phụ bạc đó và sống một mình với sự cô đơn. Yeir hi vọng có ai đó hiểu được những bản nhạc mà ông viết và cho ông tình yêu. Lúc tưởng chừng như ông sẽ sống như vậy cho đến ngày cuối đời, không tình yêu, không ai thấu hiểu thì ông đã yêu say đắm Dehy - người con gái câm. Như một thiên thần, Dehy khiến con người ấy  phải gỡ bỏ cái mặt nạ của mình xuống, cô yêu âm nhạc của ông và đặc biệt là yêu ông – điều mà ông không ngờ tới. Nhưng rồi vì cái ích kỉ, sự yếu đuối và trái tim bất hạnh đầy hoài nghi của ông đã một lần hiểu nhầm Dehy. Khi ông gặp lại cô thì cố đã hiến tặng cả trái tim cho ông, cho âm nhạc của ông, thiên thần đã ngủ say… *** Vũ Lập Nhật Sinh năm 1990. Tốt nghiệp khoa Báo chí & Truyền thông, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.   Tác phẩm đã xuất bản Thế giới C, NXB Trẻ, 2011 Tình yêu là một nỗi buồn, Thái Hà Books & NXB Văn học, 2012  *** 8/1 năm thứ 1 Cisimi III Không thể chịu đựng nổi nữa rồi. Mình căm thù ông ta. Mình căm thù bà ta. Mình cũng căm thù cả hai con nhỏ gọi mình bằng em nhưng ánh mắt khi nhìn mình thì lại đầy khinh bỉ. Tại sao mình lại sinh ra trong cái gia đình này nhỉ? Tại sao mình lại có mặt trên đời? Thà mình không có trên đời này còn hơn! Lẽ ra, hôm nay là ngày đầu tiên viết nhật kí, mình muốn viết vào đây những dòng chữ vui vẻ một chút nhưng khắp người mình vẫn còn ê ẩm, nhắc mình nhớ đến ông khách ngày hôm qua. Ông ta thô bạo và làm mình đau đớn quá. Tại sao trên đời lại có những người thích làm chuyện đó đến như thế? Đây là ông khách thứ bao nhiêu rồi? Trong tương lai, mình còn phải tiếp bao nhiêu người nữa? ... 12/2 Cái con câm điếc! Đồ vô dụng! Mày chết quách đi... Mỗi lần đánh mình, mình nhìn thấy môi ông ta cứ mấp máy những câu này. Lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại... Vâng thưa ông, tôi cũng đang muốn chết đây. Sống làm gì chứ khi cứ phải làm vật trưng bày, triển lãm, cứ phải cố gắng đóng kịch và tỏ ra mình đáng thương hại lắm, cần sự giúp đỡ lắm, chỉ để nhận tiền? Mỗi khi tôi bị người của một tổ chức từ thiện nào đó từ chối vì lí do tôi chỉ bị câm điếc còn trí não hoàn toàn phát triển bình thường là ông lại đánh đập và mắng nhiếc tôi mãi những câu như thế sao? Tôi cũng muốn trí não mình chậm phát triển lắm chứ, vì như thế tôi đã không thể nào nhận biết những điều mà ông bà làm với tôi. Ôi trời ơi! Tại sao ngày xưa, tôi lại quên chỉnh nút “konino nis” khi làm tình trên giường với ông ta nhỉ? Cuộc sống đang đầy đủ, tự dưng bỗng... Sao nó không chết quách đi? Mỗi lần dắt mình đi gặp khách, mình nhìn thấy môi bà ta cứ mấp máy những câu này. Lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại... Vâng thưa bà, tôi cũng đang muốn chết đây. Sống làm gì khi cứ phải chịu những đau đớn thể xác tột cùng để đem lại những đồng bạc mua vui cho ông bà - những người chưa bao giờ đối xử với tôi như một con người đúng nghĩa? Ừ nhỉ, sao ngày xưa bà không cẩn thận, không bấm nút “konino nis”. Nếu bà làm như thế thì ngày hôm sau đã không thấy tôi nằm khóc trên giường rồi. Tôi đọc sách và biết trước kia muốn sinh con, người ta phải mang nặng đẻ đau chín tháng mới sinh được và người ta còn có thể phá thai. Còn bây giờ, chỉ cần quên bấm nút “konino nis” rồi làm tình và sáng hôm sau ngủ dậy thì thấy hậu quả ngay. Không muốn nó cũng đã như thế, làm sao mà giết được đứa bé để mang tội giết người. Tại mày mà nhà này chật thêm một chỗ, tụi tao không được mua sắm thỏa thích như lúc trước nữa, sống chật vật hơn. Sao mày không chết đi? ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Là Một Nỗi Buồn của tác giả Vũ Lập Nhật.