Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thề Non Nước

TIẾNG ĐÀN XUÂN : Một cuốn sách xuân đặc-biệt, in rất mỹ-thuật, phụ thêm nhiều tranh ảnh của những họa-sĩ có tiếng. Ngoài thơ, ca tiểu-thuyết còn có « thuốc nuôi xuân » dâm rượu bổ sức, cùng bùa-chú, thần-tiên pháp-thuật dạy người ta tàng hình, dùng sức thiêng-liêng cho nhân-tình yêu, thăng quan, phát tài. Chuyện là như những cuộc đấu xảo cười, đấu xảo khảo, đấu xảo chết, nhà xéc ho, v.v… do toàn những tay danh bút như Nguyễn-mạnh-Bổng, Mai-đăng-Đệ, Trịnh-đình-Dư, Vũ-duy-Thiện, Nguyễn-tiếng-Lãng, Nguyễn-Tố, Trần-văn-Huy, Nguyễn-xuân-Ngoạn, Tạ-mạnh-Khải, Nguyễn-văn-Phúc, Ái-Liên, Lê-thục-Nữ, v.v… Dày 80 trang, Giá 0p.28 một cuốn mỹ-thuật. RỪNG XANH MÁ PHẤN : Một bộ trinh-thám rất mới, rất hoạt-động vai chủ-động là một bọn thanh-niên Việt-Nam cấp tiến, đau-khổ, uất-ức vì bị cướp mất nguồn sống, gây nên một cuộc biến-đổi giữa chốn rừng xanh làm tiêu-bểu cho tất cả hủ-bại của ngàn xưa. Dày hơn trăm trang. Giá 0p.80. LY-DỊ : Ông Lê-Thanh, một phê bình gia có tài nhận xét đã vạch cho ta thấy rõ trong cuốn này những đau-khổ ngấm-ngầm của những đôi vợ chồng không thể yêu nhau, phải coi gia-đình như nấm mộ, coi những ngày chung sống như nỗi buồn-đau nhất. Giá 0p.45. Hỏi nhà xuất-bản Hương-Sơn 97, Hàng Bông, Hà-nội, mỗi cuốn thêm 0p.08 cước gửi thường, thêm 0p.40 gửi lĩnh hóa giao ngân, mỗi cuốn sau thêm 0p.04. Trả tiền bằng tem thư cũng được. *** Vân-Anh, một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem, thấy những đám mây bay tán-loạn thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm-hoài vô-hạn, bị cảnh đó khêu động, vụt nghĩ thân-thế con người ta, nhiều người bổn-lĩnh thật là quang-sáng mà phải những cảnh-ngộ ác-nghiệp làm cho đến u-âm sầu-thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô-lại kia, bỗng lại nghĩ thân-thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán-loạn, bầu giời vô-hạn, biết đâu là chỗ về. Đương nhàn-tưởng bồi-hồi, chợt nghe đồng-hồ nhà bên cạnh đã đánh mười một tiếng ; trong nhà, mẹ già gọi vào để bóp trán. Vừa quay mình vào thời thấy một người khách đến chơi. Vân-Anh mời vào. Uống nước xong, khách bảo làm cháo ăn và nói không phải gọi ai cả. Vân-Anh khi ấy xuống bếp mổ gà với đứa ở. Khách ngồi một mình, trông nhà có hai gian bằng tre, chỗ ngồi uống nước đó kê một đôi trường-kỷ tre, một cái án-thư, bên trong còn có một cái tủ chè bằng gỗ tạp ; một gian bên thời có hai cái giường kê liền nhau, cũng có hai cái chiếu cạp đỏ đã cũ, bên giường trong có mắc một cái màn trắng cũ và vá. Cách một bức phên chắn, còn một gian nhà nữa thời nghe có tiếng bà cụ già thường ho-hắng, như có ý mệt. Khách ngồi buồn, tự nghĩ một mình rằng : vào chơi nhà cô đầu, quang-cảnh thế này nghĩ thật buồn, song cũng tiện cho mình được ngủ qua một tối rồi mai đi ; lại nghĩ như người ả-đầu đó, trông cũng xinh-xắn và cũng phong-cách, sao không được có đông khách hát mà ăn ở bần-tiện đến như thế. Một lúc đã thấy bưng cháo lên thời một con ở ăn-mặc cũng rách-rưới. Vân-Anh lên lấy rượu, ngồi rót mời khách uống. Khách hỏi bên gian buồng trong có tiếng bà cụ già là ai. Vân-Anh nói là mẹ đẻ, mấy hôm vẫn nhọc mệt. Khách giục Vân-Anh vào xem bà cụ có bảo gì, mặc mình tự uống rượu không cần phải ngồi tiếp, Vân-Anh chạy vào qua, rồi lại ra, lên ngồi kề gần khách, múc thìa rượu, vừa cười vừa mời uống. Khách lấy tay gạt đi, rồi cứ cầm chén uống tự-nhiên, như quên mình là ngồi ở nhà cô đầu vậy. Vân-Anh nghĩ cũng lấy làm lạ, ngồi có ý ngắm nhận người khách, ăn-mặc thời nhũn-nhặn mà vẻ mặt rất lanh-lợi điều riêng gì. Suốt bữa rượu ấy, ngoài sự ăn uống, không có câu chuyện gì cả. Rượu xong, khách đi ngủ, đến sáng dậy, chi tiền rồi đi. Cách chừng một tuần-lễ nhà Vân-Anh lại có khách uống rượu, tức là người khách uống rượu cách một tuần lễ trước, mà bận này đến lại có mang một cái va-ly. Hôm ấy giời hơi mưa, trong lúc uống rượu, khách lại tự uống một mình mà uống tất bằng chén, Vân-Anh nghĩ lại lấy làm buồn cười. Một lúc, có người nhà cô-đầu khác đến gọi Vân-Anh đi mời rượu, Vân-Anh xin phép đi. Khách chỉ tự-nhiên mặc lòng. Hôm ấy bà cụ đã khỏi mệt, sau lúc Vân-Anh đi mời rượu, ra ngồi chơi ở trường-kỷ uống nước. Khách nhân hỏi chuyện về Vân-Anh. Bà cụ nói : « Con bé nhà tôi, tên nó là Vân-Anh, vẫn gọi là cái Vân. Từ bé cháu có học chữ nho, cũng đã biết làm thơ ». Bà cụ ngồi chơi một lát, rồi vào buồng nằm nghỉ. Khách lại tự uống rượu một mình. Khoảng hơn mười hai giờ, giời mưa to, Vân-Anh về, đã loáng-choáng say rượu. Khách ở nhà, uống cũng đã say. Vân-Anh lại ngồi bên, rót rượu mời uống. Khách cười, nói rằng : « Mời rượu thời phải có hãm chứ ? » Vân-Anh : « Hãm câu gì ? » - Chỉ muốn nghe một câu hãm bằng chữ nho. - Ai biết chữ nho mà hãm ; cũng chẳng thấy ai hãm bằng chữ nho bao giờ. - Không ai hãm bao giờ mà bây giờ hãm, thế nó mới « mới ». - Khốn như tôi không biết. - Tôi biết rằng chị biết. - Ô hay, cứ buộc vào người ta. - Thôi, hãm đi. - Thế ông đặt đi cho một câu. - Ai hãm thời người ấy phải đặt lấy, nhờ người đặt hộ thời còn có thú gì nữa ! - Tôi đặt lấy thời không biết có nghe được không. - Hãy cứ hãm đi, nghe được hay không, mặc người ta. Vân-Anh vừa mỉm cười, vừa nghĩ. Khách cũng cười mà cất chén uống rượu để đợi nghe. Vân-Anh nghĩ đã xong, rót chén rượu mời, hãm rằng : 鷄鳴風雨瀟瀟天涯遊子 藍橋神仙好惡姻缘 « Kê minh, phong vũ tiêu-tiêu ; Thiên-nhai du-tử, Lam-kiều thần-tiên Hảo, ác nhân-duyên ? » Khách nghe, thần-hồn như phiêu-động ; cạn chén, hỏi Vân-Anh rằng : « Thế trước chị học chữ nho được bao năm ? » - Tôi học từ năm lên sáu, đến năm mười sáu tuổi thời thôi. - Chị học ra làm sao ? - Cũng học đấy thôi, chẳng biết nó ra làm sao cả. - Trong lúc học, chị có tập làm văn, làm thơ gì không ? - Cũng có làm thơ cùng những câu đề vịnh lảm-nhảm. - Các bài của chị làm ra từ khi trước, bây giờ có bài nào còn giữ lại hay còn nhớ không ? - Kể mất đi cũng nhiều, nhưng tôi cũng giữ được một ít, vẫn cuộn để ở trong hòm, những lúc nào buồn quá thời lại giở ra xem chơi một mình. - Bây giờ chị thử lấy ra đây xem. Vân-Anh đi mở hòm, lấy cuốn văn ra. Ông khách giở xem, thấy cũng có nhiều bài thông lắm. Xem đến bài vịnh lĩnh-mai 嶺梅 có hai câu rằng : 含精不向東風笑 獨伴青松蹅雪遊 « Hàm tinh bất hướng đông-phong tiếu, Độc bạn thanh-tùng đạp tuyết du ». Nghĩ như hai câu này thời thật có phong-diệu, cốt-cách, mà tự người làm thơ cũng không đáng trụy thân vào trong đám binh-khang. Khách xem hết các bài văn thơ chữ nho, lại hỏi về văn quốc-âm. Vân-Anh đọc một bài « vịnh sen hồ Hoàn-kiếm » rằng : « Hồ Gươm, sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc, ai là không chơi. Sen tàn, lá rách tả-tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc-thương, Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc lá hương với đời, Tủi thân sen lại giận giời, Cho chi hương sắc ? cho người trọng khinh ! » Khách nói : « Văn cũng hay, nhưng sao đặt đến buồn quá thế ! » Vân-Anh : « Bài này tôi mới làm. Trong lúc buồn có làm ra vui thế nào được ». Khách ngậm-ngùi một lúc rồi nói rằng : « Nghĩ như chị, người như thế, tài-hoa như thế, mà sao không thấy nổi tiếng ? Chắc lại cũng không được đông khách hát, cho nên trong nhà ở cũng có ý cẩu-thả ». Vân-Anh đến lúc ấy lại buồn lắm, giả nhời khách rằng : « Ông nghĩ cho như vậy, chớ như tôi thời còn có gì mà nổi tiếng. Cứ về bên chữ nho bây giờ, đến như ông Nghè, ông Cử, cũng còn nhiều ông chẳng có vinh-hiển gì ; huống hồ là một người cô-đầu biết đôi ba câu thơ, còn lấy gì làm có giá được. Từ khi tôi ra hát đến nay, hôm nay mới thấy có ông hỏi đến là một. Những cái sự ấy bây giờ đã không ai coi ra gì, nhà ở lại lụp-sụp rơm rác, cũng chẳng có mấy người buồn đến, thỉnh thoảng mới có một vài ông khách đến ăn cháo, còn thời chỉ là đi hát mảnh, lại cũng không khéo chiều quan viên, như thế tài nào mà không phải chịu bần-tiện ? » Lúc ấy đã đến hơn bốn giờ sáng, khách bảo xếp bỏ rượu để đi ngủ. Vân-Anh buông màn cho khách ngủ, rồi vào trong nhà với mẹ. Ngày mai, giời mưa dầm mãi từ sáng cho đến chiều. Lúc người khách ngủ dậy thời vào khoảng chín, mười giờ. Nguyên ý người khách đến uống rượu bận ấy, hoặc định ngủ một tối rồi sáng hôm sau đi đâu thời không biết ; nhân có một đêm nói chuyện, cái cảm tình đối với Vân-Anh thực thương tiếc vô hạn. Lại nhân hôm ấy giời mưa dầm, cho nên thánh ra lại giữ khách ở lại. Mười giờ hơn, Vân-Anh nói cùng khách xin để làm cơm sáng ăn, khách cũng ừ nhưng không có đưa tiền. Trong nhà Vân-Anh từ tối hôm trước chỉ còn có một con gà thời đã làm rượu rồi mà cũng phải vay thêm đồ ăn mới đủ dọn ; đến lúc ấy không biết làm thế nào, nghĩ người khách đi lại chưa thân, cũng không tiện ra hỏi. Hai mẹ con ra vào thì thầm bàn cùng nhau, khách cũng hiểu tinh ý, nhưng cứ tự nhiên như không biết, chỉ nằm xem những bài thơ văn của Vân-Anh, rồi lại mở va-li ra, lấy giấy bút để viết. Độ 12 giờ hơn, thấy có cơm bưng lên, cũng lịch-sự. Khách bảo Vân-Anh mời cả bà cụ ra cùng ăn cơm, nhưng bà cụ xin từ chối. Bữa ấy hai người cùng ngồi uống rượu ; ngoài bức mành thưa, giời vừa mưa vừa gió, những người đi ngoài đường thật là lận-lội mà trong chỗ mâm rượu thời một người du-tử ngồi đối một mỹ-nhân cùng thù tạc, đàm-đạo những nhân tình thế cố cùng là sự làm văn làm thơ. Khách tuy không phải là người say đắm ở nơi bình-khang, nhưng lúc ấy bất-giác cũng cao hứng. Đương lúc tửu-hứng, Vân-Anh nói rằng : « Tôi có một bức tranh sơn-thủy, là của gia-bảo, vẫn cuộn để trong hòm, thường muốn đề một bài quốc-văn mà nghĩ lại không xứng ; nay không mấy khi được gặp cao-nhân, xin hạ bút đề cho một bài, thực là quí hóa quá ». Khách nói : « Sự đề vịnh nguyên đã không dễ, lại đề vào một bức họa trân-trọng thời thực không dám nhận ; nhưng chị thử lấy cho xem thời hay lắm ». Vân-Anh đi mở hòm lấy bức tranh đem ra, khách giở xem, thực là một bức cổ-họa. Trông khoảng trên có đề ba chữ triện, không hiểu là chữ gì. Vân-Anh nói đây là chữ nôm Khách nhận ra thời là ba chữ « THỀ NON NƯỚC » Vân-Anh nói : « Cứ ba chữ này, nguyên nghĩa thường thời là chỉ non thề nước ; đề vào đây thời là làm sao ? » Khách nghĩ một lúc, rồi nói : « Đây hoặc là người ta mượn câu sẵn mà khiến về nghĩa riêng. Ba chữ đề đây, phải nhận nghĩa là non với nước, hai cái thề với nhau. Như thế, có nhẽ mới hợp ý bức họa ». Vân : « Dẫu nhận là như thế, nhưng đây chỉ vẽ một dẫy núi, còn không thấy sông nước gì cả lấy gì làm hai cái thề với nhau ? » Khách : « Đây dẫu không có vẽ sông nước, nhưng nhận kỹ một ngàn dâu ở chân núi này, ý tức là sông nước khi xưa mà tang-thương đã biến-đổi ». Vân : « Dẫu nhận cho là như thế nhưng lấy gì làm thề ? » Khách : « Nguyên bức họa này, ý chỉ là một bức tang-thương, cho nên ở dưới vẽ một ngàn dâu tựa như thế khúc sông ; trên núi thời như mây, như tuyết, như mấy cây mai già, như bóng tà-dương, đều là để tả cái tình-cảnh thê-thảm. Bởi thế cho nên ba chữ đề này, dẫu là lấy câu sẵn mà đề vào, song thực tỏ ra được cái tình thương nhớ của dẫy núi tức là vì dẫy núi mà cảm nỗi tang-thương. Bây giờ tất cứ trong bức họa mà muốn tìm cho ra thế nào là thề, như thế thời nệ vì chữ đề mà hại đến nguyên ý của bức họa ». Vân : « Vậy thế bây giờ muốn đề một bài thời thế nào là phải ? » Khách : « Bây giờ nếu muốn đề một bài phải nên trông vào bức họa, mà lại lấy ba chữ đó làm đầu đề. Chú-trọng vào một chữ non, lấy chữ non làm chủ, vì rằng non đó thực là chủ-trương trong bức họa mà lại có ở trong đề ; còn chữ thề với chữ nước thời trong họa không có mà trong đề có, cũng phải nhận như có mà chỉ nên nói nhẹ như không, vì là thề thời về sự đã qua mà nước thời không trông thấy ở đó. Nghĩa như thế, hoặc có phải chẳng ? » Mời các bạn đón đọc Thề Non Nước của tác giả Tản Đà.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phế Tích Tráng Lệ - Jess Walter
Jess Walter viết Phế tích tráng lệ năm ông 31 tuổi. Và khi dòng cuối cùng của quyển sách đầy chất thơ hoàn thành, ngẩng mặt lên, ông đã bước qua tuổi 46. Nếu có điều gì đặc biệt trong cuốn sách best-seller ngốn mất của Walter hết 15 năm này thì đó chính là thời gian, là tuổi trẻ, là những trải nghiệm một khi đã đi qua, người ta cần lắng lại để trải lòng hoặc trút bỏ. Tựa như những nhân vật trong truyện cần thời gian để trưởng thành, để vỗ về những nỗi đau, sai lầm của tuổi trẻ và gạn đục những dục vọng trong lòng. Để khi ngoái lại, có thể mỉm cười nhìn những trầm tích đã gieo. Lấy cảm hứng từ thời kỳ hoàng kim của Hollywood, và bằng sự am hiểu tường tận ngóc ngách của ngành công nghiệp giải trí, Walter rất khéo léo cài cắm câu chuyện của ông cùng những nhân vật có thật khiến tính thuyết phục của nó ở mức tuyệt đối. Sự cuốn hút của quyển sách nằm ở chất thơ và những hình ảnh như một khung hình điện ảnh, đẹp và buồn, rực rỡ và choáng ngợp, u ám và bế tắc,… trong khoảng không gian và thời gian được cài cắm phức điệu, đan xem vô cùng hợp lý. Đáng tiếc phần nửa sau, khi Pasquale chọn được cánh cửa cho anh cũng là lúc, các nhân vật tìm được lối ra cho con đường của họ, tính thơ của tác phẩm giảm nhiệt, nhịp truyện trở nên vội vã như chính hành trình của ông cụ Pasquale trên đất Mỹ trong thời hiện đại. Trên tất cả, Phế tích tráng lệ được viết bằng trải nghiệm và sự song hành trưởng thành của tác giả, nên nó khiến người đọc xúc động và suy ngẫm hơn là tiêu khiển đơn thuần. Nó là một tiếng cười giòn giã nhưng đau đớn và đắng cay vào xã hội hiện đại phồn tạp, vào trí nhớ hời hợt của những kẻ tự cho mình quyền nắm trong tay số phận người khác,… Có rất nhiều chiêm nghiệm từ quyển sách, ở mỗi góc nhìn của nhân vật, thật khó để chọn ra đây một vài câu đáng nhớ. Cách tốt nhất là, hãy thử chiêm nghiệm cùng tác giả. *** Câu chuyện khởi đầu năm 1962 ở một thị trấn nhỏ bên bờ biển nước Ý có tên Porto Vergogna. Ở đó chàng thanh niên tên là Pasquale Tursi sống với bà mẹ tàn tật và cô chị Valeria. Thị trấn chỉ là tập hợp khoảng mấy chục ngôi nhà sơn trắng cùng một tháp chuông bỏ hoang, và trung tâm thương mại duy nhất của nó là khách sạn và quán cà phê do nhà Pasquale làm chủ. Chàng trai trẻ Pasquale Tursi nuôi mộng biến nơi đây thành khu nghỉ dưỡng sầm uất bậc nhất nước Ý. Nhưng người khách nước ngoài duy nhất từng nghỉ lại đây là một cựu binh Mỹ có tên Alvis Bender. Ông ta tới đây mỗi năm hai tuần để viết một cuốn sách mà mãi vẫn chỉ xong được chương mở đầu. Cho đến một ngày, một nàng diễn viên xinh đẹp Dee Morray tới nghỉ tại khách sạn nhà Pasquale. Chàng trai trẻ Pasquale phải lòng cô gái ngay từ cái nhìn đầu tiên. Mọi chuyện thay đổi từ đó. Phế Tích Tráng Lệ là chuyến đi đầy màu sắc qua nước Ý thập niên 60 và Hollywood hiện đại. Câu chuyện diễn tiến trong mấy thập niên với đời sống phức tạp của khoảng mấy chục nhân vật cũng đầy màu sắc. Các câu chuyện được xen kẽ bằng chương mở đầu trong cuốn sách của người cựu binh Mỹ, phần đầu cuốn hồi ký của một nhà làm phim Mỹ bất đắc chí và một vở kịch. Tất cả kết nối lại thành một cuốn tiểu thuyết đẹp đẽ, hài hước, giàu tình cảm.   Mời các bạn đón đọc Phế Tích Tráng Lệ của tác giả Jess Walter.
Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể - Carly Phillips
Duyên phận luôn được định đoạt và nhiều khi tình yêu tới không chỉ đơn thuần là vô cớ. Ẩn chứa sau một chiếc nhẫn cổ là vô số bí mật đến bất ngờ. Sam Cooper ("Coop") - chàng phóng viên chuyên viết về đề tài hình sự - đã trở thành nạn nhân mới nhất trên báo do mục Blog chàng độc thân đã túm chặt lấy anh và tung hô rằng anh là một mẫu đàn ông lý tưởng mới nhất có thể lấy làm chồng ở thành phố New York. Mọi rắc rối dồn dập kéo tới cùng hàng tá đồ lót khêu gợi do hàng loạt phụ nữ độc thân trong thành phố gửi tặng Coop. Nguyên do của mọi sự đeo đuổi phiền nhiễu này khởi nguồn từ lúc anh có công chặn đứng một vụ cướp tại một cửa hàng trang sức và được nhận phần thưởng "được quyền chọn bất kỳ chiếc nhẫn nào". Thờ ơ với những cô nàng đeo bám, sự chú ý của Coop hoàn toàn dành cho Lexie Davis, người phụ nữ duy nhất trong thành phố tuyên bố rằng không hứng thú gì với tình trạng độc thân của anh. Thế nhưng Lexie lại chú ý vào chiếc nhẫn cổ của Coop - phần thưởng mà anh đã chọn, và lịch sử của nó có thể đáng hổ thẹn với gia đình cô. Khi cuộc điều tra xoay quanh chiếc nhẫn của Coop bắt đầu để hé lộ ra sự thật, liệu Lexie có thể giao trái tim mình và các bí mật của gia đình cô cho anh? *** Bộ Bachelor Blogs gồm có: Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể Đố Dám Yêu Em ... *** "Carly Phillips" là bút danh mà tiểu thuyết gia Karen Drogin đã sử dụng làm phụ đề cho hơn hai mươi ba cuốn tiểu thuyết lãng mạn đương đại bán chạy nhất mà cô đã viết. Theo CarlyPhillips.com, trang mạng của cô, Drogin là một cựu luật sư không hài lòng với việc hành nghề luật sư của mình. Các tác phẩm của cô là sự hòa trộn tinh tế giữa tình yêu, sự lãng mạn, cảm xúc và giải trí. Carly Phillips luôn là tác giả ăn khách nhất trên New York Times, USA Today, Publisher Weekly bầu chọn. Tác phẩm của cô đã được bán bản quyền cho nhiều nước trên thế giới. ***     Tin nóng hổi! Daily Post rất vui mừng tuyên bố mối quan hệ hợp tác với trang Blog Chàng Độc Thân, sẽ mang đến cho các bạn các tin tức về những người đàn ông mới nổi tiếng nhất, cả ở trên mạng và trên báo chí! Hãy dõi theo những anh chàng độc thân phù hợp nhất để làm chồng của thành phố: từ những người cha nuôi con một mình đến những người lính cứu hỏa cho đến những người cao quý nhất của New York, họ sẽ là những người làm nên sự khác biệt. Bạn có biết người anh hùng của mỗi ngày không? Nếu biết thì hãy bầu cho họ! Anh chàng độc thân nào trở thành tiêu điểm tiếp theo sẽ phụ thuộc vào các bạn!   Mời các bạn đón đọc Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể của tác giả Carly Phillips.
Vết Nhơ Của Người
Coleman Silk, một giáo sư đại học đáng kính, hẳn đã không bao giờ ngờ được rằng sau gần nửa thế kỷ qua mặt cả thế giới với một bí mật vĩ đại, cuộc đời ông lại bị hủy hoại bắt đầu từ một lời buộc tội ngớ ngẩn và dối trá: tội phân biệt chủng tộc. Vết nhơ của người là một bi kịch lạ thường, một kiệt tác đầy trăn trở về con người bị nghiền nát bởi những nỗi ám ảnh đạo đức và thanh tẩy của kẻ khác. Tràn ngập những hồi tưởng, những đối thoại, những suy nghĩ đẩy cốt truyện xuống hàng hầu như thứ yếu, nhạo báng pha trộn với trắc ẩn, lạnh lùng đặt kế bên cuồng nộ, Vết nhơ của người đã viết về thân phận con người với một sự mãnh liệt có thể khiến người đọc nghẹt thở. Lần theo cuộc đời đáng kinh ngạc của giáo sư Silk, Philip Roth, bằng một bút lực chưa bao giờ thất bại trong việc biến tác phẩm của mình trở thành một trải nghiệm đọc vừa thử thách vừa khoan khoái, đã đặt ra những câu hỏi quyết liệt về những thứ nhãn dán mà xã hội áp đặt lên con người, thậm chí cả về cái ranh giới phân chia thiện-ác mà từ lâu đã hằn sâu trong nhận thức nói chung. *** AI CŨNG BIẾT Chính vào mùa hè năm 1998 ấy mà ông hàng xóm Coleman Silk của tôi - ông này, trước khi nghỉ hưu cách nay hai năm, vốn là giáo sư môn văn học Hy La ở Đại học Athena trong thị trấn suốt hơn hai chục năm sau đó làm chủ tịch hội đồng giảng viên thêm mười sáu năm nữa - tâm sự với tôi rằng, ở tuổi bảy mốt, ông đang dan díu với một cô lao công ba mươi tư tuổi đang làm việc ở trường. Ngoài ra hai lần một tuần cô còn lau dọn trạm bưu điện thị trấn, một căn chòi gỗ nhỏ xám xịt trông cứ như nó từng che chở một gia đình dân ngụ cư tới từ Oklahoma khỏi những cơn bão cát hồi thập niên 1930 và, đứng một mình lẻ loi đối diện trạm xăng và cửa hàng tạp hóa bên kia đường, nó giương cao lá cờ Mỹ tại giao lộ của hai con đường sầm uất nhất cái thị trấn phố núi này. Coleman thấy cô lần đầu tiên khi cô đang lau sàn trạm bưu điện một ngày nọ ông ghé vào, vài phút trước giờ đóng cửa, để nhận thư từ - một phụ nữ gầy, cao, góc cạnh với mái tóc vàng nhuốm bạc cột gọn thành túm đuôi ngựa sau gáy và có nét mặt như tạc, kiểu tạc thô, thường đi liền với những bà vợ lam lũ, sùng đạo đã nếm trải những buổi đầu vất vả của miền New England, mẫu phụ nữ thuộc địa khắc khổ bị khóa chặt trong nền luân lý thống trị thời đó và tuân theo nó. Tên cô là Faunia Farley, và dù những nỗi khốn khổ mà cô phải chịu đựng là gì đi chăng nữa thì cô cũng giấu kín chúng đằng sau cái kiểu mặt xương xương vô hồn như thể nó che chẳng giấu điều gì mà chỉ toát lên một nỗi cô đơn mênh mông. Faunia sống trong một căn phòng tại trại bò sữa địa phương nơi cô phụ việc vắt sữa để trừ tiền thuê trọ. Cô từng theo học trung học trong hai năm. Mùa hè mà Coleman tâm sự với tôi về Faunia Farley và bí mật của họ cũng là mùa hè mà, khá trùng hợp, bí mật của Bill Clinton được hé lộ tới từng chi tiết đáng xấu hổ cuối cùng - từng chi tiết đời thực cuối cùng, sự sống động, giống như sự nhục nhã, ứa ra từ sự cay độc của cái dữ kiện cụ thể. Chúng ta chưa từng có quãng thời gian nào như thế kể từ vụ người ta vớ được ảnh khỏa thân của tân Hoa hậu Mỹ trên một số báo Penthouse cũ, những bức ảnh chụp cô ta tao nhã tạo dáng trong tư thế quỳ và nằm ngửa đã buộc cô thiếu nữ bị ô danh đó phải trả lại vương miện mà tiến bước trở thành một ngôi sao nhạc pop lớn. Năm chín mươi tám ở New England là một mùa hè của hơi ấm và ánh nắng tuyệt vời, còn ở môn bóng chày là một mùa hè của trận chiến huyền thoại giữa một nam thần home run da trắng với một nam thần home run da nâu*, còn trên cả nước Mỹ thì là mùa hè hơi nồng lòng mộ đạo, hơi nồng sự thanh khiết, khi chủ nghĩa khủng bố - vốn đã trở thành mối đe dọa bao trùm đối với an ninh quốc gia - được nối tiếp bằng trò mút c.., và một ông tổng thống trung niên trẻ trung, sung mãn với một nhân viên hăm mốt tuổi trơ tráo, đắm đuối chơi nhau trong Phòng Bầu dục như hai đứa mới lớn trong bãi đậu xe làm sống lại niềm đam mê cộng đồng cổ xưa nhất của nước Mỹ, về mặt lịch sử có lẽ là lạc thú bội bạc và tai hại nhất: sự đê mê của thói cao đạo. Trong quốc hội, trên báo chí, và trên các trang mạng, đám tởm lợm công chính thích gây chú ý, điên cuồng kết tội, lên án, và trừng phạt, hùng hồn lớn tiếng dạy đời khắp nơi: tất cả chìm trong một cơn cuồng loạn có tính toán với cái tinh thần mà Hawthorne (người, hồi thập niên 1860, sống cách chỗ tôi chẳng mấy dặm) đã nhận ra từ buổi đầu non trẻ của đất nước rất lâu về trước, chính là “sự ngược đãi”; tất cả bọn họ đều hăm hở tiến hành những nghi thức thanh tẩy khắc nghiệt sẽ cắt đứt con cu chổng ngược ra khỏi ngành hành pháp, nhờ đó khiến mọi chuyện trở nên thoải mái và an toàn đủ cho cô con gái mười tuổi của Thượng nghị sĩ Lieberman lại có thể ngồi xem ti vi với ông bố xấu hổ của nó. Không, nếu bạn chưa sống qua năm 1998, bạn không hiểu được thói cao đạo nghĩa là gì đâu. William F. Buckley, nhà bình luận cánh hữu được in ở một loạt các báo, viết, “Khi Abelard* làm điều đó, người ta có thể ngăn không cho nó tái diễn,” bóng gió rằng việc làm sai trái của tổng thống - ở chỗ khác Buckley lại gọi đó là “thói dâm dục vô độ” của Clinton - có thể được cứu vãn tốt nhất không phải bằng một biện pháp hiền lành như luận tội mà, tốt hơn là, bằng kiểu trừng phạt thời trung cổ đã được dành cho giáo sĩ Abelard do đám đồng sự thích giương dao của tay bạn đồng tu với Abelard, giáo sĩ Fulbert, thực hiện, vì cái tội lén lút quyến rũ và kết hôn với cháu gái của Fulbert, trinh nữ Héloise. Không như giáo lệnh của Khomeini kết án tử cho Salman Rushdie, ước muốn thiết tha của Buckley mong được thấy đòn trừng phạt bằng thiến hoạn nhằm răn đe này không kèm theo mối lợi tiền bạc cho bất kỳ thủ phạm tương lai nào. Tuy nhiên, nó được thúc đẩy bởi một tinh thần nghiêm nhặt không kém tinh thần của vị đại lão giáo chủ nọ, và nhân danh những lý tưởng không kém phần cao đạo. Đó là mùa hè ở Mỹ khi mà cảm giác buồn nôn trở lại, khi mà trò đùa cợt không ngừng lại, khi mà những suy đoán và đặt giả thuyết này nọ và lối nói cường điệu không ngừng lại, khi mà nghĩa vụ giải thích cho con cái về cuộc sống của người lớn bị gác lại để duy trì trong đầu óc chúng mọi ảo tưởng về cuộc sống người lớn, khi mà sự nhỏ mọn của con người đơn giản là nghiền nát tất cả, khi mà một thứ ma quỷ đã sổng chuồng trong đất nước và, ở cả hai phe, người ta ai nấy đều băn khoăn “Tại sao chúng ta lại điên đến thế?” khi đàn ông cũng như đàn bà, lúc thức dậy vào buổi sáng, khám phá ra rằng hồi đêm, trong một giấc ngủ đã đưa họ đi xa hơn nỗi ghen tị và thù ghét, họ đã mơ tới vẻ trơ tráo của Bill Clinton. Còn tôi thì mơ thấy một biểu ngữ khổng lồ được quấn theo kiểu trào lưu Dada, như một tác phẩm bao gói của Christo*, từ đầu này tới đầu kia của Nhà Trắng và mang dòng chữ MỘT CON NGƯỜI BẰNG XƯƠNG BẰNG THỊT SỐNG Ở ĐÂY. Đó là mùa hè khi mà - lần thứ một tỉ - sự lộn xộn, hổ lốn, hỗn độn đó cho thấy nó còn tinh tế hơn ý thức hệ của kẻ này và hệ đạo lý của kẻ khác. Đó là mùa hè khi mà con cu của một tổng thống hiện diện trong tâm trí của từng người một, và cuộc sống, với tất cả sự bẩn thỉu trơ tráo của nó, một lần nữa làm cả nước Mỹ rối loạn. Đôi khi vào một thứ Bảy, Coleman Silk sẽ gọi điện và mời tôi chạy xe từ chỗ tôi ở phía bên này núi sang chỗ ông sau bữa tối để nghe nhạc, hoặc để chơi bài gin rummy*, một điểm ăn một xu, hoặc ngồi trong phòng khách vài giờ và nhâm nhi ít cognac và giúp ông vượt qua cái mà với ông luôn là buổi tối tồi tệ nhất trong tuần. Đến mùa hè 1998, ông sống một mình trên đó - một mình trong căn nhà cũ lớn lát ván ghép sơn trắng nơi ông đã cùng bà vợ Iris nuôi lớn bốn đứa con - đã được gần hai năm, kể từ khi Iris bị đột quỵ và qua đời đột ngột trong khi ông đang mải chiến đấu với trường đại học về cáo buộc phân biệt chủng tộc do hai sinh viên trong lớp nhắm vào ông. Đến thời điểm đó Coleman đã ở Athena gần hết cuộc đời hàn lâm của mình, một lãng tử thành thị ngọt lịm như mía, cởi mở, sắc sảo, có chút gì đó của một chiến binh, chút gì đó của một nhà điều hành, chứ chẳng có mấy tí của một giáo sư mô phạm kiểu mẫu dạy tiếng Hy Lạp và La tinh (thể hiện qua Câu lạc bộ Hy La Thường đàm mà ông khởi xướng, theo kiểu tinh thần dị giáo, khi còn là một giảng viên trẻ). Khóa học tổng quan đáng nể của ông về văn học Hy Lạp cổ qua bản dịch - được gọi là GHM, viết tắt của Gods (thần linh), Heroes (anh hùng) và Myth (thần thoại) - rất được lòng đám sinh viên chính bởi nhờ tất cả những sự trực tiếp, thẳng thắn và đầy thuyết phục theo kiểu phi hàn lâm trong cách ứng xử của ông. “Các bạn biết văn học châu Âu khởi đầu thế nào không?” ông thường hỏi, sau khi điểm danh ở buổi học đầu tiên của lớp. “Bằng một cuộc cãi cọ. Toàn bộ văn học Âu châu nảy sinh từ một cuộc tranh luận.” Rồi ông cầm cuốn Iliad lên và đọc cho cả lớp nghe những câu thơ mở đầu. “ ‘Hỡi thần thi ca, hãy hát về nỗi uất hận tàn hại của Achilles... Khởi sự nơi họ lần đầu tranh cãi, Agamemnon vua của loài người, và Achilles vĩ đại.’ Và họ tranh cãi nhau về cái gì, hai tâm hồn bạo liệt, dũng mãnh ấy? Nó cũng tầm thường như một trận cãi cọ trong quán rượu. Họ cãi nhau về phụ nữ. Cụ thể là một thiếu nữ. Một thiếu nữ bị tước khỏi cha cô ta. Một thiếu nữ bị bắt cóc trong chiến trận. Mia kouri - cô ta được tả như thế trong cuốn sử thi này. Mia, như trong tiếng Hy Lạp hiện đại, là mạo từ không xác định ‘một’; kouri, tức cô gái, trong tiếng Hy Lạp hiện đại đã chuyển thành kori,có nghĩa là con gái ruột. Lúc này, Agamemnon mê thiếu nữ ấy hơn vợ mình, Clytemnestra. ‘Clytemnestra không đẹp bằng cô ấy,’ ông ta nói, ‘ở khuôn mặt cũng như vóc dáng.’ Điều đó chỉ ra rất rõ tại sao ông ta không muốn từ bỏ thiếu nữ này, phải vậy không? Khi Achilles yêu cầu Agamemnon trả cô gái lại cho cha cô ta để vuốt giận Apollo, vị thần vốn đang vì việc cô gái bị bắt cóc mà nổi đóa lên giết người đến nơi, Agamemnon từ chối: ông ta sẽ chỉ đồng ý nếu Achilles giao cho ông ta cô gái của anh để bù lại. Thế là Achilles bốc hỏa. Achilles bừng bừng sát khí: người đàn ông dễ nổi giận nhất trong số những gã man di dễ nổi khùng mà một nhà văn từng được sung sướng mô tả lại; đặc biệt khi chuyện đó lại liên quan đến uy tín và dục vọng của anh ta, cỗ máy giết người siêu nhạy cảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Achilles lừng danh: cảm thấy cô độc và bị ruồng bỏ bởi một sự xúc phạm tới danh dự. Achilles anh hùng vĩ đại, người, bằng sức mạnh cơn thịnh nộ trước sự lăng mạ - sự lăng mạ vì không cứu được cô gái - đã tự cô lập mình, tự đặt mình một cách ngang bướng bên ngoài chính cái xã hội mà anh ta là người bảo vệ đầy vinh quang và sự hiện diện của anh là vô cùng cần thiết. Cuộc cãi cọ ngày ấy, một cuộc cãi cọ hung bạo về một thiếu nữ và thân xác trẻ trung của cô ta cùng những niềm khoái lạc của sự mê đắm tình dục: nó, dù xấu dù tốt, trong cái hành động xúc phạm quyền lợi của dương vật, phẩm giá của dương vật, của nguồn sinh lực sung mãn nơi một ông hoàng chiến binh, chính là cách mà nền văn học hư cấu vĩ đại của châu Âu khởi đầu, và đó là lý do mà hôm nay, sau gần ba ngàn năm, chúng ta sẽ bắt đầu ở câu chuyện của hai bọn họ…” Coleman nằm trong nhóm thiểu số người Do Thái trong đội ngũ giảng dạy ở Athena khi ông được nhận vào làm và có lẽ cũng là một trong những người Do Thái đầu tiên được phép dạy tại khoa văn học Hy La ở bất cứ đâu trên nước Mỹ; một vài năm trước đó, người Do Thái duy nhất của Athena là E. I. Lonoff, nhà văn viết truyện ngắn hầu như đã bị quên lãng và cũng là người mà, từ hồi tôi còn là một tác giả tập sự mới được xuất bản, vẫn còn chật vật và đang hăm hở tìm kiếm sự công nhận của một bậc thầy, tôi đã từng có một chuyến viếng thăm đáng nhớ. Trong suốt những năm tám mươi và lẹm cả vào thập niên chín mươi, Coleman cũng là người Do Thái đầu tiên và duy nhất từng công tác tại Athena trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên; rồi, vào năm 1995, sau khi từ chức chủ tịch để quay lại sự nghiệp giảng đường, ông quay lại dạy hai lớp trực thuộc chương trình ngôn ngữ và văn chương tích hợp vốn đã nuốt trọn cả khoa văn học cổ điển Hy La và được giáo sư Delphine Roux điều hành. Trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên, và với sự ủng hộ hết lòng của vị hiệu trưởng mới đầy tham vọng, Coleman đã dẫn dắt trường đại học cổ hủ, tù hãm, Lờ Đờ Trũng Thấp này và, không phải là không mạnh tay nghiền nát, đặt dấu chấm hết cho cái vai trò trang trại giải khuây cho các quý ông của nơi này bằng cách huỵch toẹt khuyến khích những người vô dụng trong số vệ binh già của hội đồng giáo sư tính chuyện về hưu sớm, và tuyển mộ những phó giáo sư trẻ nhiều tham vọng, đồng thời cách mạng hóa chương trình giảng dạy. Hầu như chắc chắn rằng đến lúc ông về hưu, tại bất cứ thời điểm nào mà ông muốn, và nếu không có rắc rối gì, thì hẳn sẽ có một tuyển tập những bài viết được xuất bản để vinh danh ông, hẳn sẽ ra đời một chuỗi Bài giảng Coleman Silk mở cửa cho công chúng, sẽ có một cái ghế trong khoa văn học cổ điển mang tên ông, và có lẽ - xét đến tầm quan trọng của ông đối với việc phục hưng nơi này trong thế kỷ hai mươi - cả tòa nhà dạy các môn khoa học xã hội hoặc thậm chí giảng đường North Hall, công trình trọng điểm của trường, cũng sẽ được đổi tên để vinh danh ông sau khi ông mất. Trong thế giới hàn lâm nhỏ bé này, nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời mình, đáng ra ông đã thôi không còn bị ghét bỏ hoặc thậm chí sợ hãi hoặc trở thành chủ đề đàm tiếu, mà thay vào đó là được chính thức xiển dương mãi mãi. Mời bạn đón đọc Vết Nhơ Của Người của tác giả Philip Roth & Phạm Viên Phương(dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).
Người Yêu Của BuBe - Carlo Cassola
Tiểu thuyết Người yêu của Bube (La ragazza di Bube) ngay khi ra mắt độc giả vào năm 1960 đã gây một tiếng vang lớn trong làng văn học Ý, và đoạt giải thưởng văn học Premio Strega, một trong những giải thưởng văn học lớn của Ý. Tiểu thuyết được nhà văn Carlo Cassola (1917-1987) viết trong khoảng những năm 1958-1959 dựa trên một câu chuyện có thật xảy ra ngay sau khi cuộc kháng chiến giải phóng nước Ý khỏi ách phát xít của Mussolini và Hitler vừa chấm dứt (1945). Câu chuyện lấy bối cảnh làng Val d’Elsa ở vùng Toscana thuộc miền Trung nước Ý, tại thời điểm Thế chiến thứ hai vừa kết thúc. Các nhân vật trong truyện còn đang sống trong dư âm của bầu không khí hào hùng và cũng đầy đam mê tuổi trẻ, của cuộc kháng chiến chống phát xít Ý và Đức. Bube, một chiến sĩ du kích cộng sản chống phát xít, từ chiến khu trở về và đến thăm gia đình người đồng chí đã hy sinh trong Người yêu của Bube kháng chiến. Anh gặp Mara, em gái của người đồng chí, và hai người yêu nhau. Giữa lúc tình yêu của Bube và Mara vừa chớm nở với tất cả những khao khát và say đắm của tình yêu đầu đời thì một biến cố đã xảy ra: trong một cuộc xô xát, khi tay cảnh sát trưởng bắn chết một đồng chí trong nhóm, Bube và một người bạn khác đã bắn chết hắn và con trai hắn. Đột nhiên, đôi tình nhân đứng trước một thử thách lớn của tình yêu: Bube phải chạy trốn sang Pháp để tránh bị truy lùng, trong khi Mara ở lại quê nhà vắng bặt tin anh. Đêm trước khi Bube lên đường chạy trốn ra khỏi nước Ý, anh và Mara đã lần đầu thực sự yêu nhau với những tình cảm trong trắng và hồn nhiên của những người lần đầu biết yêu. Nổi bật trong truyện là hình tượng “người yêu của Bube.” Sách đã khắc họa rất sinh động quá trình biến đổi của Mara: trước những sóng gió bão táp của cuộc đời, từ một cô gái mới lớn mười sáu tuổi quê mùa và hồn nhiên, rất thông minh sắc sảo nhưng cũng rất trẻ con, Mara dần trở thành một người phụ nữ đầm tính, sâu sắc và tự chủ ở tuổi hai mươi lăm. Lúc đầu, Mara chỉ chấp nhận Bube để có bạn trai đem khoe với bạn bè, cô đồng ý sang ra mắt gia đình Bube cũng để được ra tỉnh mua giày cao gót và túi xách. Nhưng rồi tình yêu đến và cô đã dần trưởng thành. Một chi tiết gây xúc động: đêm trước khi Bube ra đi, Mara đã từ chối nhận số tiền anh cho cô mua túi xách, để anh đem theo phòng thân. Sau đó là những tháng năm đằng đẵng cô chờ đợi người yêu trong bặt vô âm tín, khi tuổi xuân dần qua đi. Trong thời gian cô đơn chờ đợi, Mara quen với Stefano, một anh công nhân, cũng là đảng viên cộng sản, có nhân cách đáng quý, và trong lòng cô cũng không khỏi xao động, và hai người yêu nhau. Xung đột lên đến đỉnh điểm trong chính nội tâm của Mara, đó là sự đấu tranh giữa một tình cảm đã có lúc muốn buông xuôi để chạy theo một tương lai có chồng con yên ấm với Stefano và một lý trí mách bảo rằng cô là điểm tựa duy nhất cho Bube, rằng anh chịu đựng được vì nghĩ rằng ở quê nhà vẫn còn cô chờ đợi mình. Nhưng chính ngay lúc ấy, nút thắt đã được gỡ khi Bube bị bắt và sau đó bị tuyên án mười bốn năm tù. Tại thời điểm bước ngoặt đó, Mara đã quyết định cuộc đời mình phải ở bên cạnh Bube, nhất là trong tình cảnh khó khăn về mặt tinh thần của anh lúc đó. Mara xem đó là một “bổn phận,” một giá trị đạo đức mà cô không thể từ chối. Mara cắt đứt quan hệ tình cảm với Stefano, và tiếp tục chờ đợi mười bốn năm, thăm nuôi Bube và chờ ngày anh mãn hạn tù để cùng nhau xây dựng tương lai. Thoạt đầu tác giả đã lồng nhân vật Bube trong nhiều bối cảnh quan trọng, nhưng càng đọc, qua các biến cố dẫn dắt mạch truyện, người ta sẽ nhận thấy tác giả đã dần đưa Mara lên thành nhân vật chính và Bube chỉ còn là một điều kiện tác động lên các quyết định của Mara. Dù có bản tính nông nổi, thiếu suy nghĩ thấu đáo, dễ bị khích động đi dến các hành động thô bạo vũ lực, nhưng Bube cũng thể hiện một nhân cách đáng quý, sống hết mình trong tình yêu, và luôn thể hiện thái độ nâng niu, tôn trọng, giữ gìn cho người yêu. Trong tiểu thuyết còn có một đoạn tả rất rõ về tình cảm nhân bản của Bube với cha xứ Ciolfi - vốn là một tay phát Người yêu của Bube xít, nhưng chiếm được những tình cảm ấu thơ của Bube. Bube đã cố tình làm lơ như không thấy cha xứ Ciolfi, và cũng chính Bube sau đó đã phải đứng ra tìm cách bảo vệ cha xứ khi ông này bị người dân trong làng phát hiện và đòi hành hung. Tuy nhiên, chính Bube cuối cùng lại phải hành hung cha xứ trước áp lực của người dân căm thù phát xít. Điều này cho thấy Bube cũng chưa thoát khỏi tâm thức của thời chiến và đã sử dụng vũ lực để giải quyết các xung đột. Những suy nghĩ của Bube phần nào phản ánh sự giận dữ, thất vọng của những người cộng sản Ý khi cảm thấy bị phản bội: họ đã chiến đấu, hy sinh xương máu nhưng cuối cùng cũng không làm được cách mạng như họ mong muốn, và chính quyền lại thuộc về tay những lực lượng bảo thủ hữu khuynh, thậm chí thân phát xít hay cựu phát xít được hưởng ân xá. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh nước Ý sau Thế chiến thứ hai, mô tả những người cộng sản Ý, theo cái nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Để rộng đường tham khảo của bạn đọc, Nhà xuất bản Trẻ xin giới thiệu đến các bạn tiểu thuyết Người yêu của Bube. Mời các bạn đón đọc Người Yêu Của BuBe của tác giả Carlo Cassola.