Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Linh Hồn Chết - Nikolai Vasilyevich Gogol

Ngay sau khi ra đời, Những linh hồn chết của Gogol đã gây một cơn chấn động lớn trên toàn nước Nga. Rất nhanh chóng, cơn địa chấn này đã lan rộng ra nước ngoài. Theo viện sĩ B.L. Riftin, tập I tác phẩm Những linh hồn chết hoàn thành vào năm 1842, thì năm 1846, khi tái bản lần thứ 2, đã được dịch sang tiếng Đức, năm 1849 được dịch sang tiếng Tiệp. Năm 1854 xuất hiện bản dịch Những linh hồn chết bằng tiếng Anh. Tới năm 1858, cùng với thiên trường ca, tác giả Quan thanh tra đã nổi tiếng khắp châu Âu và phương Tây. Đánh giá về vai trò của Gogol đối với văn học Nga, nhà nghiên cứu I. Zolotuski khẳng định: Gogol là người đầu tiên có công đưa văn học Nga hội nhập với thế giới. Thiên tài của Gogol là một thiên tài nhiều mặt, ít thấy ở một nhà văn. Mới hai mươi sáu tuổi, Gogol đã có những tác phẩm mẫu mực của năm loại văn rất khác nhau, tựa hồ của nhiều nhà văn khác nhau: truyện dân gian quái dị với Những đêm trong thôn gần Đikanka, tiểu thuyết sử thi hùng tráng với Tarax Bunba, truyện châm biếm hài hước với Câu chuyện về sự bất hòa giữa Ivan Ivanovits và Ivan Nikiforovits, tiểu thuyết hiện thực phê phán với Một đôi vợ chồng trang chủ kiểu xưa và Cái áo khoác, hài kịch đả kích xã hội với Quan thanh tra. Với cái thiên tài nhiều mặt, mà mặt nào cũng lớn và đang độ phát triển, dồi dào sinh lực ấy, Gogol bắt tay vào viết tác phẩm chủ yếu của đời mình, lớn hơn tất cả các tác phẩm kia: Những linh hồn chết. Từ lúc ấy, cuộc đời của Gogol còn mười sáu năm nữa, nhưng chỉ còn có một mục đích, một công việc, một sứ mạng: hoàn thành Những linh hồn chết, phấn đấu gian lao, đau khổ khủng hoảng tinh thần, lịch sử mười sáu năm cuối của đời Gogol chính là lịch sử của Những linh hồn chết. Ý định viết tác phẩm lớn ấy đến với Gogol, như trong Sám hối của một tác giả, văn hào viết: “Chính Puskin làm cho tôi quan niệm vấn đề một cách nghiêm túc. Từ lâu Puskin khuyến khích tôi bắt tay viết một tác phẩm lớn; Puskin bảo tôi: “- Tại sao có cái tài đoán ra chân tướng con người để chỉ phác vài nét là lẽ ra như nó sống thật, mà anh lại không bắt tay vào viết một tác phẩm lớn? Như thế thật quả là một tội lỗi!”. Để kết luận, Puskin cho tôi đề tài mà chính anh dự định viết thành một trường ca và, theo lời anh, thì không bao giờ nhường lại cho bất kỳ một ai. Đó là đề tài của Những linh hồn chết”. Puskin từng khuyên Gogol sáng tác Những linh hồn chết thành một thiên “trường ca” - poema - Chữ “poema” đây không phải có nghĩa là một tập thơ, mà là một tiểu thuyết trường thiên có tính chất sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gogol cho in lên bìa chữ “poema” to hơn tên sách. Càng viết và càng nghĩ, Gogol càng thấy cái tầm rộng lớn của tác phẩm; vì vậy mà những cuộc phiêu lưu buồn cười của nhân vật chính Tsitsikôp hợp thành tình tiết của thiên trường ca đã được khoác một ý nghĩa biểu tượng: Tsitsikôp không phải chỉ là một tên bịp bợm đi mua nông phu chết, mà còn là Gogol đi tìm những “linh hồn sống”, nhưng chỉ gặp toàn những “linh hồn chết” - trong tiếng Nga cái từ “đusi” có cả hai nghĩa “những linh hồn” và “những nông phu”. Năm 1843, trong một bức thư Gogol viết rõ ràng: - “Quả thật có thể tin được điều người ta nói là: tất cả đều chết hết rồi, rằng ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho những linh hồn chết”.  Bởi vậy mà nhan đề của thiên trường ca trước dự định là Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp (Pôkhôjdênia Tsitsikôva) với phụ đề là Những linh hồn chết (miôrtvưe đusi) phải đổi lại là Những linh hồn chết với tiêu đề Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp. Mùa hè 1841 phần thứ nhất Những linh hồn chết được hoàn thành. Tháng chín Gogol mang về nước để xuất bản. Ngày 12 tháng 11 bản thảo nộp cho Ủy ban kiểm duyệt Mạc tư khoa và dĩ nhiên là gặp ngay phải vô số khó khăn. Nhờ phu nhân Xmirnôva và mấy bạn vương công thần thế bảo trợ văn học, Những linh hồn chết mới được phép in, chỉ phải chữa lại đoạn nói về đại úy Kôpêikin. Ngày 23 tháng 5 năm 1842, Những linh hồn chết xuất bản lần thứ nhất. Tờ Người đương thời, trong bài phê bình, đã suy tôn tác giả cuốn sách là đệ nhất văn hào Nga; quả là một danh hiệu chính đáng; từ trước Biêlinxki vẫn nói rằng Puskin sớm chết thì Gogol đã thay vào chỗ mà Puskin để lại trong văn học Nga. Với những điều hiểu biết của một nghệ sĩ thiên tài, Gogol đã “vẽ lại cuộc đời với bộ mặt thật của nó”, và cái bộ mặt của xã hội Nga với các tầng lớp thống trị của nó thời ấy là ghê tởm; thì Gogol đã bắt các đại diện của chúng ta, “giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng” của chúng, bắt chúng “đem thân cho thiên hạ mua cười”. Chỉ với Những linh hồn chết, sự nghiệp của Gogol cũng đã xứng đáng đặt ngang hàng với sự nghiệp của một nhà văn lớn khác của thế giới: Xervantex với bộ Đông Kisôt. Thuộc thể tiểu thuyết phê phán và châm biếm phong tục, - thể tiểu thuyết Picaret theo thuật ngữ văn học, do cái từ Tây Ban Nha picarô, chỉ tên bịp bợm, mà ra, - thì Những linh hồn chết của Gogol, Đông Kisôt của Xervantex và Những di văn của câu lạc bộ Pickuych của Dickenx là ba kiệt tác đứng hàng đầu trong văn học thế giới, và so với các tác phẩm cùng thể tài châm biếm ấy thì Những linh hồn chết đậm tính chất chân thực, gần với cuộc đời hơn cả. *** Bốn Bức Thư Của Tác Giả {Bốn bức thư này in trong chương XVII của cuốn Trích thư từ gửi các bạn tôi xuất bản cuối năm 1846; nhưng những thư này chỉ là những lời thanh minh của tác giả, không phải là những thư gửi đi cho ai cả} I. Anh có tỏ ý phẫn nộ vì cái giọng quá quắt của một số lời chỉ trích Những linh hồn chết. Tôi thấy như thế không được đúng: việc đó cũng có mặt tốt: đôi khi cũng cần có người phỉ báng mình. Người nào đã mê say với những cái đẹp rồi thì không thấy được những cái xấu, cho nên cái gì cũng dung thứ cả; ngược lại người nào đã muốn dèm pha thì cố tìm cho ra những cái xấu của anh và nêu rõ cái xấu đó lên đến nỗi buộc lòng anh phải thấy. Người ta ít khi có dịp nghe sự thật lắm; cho nên chỉ cần được một phần nhỏ sự thật thôi, người ta cũng đã có thể dung thứ cái giọng phỉ báng của kẻ lên tiếng nói sự thật. Những lời phê phán của Bungarin Xenlôpxki, Pôlêvôi có nhiều cái đúng, kể cả lời họ khuyên tôi nên học tiếng Nga trước khi có tham vọng viết lách {Những linh hồn chết phần thứ nhất, ra đời năm 1842, bị những nhà phê bình lạc hậu và phản động ghen ghét la ó. Trong tờ Tín sứ Nga, nhà phê bình lãng mạn chủ nghĩa N.A Pôlêvôi cho rằng Những linh hồn chết chỉ là một bức biếm họa, không thể xem là nghệ thuật được và tác giả chưa biết viết văn, còn mắc nhiều lỗi ngữ pháp; Pôlêvôi viết: “- Hãy gác sang một bên những cảm hứng bồng bột của anh mà đi học tiếng Nga đi!”. Có người chế giễu chữ poema ở bìa sách và suy diễn ra, gọi cả những sách giáo khoa vật lý học và sách dạy làm vườn là poema. Nhưng những lối phê bình ấy làm cho quần chúng chân chính rất căm phẫn}. Quả nhiên, giá tôi giữ bản thảo trong ngăn kéo thêm một năm nữa, chứ đừng vội vã cho in; thì chính bản thân tôi cũng đã thấy rằng không thể nào đem nó ra mà xuất bản dưới một hình thức kém cỏi như vậy. Tuy những bài thơ châm biếm và những lời chế giễu lúc đầu có làm cho tôi khó chịu thật; nhưng vẫn rất bổ ích cho tôi. Ôi! Những lời dèm pha liên miên ấy, cái giọng phỉ báng và những lời chế giễu cay cú ấy, thật có lợi cho ta không biết bao nhiêu mà kể! Trong thâm tâm ta thường giấu nhiều tự ái ti tiện, nhiều tham vọng xấu xa, đến nỗi ta cần phải luôn luôn bị châm chích, đánh đập bằng đủ mọi thứ khí giới; và phải cảm ơn bàn tay đã đánh ta. Tôi những mong được phê phán nhiều hơn nữa, nhưng lại muốn rằng người phê phán không phải là những người làm văn học, mà là những người có kinh nghiệm về thực tế. Tiếc thay, ngoài những người làm văn học, không có một bộ óc thực tiễn nào lên tiếng cả. Tuy nhiên Những linh hồn chết cũng đã gây nên lắm xôn xao bàn tán, lắm lời đồn đại, đã xúc phạm đến lòng tự ái của khá nhiều người vì lối giễu cợt, vì tính xác thực, vì lối biếm họa. Tuy đầy rẫy những sự lầm lẫn, sai lệch hiển nhiên; nó cũng đả động đến một tình hình mà ai nấy đều được chứng kiến hàng ngày. Tôi lại còn xen vào đấy một số đoạn có tính chất khiêu khích, hy vọng rằng sẽ có người lên tiếng quát mắng tôi và trong cơn phẫn nộ, sẽ vô tình mách cho tôi biết cái sự thực mà tôi đang tìm kiếm. Tại sao chưa có ai lên tiếng cả? Ai ai cũng đều có thể làm việc đó, và có đủ cơ sở để làm việc đó. Người viên chức có thể công khai chứng minh cho tôi thấy rằng câu chuyện tôi kể là không xác thực, bằng cách kể ra vài ba sự kiện có thật đã xảy ra và như vậy là đã đưa ra một lời cải chính hùng hồn hơn bất cứ lời biện luận nào. Vả chăng, cũng bằng cách ấy, người kia cũng lại có thể xác nhận thêm những lời miêu tả của tôi. Việc dẫn sự kiện có sức thuyết phục hơn là những lời lẽ rỗng tuếch và những bài luận văn về văn học. Nhà buôn, trang chủ, nói tóm lại là bất cứ ai biết cầm bút, cũng đều có quyền làm như vậy; dù người ấy chỉ sống quanh quẩn trong nhà hay vẫn thường đi đây đó khắp đất nước Nga. Ngoài ý kiến cá nhân của mình ra, bất cứ người nào, dù giữ chức vụ gì, ở địa vị xã hội nào, nghề nghiệp, học vấn ra sao, cũng đều có dịp quan sát sự việc trên một quan điểm riêng. Với đề tài của Những linh hồn chết, lẽ ra quần chúng độc giả có thể viết nên một cuốn sách hay hơn Những linh hồn chết không biết bao nhiêu mà kể; một cuốn sách có thể dạy nhiều điều, không những cho tôi, mà ngay cho các bạn đọc nữa; bởi vì giấu giếm mà làm gì, chúng ta đều biết nước Nga rất ít. Chao ôi! Tại sao không có ai công khai lên tiếng! Thật có thể tưởng chừng như mọi vật đều đã chết; và ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho Những linh hồn chết! Thế mà người ta lại trách tôi không biết rõ nước Nga! Làm như thể do một phép lạ của Đức chúa Thánh thần tôi nhất thiết phải biết rõ tất cả những sự việc xảy ra ở bất cứ xó xỉnh nào; phải học cho kỳ hết, không cần ai chỉ dẫn cả. Tôi làm thế nào mà học hỏi được! Thử nghĩ một nhà văn như tôi, vì nghề nghiệp phải ngồi ru rú ở nhà, sống cuộc đời khổ hạnh, lại thêm bệnh tật nữa và buộc lòng phải sống xa nước Nga; thì còn học hỏi làm sao được? Tôi không thể học hỏi các nhà văn hay các nhà báo, vì họ cũng sống cô độc và quanh quẩn trong phòng giấy. Nhà văn chỉ có một người thầy: bạn đọc. Thế nhưng những bạn đọc ấy đã từ chối, không chịu dạy dỗ tôi. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chịu trước Thượng đế một trách nhiệm ghê gớm vì đã không làm tròn bổn phận; nhưng tôi lại biết rằng những người khác cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm như thế. Và đây không phải là những lời nói suông: có Thượng đế chứng giám cho tôi, đây không phải là những lời nói suông. 1843 II. Tôi đã cảm thấy từ trước là những đoạn mạn đàm trữ tình trong thiên trường ca của tôi sẽ bị hiểu sai. Những đoạn ấy thiếu minh xác, ít ăn nhập với tình tiết và phong cách của cuốn truyện, đến nỗi khiến cho những người công kích tôi, cũng như những người bênh vực tôi, đều bị lầm. Người ta đã tưởng lầm rằng tất cả những đoạn nói về nhà văn nói chung, đều nhằm nói về tôi cả; tôi đã lấy làm xấu hổ khi thấy họ giải thích những đoạn ấy để bênh vực tôi. Chẳng qua, cũng đáng kiếp cho tôi! Lẽ ra, dù sao tôi cũng không nên cho xuất bản một tác phẩm tuy cắt khéo, nhưng khâu thì lại vụng, bằng chỉ trắng lên vải đen; như một bộ áo quần mà người thợ may vừa lược chỉ qua để thử. Tôi lấy làm lạ sao người ta ít có lời chê trách tôi về nghệ thuật và nghiệp vụ như vậy. Âu cũng tại những người phê phán tôi quá phẫn nộ, mà cũng tại họ không đủ sức khảo sát cách cấu tạo của một tác phẩm. Lẽ ra phải nêu rõ phần nào có vẻ dài một cách quái gở so với các phần khác; ở chỗ nào nhà văn đã tự phản mình, vì không nhất quán dùng cái giọng mà mình đã chọn từ đầu. Thậm chí cũng không có ai nhận thấy phần thứ hai của cuốn sách không được gọt giũa bằng phần đầu; nó chứa đựng những chỗ hổng lớn; những nét thứ yếu được khai triển quá mức, choán hết chỗ của những nét chính; các chương quá khác nhau, làm cho cuốn sách có tính chất vá víu, khiến người đọc không thấy tinh thần chung của nó. Nói tóm lại, lẽ ra nhà phê bình có thể có những lời phê phán sáng suốt và chính xác hơn, chê trách tôi nhiều hơn và một cách đích đáng hơn không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Đây tôi muốn nói đến cái đoạn mạn văn trữ tình đã bị các nhà báo công kích nhiều hơn cả, vì họ thấy nó biểu lộ một sự kiêu ngạo, một lòng tự mãn {Biêlinxki phê bình Những linh hồn chết, phần thứ nhất, ngay khi sách mới xuất bản, trong tạp chí Niên san của Tổ quốc, ca tụng khả năng hiện thực chủ nghĩa và tâm hồn nhiệt thành của tác giả: nhưng cho rằng tác phẩm có những đoạn tỏ lòng yêu nước quá huênh hoang}, một lối khoác lác xưa nay chưa từng thấy ở một nhà văn nào. Đó là đoạn mạn văn ở chương cuối: sau khi tả Tsitsikôp ra đi, tác giả bỏ nhân vật của mình ở giữa đường thiên lý, thay mình vào chỗ đó và ngạc nhiên trước vẻ đơn điệu chán ngắt của sự vật, trước khoảng không gian bao la hoang vắng và tiếng hát ai oán từ dải đất Nga vang lên suốt từ biển này sang biển kia; trong một phút cảm khái, đã lên tiếng hỏi bản thân nước Nga, van xin nước Nga cắt nghĩa mối cảm xúc khó hiểu đang làm lòng mình thắt lại: tại sao cứ có cảm giác như tất cả mọi sinh linh, mọi sự vật trong nước Nga đều như đang nhìn mình đăm đăm và chờ đợi ở mình một cái gì? Người ta đã thấy trong những lời lẽ đó bằng chứng của kiêu ngạo, một sự huênh hoang không tiền khoáng hậu; nhưng thật ra đây không phải là huênh hoang, cũng chẳng phải là kiêu ngạo, mà chỉ là sự diễn đạt một cách vụng về của một tình cảm chân thành. Ngay giờ phút này, tôi vẫn còn cảm thấy ấn tượng đó. Tôi không sao chịu đựng nổi những âm thanh ai oán, não lòng của một bài ca Nga khi nó rung lên trong không gian vô tận của thôn quê ta. Những âm thanh ấy ám ảnh tâm hồn tôi. Thậm chí tôi còn lấy làm lạ sao mỗi một người trong chúng ta lại không biết đến cái cảm giác đó. Ai là người trông thấy những không gian vắng lặng, lạnh lẽo ấy mà không thấy lòng mình se lại; ai là người trong những âm thanh thê thiết của bài dân ca Nga, không nhận thấy những lời trách móc đau xót đối với bản thân mình - tôi nói rõ: đối với bản thân mình - thì người ấy đã làm xong bổn phận của mình một cách trọn vẹn, trừ phi không có một tâm hồn Nga. Sự vật như thế nào, ta hãy cứ nhìn nhận nó như thế. Gần một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng đế Piôtr đệ nhất mở mắt ra cho chúng ta, dắt dìu chúng ta bước lên con đường văn hóa Âu châu, và đặt vào tay chúng ta đủ mọi phương tiện hành động: thế nhưng nông thôn của ta vẫn buồn tẻ và hoang vắng như xưa. Quanh ta mọi vật đều có vẻ ghẻ lạnh, thù địch; tưởng chừng chúng ta chưa phải đang ở trong nhà mình, mà chỉ là đang cắm trại trên đường trường; tưởng chừng đối với ta, nước Nga không phải là một nơi trú ẩn ấm áp, thân tình, mà là một ngôi trạm phủ tuyết lạnh ngắt; ở đấy chỉ thấy hiện ra một gã coi trạm lãnh đạm buông thõng một câu trả lời gắt gao: “- Không có ngựa!”. Tại sao lại như thế? Lỗi tại ai? Tại chính phủ hay tại ta? Nhưng chính phủ vẫn hoạt động không ngừng: chứng cớ là những tập quy chế, chỉ thị, sắc lệnh dày cộm, cái số khổng lồ những tòa nhà đã xây, những cuốn sách đã xuất bản; những thiết chế đủ loại, giáo dục có, từ thiện có, bác ái có; không kể những thiết chế mà ở nước ngoài không thấy chính phủ nào lập ra. Từ trên có những câu hỏi đưa xuống, ở dưới có những lời giải đáp đưa lên. Đôi khi ở trên đưa xuống những câu hỏi chứng tỏ sự đại lượng của một vài nhà vua đã dám hy sinh cả quyền lợi bản thân. Thế mà ở dưới đã trả lời ra sao? Tất cả đều tùy ở cách thức, ở nghệ thuật ứng dụng một tư tưởng sao cho nó thành hiện thực và đi hẳn vào đời sống. Một đạo dụ, dù nội dung có hay ho, dù lời lẽ có chính xác bao nhiêu chăng nữa, cũng vẫn chỉ là một tờ giấy không hồn; nếu ở dưới không tỏ ra có ý muốn đem ứng dụng nó theo một cách thức thích đáng, theo cái cách thức mà chỉ có người nào quan niệm sự công bằng dưới ánh sáng của Thượng đế, chứ không phải dưới ánh sáng của con người, mới tìm ra được. Nếu không, tất cả sẽ thành ra có hại. Chứng cớ là những tay gian lận và ăn hối lộ tinh ma của chúng ta vốn biết cách xoay xở với tất cả các quy chế; một đạo dụ mới đối với họ là một nguồn thu hoạch mới, một phương tiện mới để làm cho sự giải quyết công việc rối ren thêm, để thọc thêm một gậy vào bánh xe. Nói tóm lại, nhìn về đâu tôi cũng thấy rằng thủ phạm chính là những kẻ có bổn phận thi hành pháp luật. Có người vì quá ước ao danh vọng và huân chương, mà đâm ra hấp tấp. Lại có người vì muốn tỏ ra nhiệt thành và tận tụy - một thói xấu rất Nga, - mà cứ đâm đầu vào công việc, không chịu khó nghiên cứu, những tưởng mình có thể điều khiển công việc một cách thành thạo; nhưng hễ thất bại một lần là nản chí ngay, và sau đó, - cũng một thói xấu không kém tính chất Nga, - lập tức thờ ơ với công việc. Lại có người, khi lòng tự ái nhỏ nhen của mình bị tổn thương, liền để lọt vào tay một tên trùm bịp bợm cái cương vị mà ở đấy mình đã bắt đầu phấn đấu cho chính nghĩa. Nói tóm lại, trong chúng ta, ít có người biết yêu cái thiện đến mức có thể vì việc thiện mà hy sinh tham vọng, tự ái cùng tất cả những cái nhỏ nhen của một lòng vị kỷ dễ đâm ra cay cú đến mức có thể khép mình vào một luật lệ bất di bất dịch là phụng sự đất nước, chứ không phải phụng sự bản thân mình; luôn luôn nhớ rằng mình ở cương vị là để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, chứ không phải cho bản thân. Ngược lại từ ít lâu nay người Nga chúng ta tuồng như có dụng tâm muốn phô trương tính vị kỷ và dễ chạnh lòng của mình ra. Không biết trong chúng ta liệu có những người mà sau khi làm tròn nhiệm vụ mình rồi, có thể đứng trước toàn thể thiên hạ tuyên bố rằng mình không có lỗi gì đối với nước Nga hết; rằng khắp những khoảng đồng không mông quạnh của đất nước này, không có cái gì có thể coi như một lời trách móc đối với mình cả; rằng mọi vật đều hài lòng về mình và không còn mong chờ gì hơn nữa không? Tôi không biết số người có thể làm như vậy có nhiều không. Tôi chỉ biết rằng riêng tôi, tôi đã nghe thấy lời trách móc thầm lặng đó. Giờ đây, nó vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Sự nghiệp văn chương của tôi có hèn kém thật, nhưng lẽ ra dù sao nó cũng có thể giúp tôi là một việc có ích hơn. Tuy lòng tôi xưa nay vẫn ấp ủ khát vọng làm điều thiện và chỉ vì khát vọng đó mà tôi cầm bút; những cái đó phỏng có gì quan trọng đâu! Tôi đã làm tròn nhiệm vụ ấy như thế nào? Chẳng hạn, cuốn sách vừa rồi của tôi, nhan đề Những linh hồn chết, liệu có gây được cái ấn tượng mà lẽ ra nó phải gây nên; nếu nó được viết cho đúng với yêu cầu không? Vì không biết diễn đạt những ý nghĩ của chính mình; tuy đó là những ý nghĩ khá giản đơn, tôi đã làm cho nó bị hiểu sai, và lại hiểu sai theo một hướng có phần tai hại. Lỗi tại ai đây? Tôi có nên viện cớ là đã nghe theo những thị hiếu xốc nổi của những kẻ tài tử ưa chuộng những phong cách hào nhoáng và trống rỗng không? Tôi có nên đổ lỗi cho hoàn cảnh và tuyên bố rằng vì cần kiếm kế sinh nhai mà phải cho in vội, in vàng tác phẩm của mình không? Không. Ai là người đã từng quyết chí làm tròn nhiệm vụ một cách trung thực thì không thể để cho hoàn cảnh chi phối mình được; nếu cần, thà ngửa tay ra ăn xin, chứ quyết không nhượng bộ trước những lời chê trách hời hợt hay những ước lệ giả dối của xã hội được. Người nào đã vì muốn tuân theo những ước lệ giả dối đó mà làm hỏng một tác phẩm có ích cho nước nhà, thì người đó không phải là người yêu nước. Chính vì tôi đã cảm biết được cái tính nhu nhược đáng hổ thẹn của tôi, cái tính hèn nhát đáng khinh của tôi, nỗi bất lực của lòng yêu nước của tôi; cho nên tôi mới nghe thấu được lời trách móc đau xót mà tất cả những sự vật đang ở trong nưóc Nga đã lên tiếng nói với tôi. Nhưng một sức mạnh cao cả đã nâng tôi dậy; không có lỗi lầm nào không bổ cứu được; và tuy lúc đầu tôi đã chán nản trước cảnh tượng những không gian hoang vắng, về sau chính cảnh tượng ấy đã làm cho tôi đầy nhiệt tình: tôi đã thấy khoảng không vô tận ấy là một môi trường hoạt động tuyệt vời. Và tự đáy lòng tôi đã thốt lên lời kêu gọi đất nước Nga: “- Chẳng phải Ngươi vốn có sứ mệnh sinh ra những bậc anh hùng đó sao? Ngươi hiến cho họ biết bao nhiêu là không gian để xây dựng sự nghiệp!” Đó không phải là một câu văn viết cho kêu để lòe người, cũng không phải là một lời huênh hoang. Không: lời kêu gọi đó tôi thốt ra tự đáy lòng, và đến nay lòng tôi vẫn còn rung cảm vì nó. Giờ đây, sống ở nước Nga bất cứ lúc nào người ta cũng có thể trở thành một bậc anh hùng. Mỗi địa vị, mỗi chức vụ đều đòi hỏi bản lĩnh anh hùng. Mỗi người trong chúng ta đã làm ô uế tính chất thiêng liêng của địa vị và chức vụ của mình (tất cả mọi chức vụ đều thiêng liêng), đến nỗi phải có những sự cố gắng anh dũng mới đưa được địa vị và chức vụ trở lại trạng thái cao cả thích đáng. Trực giác tôi đã cảm thấy được sự nghiệp cao quý ấy, sự nghiệp ngày nay chỉ dành cho dân tộc Nga mà thôi; vì chỉ có dân tộc Nga biết được chủ nghĩa anh hùng và thấy trải ra trước mắt mình những khoảng không vô tận như vậy. Chính vì thế mà tôi đã thốt lên lời than kia, lời than mà người ta đã tưởng lầm là một biểu hiện của tính kiêu ngạo, một lời huênh hoang. 1843 III. Tôi lấy làm lạ rằng một người am hiểu lòng người như anh mà lại có thể đi hỏi tôi những câu ngớ ngẩn chẳng khác gì những người khác. Phần lớn những câu hỏi ấy đều liên quan đến phần sau này của bộ sách: tò mò như vậy mà làm gì? Chỉ có mỗi một câu hỏi thật là tế nhị và xứng đáng với anh; và tuy cũng chưa dám chắc là có thể trả lời một cách thỏa đáng, tôi vẫn ước ao rằng có những người khác cũng hỏi tôi câu đó. Cụ thể là: tại sao những nhân vật trong các tác phẩm gần đây của tôi, nhất là trong Những linh hồn chết, tuy không phải là những bức chân dung của người thật, lại cũng chẳng có gì hấp dẫn cho lắm, mà sao vẫn có vẻ thân thuộc, gần gũi với chúng ta; tưởng như có thể tìm thấy ở các nhân vật đó những nét riêng của bản thân mình? Mới năm ngoái đây thôi, giá có ai hỏi như vậy, dù người đó là anh đi nữa, thì tôi sẽ lúng túng, khó trả lời. Nhưng bây giờ thì tôi xin thú hết: sở dĩ các nhân vật của tôi gần gũi với lòng người là vì chúng ở lòng người mà ra; tất cả những tác phẩm gần đây của tôi đều là lịch sử của tâm hồn tôi. Để anh hiểu rõ hơn những điều này, tôi xin giãi bày để anh rõ tôi là nhà văn như thế nào. Người ta đã bình luận về tôi khá nhiều: người ta đã xác định một số khía cạnh trong tài năng của tôi, nhưng vẫn chưa nhận ra nét căn bản của nó. Puskin là người duy nhất đã nhận thấy nét đó. Puskin vẫn nói với tôi rằng chưa có nhà văn nào có được đến mức như tôi, cái năng khiếu làm hiện rõ sự nhạt nhẽo của cuộc đời, làm cho sự tầm thường dung tục nổi lên, sắc sảo đến nỗi những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đập ngay vào mắt người ta. Đó chính là cái khả năng thiên bẩm trội nhất của tôi, cái khả năng mà quả nhiên không còn nhà văn nào có. Tôi bẩm sinh đã có khả năng đó, và sau một cơn khủng hoảng tinh thần, nó lại càng phát triển thêm. Và đó chính là điều mà dạo ấy tôi chưa thể thú nhận, dù là với Puskin cũng vậy. Trong Những linh hồn chết, khả năng đó còn thể hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa. Sở dĩ Những linh hồn chết đã làm cho nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều tiếng xôn xao như vậy, không phải là vì nó phát hiện những ung nhọt hay những bệnh tật ở bên trong; đó không phải là vì nó bày ra cái cảnh đắc thắng của sự xấu xa và cái cảnh những người vô tội bị áp bức, khiến người ta sửng sốt. Không, các nhân vật của tôi không phải là những kẻ vô lại. Tôi chỉ cần thêm một nét dễ ưa vào một trong các nhân vật đó là bạn đọc sẽ vừa lòng với tất cả các nhân vật khác; nhưng vẻ tầm thường dung tục của toàn thể khiến bạn đọc ghê tởm. Các nhân vật của tôi nối đuôi nhau xuất hiện, nhân vật này lại tầm thường hơn nhân vật kia; và độc giả hoài công đi tìm một đoạn có thể an ủi mình, một nơi có thể dừng lại để thở; gấp sách lại, bạn đọc tưởng như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá đó là những tên gian phi có lắm màu, lắm vẻ đẹp mắt, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho tôi; đằng này lại là những kẻ rất mực tầm thường, nên người ta không dung thứ được. Sự vô nghĩa lý của người Nga đã làm cho bạn đọc hoảng sợ hơn là những thói hư tật xấu của họ. Đáng khen thay nỗi kinh hoàng đó! Đã thấy ghê tởm như vậy trước sự đê tiện, hẳn phải có những đức tính trái ngược với sự đê tiện. Vậy thì cái khả năng trội nhất của tôi chính là ở chỗ đó; và xin nhắc lại rằng cái khả năng ấy lẽ ra không phát triển mạnh như vậy nếu tâm trạng của tôi và quá trình diễn biến tinh thần của tôi không góp sức vào đấy. Trong các bạn đọc của tôi, không có ai biết rằng trong khi cười các nhân vật của tôi, họ cũng cười cả chính bản thân tôi đó. Tôi không có một tật xấu, một đức tính nào đủ mạnh để chế ngự các tật xấu, các đức tính khác; ngược lại, tất cả những tính xấu mỗi cái một tí, đều họp nhau trong con người tôi; tôi chưa từng thấy ai tập họp nhiều tính xấu như thế. Thượng đế đã phú cho tôi một bản tính rất phức tạp. Người đã cho tôi một vài đức tính; đức tính đẹp nhất mà tôi không biết làm thế nào để tạ ơn người, là ước vọng tu thân. Tôi chưa bao giờ thích thú với những thói xấu của mình và cũng may mà Thượng đế chí nhân đã cho tôi phát hiện dần từng thói xấu một chứ không phải đột nhiên khám phá ra tất cả một lúc, trong khi tôi chưa quan niệm được lòng từ bi vô cùng vô tận của Người; nếu không thì chắc chắn tôi đã treo cổ mà chết cho rồi. Trong khi tôi dần dần phát hiện ra những tính xấu của mình, thì một sự xui khiến kỳ diệu của bề trên làm cho tôi tăng thêm ý muốn trút bỏ những tính xấu đó đi; một cơn khủng hoảng tinh thần kỳ dị đã thúc đẩy tôi chuyển những tính xấu đó cho các nhân vật của tôi. Cơn khủng hoảng đó cụ thể ra sao thì anh cũng không nên biết làm gì; ví thử điều đó có chút gì bổ ích cho bất cứ ai, thì tôi đã nói ra từ lâu rồi. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu lấy những tính xấu của tôi thêm vào các tính xấu của nhân vật. Tôi làm như thế này: tôi lấy tính xấu của tôi gán cho một người nào mà cương vị và chức vụ khác tôi, rồi theo dõi tác dụng của nó trong người ấy; tôi cố gắng hình dung người đó là một kẻ thù không đội trời chung của tôi, đã từng lăng nhục tôi một cách tàn tệ; tôi hằn học, chế nhạo, dè bỉu hắn. Giá có ai trông thấy những quái vật mà ngòi bút tôi đã vẽ ra lúc đầu, người đó hẳn phải rùng mình, sởn gáy. Tôi chỉ xin nói với anh rằng khi nghe tôi đọc những chương đầu của Những linh hồn chết dưới dạng thức nguyên sơ, thì Puskin, - tính vốn hay cười xưa nay và bao giờ cũng vui lên khi nghe tôi đọc, - lần này lại cau mặt, mỗi lúc một thêm ủ dột. Khi tôi đọc xong, Puskin thốt lên, giọng thảm đạm: “Trời ơi, nước Nga của chúng ta thật buồn quá!” ... Mời các bạn đón đọc Những Linh Hồn Chết của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phiên Bản - Nguyễn Đình Tú
"Phiên bản" là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Diệu, cô nữ sinh ngây thơ trong sáng, sinh ra trong một gia đình có người anh trai phạm tội, phải đi tù. Bí bức, gia đình cô, trừ bà nội, còn bố, mẹ và cô liều lĩnh thuê tầu vượt biển đi nước ngoài. Cuộc vượt biên trốn chạy và giải thoát không thành. Hơn một trăm con người trên chuyến tầu bị bọn cướp biển giết chết hết. May mắn, cô cùng một người đàn ông theo đạo và đứa cháu trai mới chín tháng tuổi của ông - sau này nó sẽ là một nhà nghiên cứu tội phạm học - thoát chết, sống sót trở về được đất liền. Trở lại cuộc sống bên người bà, Diệu gặp Hưng, một gã lưu manh, bạn tù của anh trai Diệu, rồi từng bước một, như một định mệnh, một tất yếu không sao cởi thoát được, cô dấn thân dần dần vào cuộc đời gió bụi giang hồ. Giang hồ gió bụi ngẫm ra vậy mà có nhiều cung bậc! Hạ đẳng nhất phải kể là loại đao búa côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp. Kế đó là lớp bất tri lý, coi thường công an, chính quyền, cả gan chống lại cả người thi hành công vụ, được đồng loài mệnh danh là những kẻ thích tự sát. Loại ba là loại ma xui quỷ khiến, chuyên dùng thuốc kích thích để gia cường “bản lĩnh” chém giết, hiếp đáp, cướp giật. Đại để là vậy! Chứ còn chi ly ra thì có thể phân thành nhiều loại nữa; chẳng hạn, loại chỉ chuyên kiếm tiền, loại chỉ thích ra oai, loại trộm cắp vặt, loại đi ăn cướp chỉ vì phẫn chí, loại bần cùng mà sinh đạo tặc, loại làm ẩu vì chứng rối loạn tâm thần, loại vì tình ái mà gây thù chuốc oán, loại manh động vì ăn phải bùa mê thuốc lú... Diệu lưu manh hoá theo quy luật nội tại, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, trong khi lương tâm vẫn le lói chút tiếc nuối và vài tia ánh sáng nhân phẩm. Vì thực tình là sau cuộc vượt biển không thành trở về, thoạt kỳ thuỷ cô mới chỉ là một cô bé bán thuốc lá lẻ ở bến xe bến tầu, rồi tiến thêm một bước nữa, thấy thiên hạ bao nhiêu đứa sống được bằng ăn cắp, trong khi mình cũng có đủ hai con mắt, hai bàn tay và cái đầu được học đến tận lớp chín mà chỉ trông chờ vào lờ lãi mấy điếu thuốc thì làm sao sống nổi, nhưng cũng mới chỉ là sa chân vào tội tiếp tay cho kẻ gian, nghĩa là mang hộ đồ ăn cắp của bọn chôm chỉa đi bán để ăn hoa hồng thôi. Bước đường tha hóa tiếp diễn ngay sau đó chẳng lâu la gì đối với một kẻ tay đã nhúng chàm, ngày đêm phiêu diêu trong những dục vọng tăm tối, trên mảnh đất nhan nhản những tay anh chị khét tiếng ranh ma quỷ quái hung ác bạo tàn. Rất nhanh thôi Diệu đã lên ngôi nữ chúa, một siêu sao trong giới giang hồ, lập nên một đế chế dọc ngang không còn biết sợ ai! Tập hợp xung quanh và có quan hệ dây mơ rễ má với nữ quái này là một lũ lĩ, những là Lân "Sói", Cộc "Ba Tai", Hưng "Mã", Tùng "Hê rô", Châu "Điên", Tuấn "Chợ"… tàn ác, bạo ngược có thừa, những thành tố bất hảo của một xã hội đen, một thế giới tội phạm! Thế giới tội phạm, một lát cắt của đời sống hiện thực! Của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói tàn bạo thâm căn. Thế giới tội phạm! Một bước lùi của lịch sử nhân loại! Nhà văn không viết chỉ bằng cảm hứng. Ortega Y Gasset, tiểu thuyết gia Tây Ban Nha nói đại ý: Chiếc rìu của một tiều phu giỏi chẳng có nghĩa lý gì trên một sa mạc không cây cối. Muốn viết được một cái gì đó cho ra hồn, nhà văn phải có chất liệu và đừng tưởng chất liệu là cái vốn tự có, là nước ở cái giếng sâu không đáy, là vỉa quặng vô tận, thả sức đào bới. Tôi đã hơn một lần rất có cảm tình và thật sự là khâm phục năng lực hiểu biết thấu đáo cái lĩnh vực đời sống, cái đối tượng nghệ thuật mà cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hôm nay, đã cầy xới trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và mới đây, trong cuốn sách có cái tên rất lạ tai là Nháp của anh. Tất nhiên là chàng sĩ quan - cử nhân Luật này có sẵn cái vốn liếng cơ bản về học thuật đã được trang bị của mình. Nhưng dẫu thế nào thì cái sự sống trực tiếp nhằm khám phá kỹ lưỡng vào chiều sâu bên trong cái thế giới kỳ quái này của nhà văn, vẫn là một nét nổi trội, nó khiến người đọc rơi vào trạng thái say mê với một niềm tin cậy chắc chắn là đã không bị lừa! Một cốt truyên hay! Trước nay tôi vẫn là kẻ bảo thủ, khi cho rằng, cốt truyện, với tổng số các tình tiết éo le, giàu kịch tính cùng các nhân vật có số phận độc đáo của nó, chính là cái khung thép cần có để làm chỗ dựa cho tất cả, là một nhu cầu, là cái khôn ngoan đặc biệt của tiểu thuyết, của truyện dài; vậy thì tội gì mà không tận dụng; huống hồ đây là một tiểu thuyết thuộc dòng hành động và tâm lý. Tất nhiên, cốt truyện hay của Phiên bản chỉ là một mặt mạnh và như một lẽ phải thông thường, đó cũng không phải là mặt chủ yếu nhất của cuốn tiểu thuyết này. Bởi vì, điều đáng kể hơn, sâu sắc hơn còn là, sau cái nhu cầu được nhìn thấy, được hình dung ra nhân vật trong diễn tiến của các sự kiện nối tiếp, người đọc tiểu thuyết còn cái khát khao là được lặn ngụp trong cái vùng còn đang vô cùng mung lung, bí ẩn, mơ hồ của suy tưởng. Tội phạm là vấn đề toàn cầu! Cái ác sinh ra từ khi có loài người, nhưng liệu có phải là nhân chi sơ tính bản ác và con người thì hoàn toàn bất lực, không thể triệt tiêu, không bao giờ chế ngự nổi cái ác, cái ác sẽ tồn tại mãi mãi, nó song hành cùng cái thiện? Tư duy truyền thống trước nay vẫn thường quy tội cho xã hội khi lý giải số phận của các tội phạm. Tám Bính trong Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng cũng không ở ngoại lệ. Nhưng còn những trường hợp khác? Chi tiết nhà văn Nguyễn viết chuyện một nữ tặc sinh ra và hoành hành ở chính mảnh đất quê hương, vùng không gian sinh tỏa của nhân vật Diệu trong Phiên bản là một ẩn dụ nghệ thuật, một điểm nhấn có dụng ý của nhà văn. “Đất này dữ, trai gái đều thành nghịch tặc cả”. Cùng với câu nói đã hơn một lần bà nội Diệu đay đi đay lại với Diệu, công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Chín Tháng có nhan đề Tội phạm học dưới giác độ địa văn hoá, phải chăng chính là chủ đích của nhà văn, anh muốn dùng pháp lý đồng thời với Kinh thánh - con người là phiên bảncủa Chúa - để giải minh vấn đề? Và nếu đúng là vậy thì sự kiện Diệu bắn chết Hưng ngay trên giường ngủ của mình ở đoạn kết của cuốn tiểu thuyết có thể coi là một cuộc tự chối bỏ của cái ác từ trong tiềm thức, cái ác tự huỷ hoại cái ác, một mệnh đề mang tính tường luận khá lý thú? Phiên bản là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Khúc được kể bằng ngôi Thị nhằm trần thuật những diễn biến sự kiện của nhân vật chính. Khúc được kể bằng ngôi Em là dòng chảy nội tâm của nhân vật chính. Và các khúc người kể đứng ở ngôi Ta có dáng dấp một cuộc hỏi cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Chắc đó cũng sẽ là những thủ pháp tạo thêm hứng thú cho bạn đọc cuốn sách này.   Mời các bạn đón đọc Phiên Bản của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Đèn Không Hắt Bóng - Watanabe Dzunichi
AudioBook Đèn Không Hắt Bóng Lâu lắm rồi mới tìm lại được cảm giác thích đọc truyện, mà lại là một cuốn tiểu thuyết dày, giấy đen thui, chữ mờ câm nữa chứ. Nhưng khi ngoài trời mưa rơi rả rích, nằm cuộn chăn trên giường để theo dõi từng bước chân của các nhân vật thì đúng là chẳng còn gì bằng. Y hệt cái cảm giác của những ngày còn nhỏ. Đã đóng trang cuối của cuốn truyện lại từ tối hôm qua nhưng tôi vẫn còn ám ảnh bởi đoạn cuối cùng. Hình ảnh Noriko đứng lặng lẽ, một mình trong phòng mổ, dưới ngọn đèn không hắt bóng, cô độc, lạnh lẽo. Cô chờ đợi Naôê xuất hiện như những ngày xưa. Mọi vật xung quanh cô đều không có gì thay đổi, cuộc sống cũng không có gì thay đổi, nó quen thuộc với cô đến mức cô có cảm tưởng rằng chỉ chốc lát nữa thôi, Naôê sẽ xuất hiện ngay lập tức mà thôi. Nhưng không, anh sẽ không bao giờ có thể mở cửa bước vào phòng mổ như mọi khi được nữa. Giờ đây anh đã yên nghỉ thanh thản vĩnh viễn dưới lòng hồ Sikôtsu, không còn đau đớn, không còn dằn vặt, không có mưu toan, không còn thủ đoạn. Cô không thể hiểu nổi tại sao Naôê không thể xuất hiện, căn hộ của anh vẫn còn kia mà, cái quán café cô và anh hay ngồi vẫn còn, cái bàn quen thuộc vẫn y như ngày nào, ngay cả phòng mổ, cái giường phẫu thuật, chùm đèn mổ, vẫn chẳng có gì thay đổi, tại sao anh không thể xuất hiện lại, ngay trước mặt cô trong lúc này đây. Cảm giác cô đơn đến mức rợn người, cô đơn khủng khiếp. Rồi đây cô sẽ sống thế nào khi không có anh bên cạnh, cô sống vì anh, hạnh phúc vì anh, tất cả đều dành cho anh kia mà, không có anh, rồi thì cuộc đời cô sẽ ra sao? Có nhiều người nói rằng tình yêu của Noriko đối với Naôê là một thứ tình yêu cam chịu, rằng cô không đáng phải làm như vậy, cô nhẫn nhục một cách bất bình thường. Cô mù quáng, cô dại dột, cô khờ khạo. Nhưng tôi lại thấy đó là một tình yêu đẹp. Một thứ tình yêu hiến dâng, tình yêu say đắm, tình yêu cuồng nhiệt, yêu mà không đòi hỏi lại bất cứ một điều gì, cô chỉ biết rằng cô yêu anh, như vậy là đủ. Một người phụ nữ như vậy đáng để yêu lắm chứ. Nhưng, ngược lại, Naôê có yêu Noriko không? Hay đó chỉ là một sự thương hại, một sự hối hận vào lúc cuối đời. Anh muốn đền bù cho Noriko vì anh đã làm khổ cô quá nhiều? Tôi không tin điều đó. Tôi nhìn thấy ẩn sau cái vẻ lạnh lùng, băng giá, bất cần đời và bộ mặt ác quỷ của vị bác sĩ ngoại khoa này là cả một tấm lòng. Có lẽ nó bị căn bệnh ác tính mà anh mắc phải che lấp đi mất, nó bị sự từng trải, những thăng trầm mà anh gặp phải trong cuộc sống che khuất đi mất. Những sóng gió của cuộc đời là đánh tan hết những lý tưởng sống, những hoài bão của anh và trao lại cho anh một đôi mắt biết nhìn xoáy sâu vào tận bản chất của mọi vấn đề. Nhưng “Đèn không hắt bóng” không chỉ có tình yêu giữa Noriko và Naôê. Tôi thích “Đèn không hắt bóng” vì còn nhiều điều khác nữa. Watanabe Dzunichi (tác giả) không chỉ là nhà văn mà ông còn là một tiến sĩ y khoa nữa. Có lẽ chính vì điều đó mà ông đã xây dựng được một hình tượng bác sĩ Naôê rất thật. Có nhiều người khó chịu vì hình tượng này, họ cho rằng Naôê không đáng được tôn vinh vì ông lấy lý do bệnh tật của mình mà chà đạp lên thân phận người phụ nữ v.v… Hơi buồn cười cho những suy nghĩ đó. Naôê không phải là một samurai, cũng chẳng phải là một vĩ nhân, anh chỉ là một bác sĩ bình thường như bao bác sĩ khác, có khác chăng là anh có tài hoa, kinh nghiệm, kiến thức. Cũng phải thôi, anh là phó giáo sư của trường ĐH Y mà. Mà đã là một người bình thường thì những hành động của anh trong hoàn cảnh đó hoàn toàn có thể hiểu được, những hành động rất người, rất thật. Không chỉ có Naôê, tôi còn nhìn thấy một Kobasi tràn đầy lý tưởng sống nhưng cũng vô cùng ngờ nghệch, một Yutaro thực dụng, và cả những bệnh nhân nữa, ông già Isikura bị K dạ dày di căn xương đã đến giai đoạn cuối mà cứ giữ vững niềm tin là mình đã khỏi bệnh, sẽ còn sống vui sống khỏe rất lâu sau đó nữa, hai vợ chồng cụ Uênô và bà Chiyô đã già lắm rồi nhưng lại nghèo, không có con cháu, chỉ có cụ bà lụm cụm chăm sóc cụ ông cho đến chết, cụ ông không đủ tiền truyền máu để tiếp tục sống nhưng sau khi ông mất, cụ bà vẫn đi lùng khắp nơi với số tiền ít ỏi của mình mua cho bằng được vài món quà nho nhỏ biếu bác sĩ để cảm ơn. Tôi cảm nhận được cái cảm giác nghẹn ngào của Kobasi khi buộc phải nhận gói quà đó. Cái cảm giác của người thầy thuốc khi thấy mình bất lực trước sức mạnh của tử thần, bất lực trước sự thật phũ phàng của cuộc sống. Tất cả những nhân vật ấy, tôi thấy rất quen, tôi có cảm giác tôi đã gặp họ ở đâu đó trong bệnh viện rồi. Họ là những mảnh ghép rời rạc, những nét chấm phá của tác giả để cố gắng vẽ nên một bức tranh trung thực nhất của ngành Y. Trong bức tranh ấy, không có những thứ giá trị “Y Đức” hão huyền được đề cao, tâng bốc, không có những hành động cao thượng, không có những câu chuyện cổ tích, không có anh hùng, không có hiệp sĩ, cũng chẳng có vĩ nhân. Chỉ có một sự thật, một sự thật trần trụi như thân thể con người ta dưới ngọn đèn không hắt bóng của phòng mổ vậy. Bạn có thể thấy hình ảnh của bệnh viện Oriental ở đâu đó trong bất cứ bệnh viện nào mà bạn có dịp ghé qua. Câu chuyện còn thú vị vì những xung đột, những mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa lý tưởng của anh chàng bác sĩ mới ra trường Kobasi với sự từng trải của bác sĩ Naôê. Có đôi khi tôi cảm thấy không ưa anh chàng Kobasi này, nhưng cũng có lúc anh làm tôi bật cười vì đôi khi tôi bắt gặp hình ảnh của chính tôi trong đó. Mâu thuẫn giữa quan niệm về “Y Đức” (đạo đức trong nghề Y) và đạo đức theo quan niệm thông thường. Cách giải quyết những mâu thuẫn trên của Naôê hoàn toàn hợp lý. Ít nhất là hợp lý đối với bản thân tôi. Chắc cũng phải còn lâu lắm tôi mới đủ nội lực để có thể giải quyết được như Naôê. Một câu chuyện hay, hoàn toàn xứng đáng với 1 đêm thức trắng như đêm qua. Mời các bạn đón đọc Đèn Không Hắt Bóng của tác giả Watanabe Dzunichi.
Vũ Khí Bóng Đêm Tập 6: Lửa Thiên Đàng - Cassandra Clare
Bóng tối đang bủa vây thế giới Thợ Săn Bóng Tối. Hỗn loạn cùng những tai họa và mất mát liên tiếp ập xuống đầu các Nephilim. Trong khi đó, Clary, Jace, Simon, và nhóm bạn của họ phải sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù quỷ quyệt nhất: người anh ruột của Clary.Sebastian Morgenstern rắp tâm gây ra cảnh Thợ Săn Bóng Tối đối đầu Thợ Săn Bóng Tối, một trận chiến nồi da xáo thịt. Với Cốc Hỏa Ngục trong tay, hắn biến đổi Thợ Săn Bóng Tối thành những sinh vật của ác mộng, chia cắt những người thân yêu để xây dựng đội quân Hắc Hóa của riêng mình. Không một thứ vũ khí nào ở thế giới này có thể đánh bại Sebastian – nhưng nếu họ tới xứ quỷ, họ sẽ có một cơ hội, dù là mong manh… Sẽ có hi sinh, sẽ có mất mát và cả thế giới sẽ thay đổi. Ai sẽ sống sót sau tập sáu và cũng là tập cuối cùng của series Vũ Khí Bóng Đêm? Lửa thiên đàng là phần 6 sê-ri Vũ khí bóng đêm, xuất bản ở Anh từ năm 2014, được xếp vào danh sách tiểu thuyết ăn khách nhất do New York Times bình chọn. Trọn bộ series Vũ khí Bóng Đêm (The Mortal Instruments) do Chibooks xuất bản: Thành phố Xương (City of Bones, phần 1) - tải eBook Thành phố Tro Tàn (City of Ashes, phần 2) - tải eBook Thành phố Pha Lê (City of Glass, phần 3) - tải eBook Thiên thần sa ngã (City of Fallen Angles, phần 4) - tải eBook Linh hồn lạc (City of Lost Souls, phần 5) - tải eBook Lửa Thiên đàng (City of Heavenly Fire, phần 6) - tải eBook   Cassandra Clare (27/07/1973), tên thật là Judith Rumelt, nhà văn người Mỹ chuyên viết về thể loại tiểu thuyết kỳ ảo. Từng làm việc tại nhiều tạp chí và tòa báo cỡ nhỏ, trong đó có The Hollywood Reporter. Hiện Cassandra Clare đang sống ở Amherst, bang Massachusetts cùng chồng và ba chú mèo. Các series sách tiêu biểu: Vũ khí bóng đêm (The Mortal Instruments), The Infernal Devices Trilogy, The Dark Artifices Trilogy, The Bane Chronicles, Magisterium (viết chung với Holly Black)… Ngoài ra cô còn viết nhiều truyện ngắn và fan-fic khác. Trailer giới thiệu sách:
Thợ Săn Alpha - thepsycho_nextdoor
Cô là thợ săn. Kẻ mạnh nhất trong những kẻ mạnh nhất. Có thể giết bất cứ ai chỉ với đôi bàn tay trần. Nổi danh mà cũng vô danh. Chỉ mới mười bảy tuổi nhưng đã có thể dọa chết hàng tá người. Cô giả câm che đậy danh tính. Cô là Sát Thủ Của Satan. Thợ săn mà ai ai cũng sợ mất mật. Nhưng Diana Brooklyn không biết rằng, tại thị trấn nơi cô chuẩn bị tiếp nhận nhiệm vụ mới, đang có một điều bất ngờ chờ đợi cô.... Mate. Chưa kể đến đó còn là một Alpha. *** Chú Giải [PACK] bầy đàn (nếu là đàn lớn thì trong truyện sẽ dịch là tộc): - Chỉ có một alpha - Alpha là người lãnh đạo và đưa ra mọi quyết định trong khi cả pack phải làm theo - Người sói sẽ trở nên mạnh hơn khi gia nhập vào pack - Sự đoàn kết giữa thành viên trong pack là tự nguyện nhưng nếu 1 người sói không thể làm được thì sẽ bị đuổi khỏi pack - Mặc dù vậy nhưng những điều trên cũng có thể biến đổi tuỳ trường hợp [MATE] duyên ngầm: Có thể hiểu là tình yêu định mệnh, bạn đời, nửa còn lại. Khi một người sói tới 18 tuổi sẽ bắt đầu đi tìm mate của mình. Chỉ cần thông qua ánh mắt hoặc cảm ứng linh hồn,... một người sói đều có thể nhận biết liệu đó có phải là mate của mình (giống tình yêu sét đánh đấy). Một số luôn vô thức theo dõi hành động nửa kia mà không biết lý do tại sao. Hương thơm của mate khiến bản chất hoang dã trong người sói điên cuồng (nếu không muốn nói thẳng là máu sói = =). Khi chạm tay, hai người sẽ cảm thấy giống như có dòng điện chạy giữa hai người. Mối quan hệ duyên ngầm của người sói rất bền chặt, thậm chí hơn con người. [CÁC CẤP BẬC TRONG MỘT PACK] *CẦM QUYỀN* 1. Alpha: Thủ lĩnh của pack. Là người mạnh nhất, nắm giữ quyền lực và sức ảnh hưởng tuyệt đối với mọi thành viên trong pack. Alpha không khác các người sói thường là mấy ngoại trừ được bổ sung thêm các khả năng như biến đổi, phục hồi rất nhanh, giác quan nhạy bén, thần giao cách cảm với người sói khác hay sức mạnh thể chất vô đối. Alpha có quyền truyền lại ngôi cho con trai khi nó đủ 18 tuổi hoặc kéo dài nhiệm kỳ vì một số lý do. 2. Luna: Mate của Alpha. Không phải pack nào cũng có Luna. Mate là duy nhất nên nếu Alpha chưa tìm thấy mate thì pack đó không có Luna. 3. Beta: Phó thủ lĩnh. Nắm giữ vị trí quan trọng. Khi không có Alpha, Beta là người có quyền ra lệnh cho cả pack. Beta thường là người trợ giúp đương kim Alpha và hầu như luôn ở gần Alpha. Tuy nhiên, Beta cũng có thể trở thành Alpha nếu tước đoạt sức mạnh hoặc giết được Alpha hoặc sau khi Alpha chết mà không có người kế thừa. Trong đội hình chạy hay xuất chiến, Beta chạy ở cánh phải ngay sau Alpha. (giống hữu thừa tướng trong mấy phim Trung đấy) 4. Delta (một số truyện gọi là Third in command hoặc Third): Người có địa vị thứ ba trong pack. Có quyền và năng lực giống Beta, chỉ có điều địa vị thì thấp hơn một bậc. Thường trong những pack lớn mới có Delta. Delta được huấn luyện bởi Beta đương nhiệm để trở thành Beta tiếp theo. Cũng có quyền góp ý hoặc đưa ra hiệu lệnh khi Alpha và Beta vắng mặt. Đôi khi, Delta cũng được sử dụng như sứ giả của pack. Trong đội hình chạy, Delta chạy ở cánh trái ngay sau Alpha. (vâng, tả thừa tướng là đây) *CẤP DƯỚI VÀ LỆ THUỘC* - Omega: Cấp bậc thấp nhất của pack, những kẻ bị ruồng bỏ hoặc yếu nhất của pack, nằm ở đáy kim tự tháp, không có bất cứ giá trị đích thực nào. Đôi khi bị dùng làm bia chắn hay thế thân trong các trận chiến. Thường bị cô lập trong pack. - Rouge: Những con sói cô độc, tách biệt ra khỏi pack. Thường bỏ pack vì không thích Alpha đương quyền hay cả pack đó hoặc cũng có thể bị trục xuất ra khỏi pack. Rouge hiếm khi tụ tập, chỉ lập đàn nhỏ tạm thời để quấy phá hoặc tấn công một pack nào đó. [CÁC THÀNH PHẦN CỦA THẾ GIỚI SIÊU NHIÊN KHÁC] - Hunter: Thợ săn. Không chỉ săn người sói mà họ săn tất cả những sinh vật siêu nhiên khác. Họ được đào tạo kĩ càng và nghiêm khắc để trở thành những chiến binh. - Ma cà rồng Mời các bạn đón đọc Thợ Săn Alpha của tác giả thepsycho_nextdoor.