Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dàn Nhạc Đỏ - Leopold Trepper

Tên Ebook: Dàn Nhạc Đỏ (full prc, pdf, epub) Tác Giả: Leopold Trepper Thể Loại: Điệp viên, Chiến Tranh, Phản Gián, Lịch Sử, Tình Báo, Văn học phương Tây Dịch Giả: Bảo Kiếm Đánh Máy: hoi_ls Nguồn: vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Dàn Nhạc Đỏ Giới Thiệu:   Dàn Nhạc Đỏ được viết dựa vào hồi kí của trưởng lưới tình báo Xô viết  Leopold Trepper  viết dưới nhan đề “Trò cao thủ” do NXB Albin Michel in năm 1975 tại Paris.   Dàn Nhạc Đỏ là tên gọi của lưới điệp báo huyền thoại của Liên Xô được coi là thành công nhất trong Thế chiến II với nhiều chiến công hiển hách...   Trong Thế chiến II,  Leopold Trepper  - cái tên luôn gắn liền với lưới điệp báo huyền thoại Dàn Nhạc Đỏ, chỉ huy nhóm điệp viên Xô Viết với các mật danh Uncle, Otto, được các cơ quan tình báo hàng đầu thế giới công nhận là “một trong những điệp viên giỏi nhất của mọi thời đại”. Cho đến nay, người ta vẫn nhắc đến ông với sự khâm phục và ngưỡng mộ đặc biệt.   Thuật ngữ Dàn Nhạc Đỏ là tên gọi chung của những nhóm phản kháng độc lập và các lưới tình báo trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, hoạt động ở một số nước châu Âu, như Đức, Bỉ, Pháp. Nó cũng đồng nghĩa với các lực lượng chống lại bọn Đức quốc xã.   Mạng lưới của tổ điệp báo bất hợp pháp trực thuộc Cục Tình báo quân sự Liên Xô (sau này là Tổng cục Tình báo Quốc phòng - GRU) trước Thế chiến II không chỉ đứng chân ở Đức mà còn lan tỏa ra khắp châu Âu. Ở Đức, Gestapo (tên gọi tắt của Geheime Staatspolizei - lực lượng cảnh sát bí mật của tổ chức SS do Đức Quốc xã lập ra) gọi lưới điệp báo này là Dàn nhạc Đỏ. Còn ở Liên Xô, cái tên này được mọi người nói về nhóm những người chống phát xít cộng tác với tình báo của Ủy ban Dân ủy Nội vụ (NKVĐ) – Phòng Nước ngoài NKVĐ. Nhóm này do Acvit Khacnac (biệt danh là người đảo Corse) và Schulze-Boysen (nhóm trưởng) chỉ đạo.   Ở Berlin có một tổ điệp báo của Tình báo quân sự do Inda Schebe (mật danh Ant) lãnh đạo. Ở Pháp và Bỉ, các tổ điệp báo của GRU do Leopold Trepper (Otto) và Anatoli Gurevick (Kent) chỉ đạo. Và toàn bộ lưới điệp báo Dàn nhạc Đỏ ở châu Âu được đặt dưới sự chỉ đạo của siêu điệp viên Leopold Trepper. Nói cách khác, Trepper chính là “nhạc trưởng” tài ba, chỉ huy cả “dàn nhạc” làm nên những chiến công đi vào sử sách, góp phần vào thành tích nổi bật của GRU trong suốt thời kỳ gian khó mà hào hùng (1939-1945).   Dàn Nhạc Đỏ bao gồm rất nhiều nhóm kháng chiến chống phát xít, đôi khi không liên quan đến nhau. Họ hoạt động hoặc là độc lập, hoặc là hợp tác với tình báo đối ngoại Liên Xô. Một bộ phận trong số đó nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GRU. Dàn nhạc Đỏ hoạt động trên khắp châu Âu trong thời gian nằm dưới chính quyền Đức, cũng như ở những nước vẫn còn trung lập. Lưới này gồm nhiều trạm phát sóng ngắn bất hợp pháp, triển khai hoạt động của mình từ Na Uy đến dãy Pirene, từ Đại Tây Dương đến sông Ode, từ Biển Bắc đến Địa Trung Hải.   Cuối những năm 1930, hiểu rõ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đầu não của tình báo quân sự Liên Xô thực hiện các biện pháp tổ chức thu thập tin tức ngay trong thời bình nhằm phát hiện âm mưu, ý đồ của Đức. Với mục đích đó, đầu năm 1939, tình báo viên bất hợp pháp của GRU là Leopold Trepper được biệt phái sang Brussels (Bỉ) với mật danh Otto. Trepper “đóng vai” một nhà tư bản công nghiệp Canada với nhiệm vụ ban đầu là thiết lập “vỏ bọc” kinh doanh, thương mại cho lưới điệp báo. Và ông đã lập một công ty xuất khẩu có chi nhánh ở hầu hết các hải cảng châu Âu.   Hồi đó, Gestapo rất lo ngại phải đối phó với những nhóm kháng chiến ở Bỉ, Pháp, Thụy Sĩ, Đức có liên hệ với tình báo Xô Viết. Để làm lu mờ phương hướng chống Hitler, Tổng cục An ninh Đế chế Đức Quốc xã đã gán cho các nhóm kháng chiến tội “hoạt động gián điệp quốc tế” và quyết định triển khai chiến dịch triệt phá mang tên “Đại đội dàn nhạc”.   Đầu tiên, đội đặc nhiệm SS (SS-Sonderkomando Rote Kapelle), với nhiệm vụ phát hiện và xóa sổ các đài phát bất hợp pháp hoạt động trên lãnh thổ nước Đức, tổ chức chặn thu sóng vô tuyến điện bất hợp pháp hoạt động trên lãnh thổ các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng. Sau khi phát xít Đức phát hiện ra một đài phát bí mật tại Brussels(Bỉ), năm 1942, Gestapo đã bóc gỡ ra toàn bộ tổ chức hoạt động của lưới điệp báo ở châu Âu, bao gồm: Leopold Trepper - lãnh đạo nhóm đặc tình Xô Viết, Anatoli Gurevick với biệt danh là Kent, một tình báo viên nổi tiếng ở Brussels. Cùng với đó, ở Đức có những đặc tình quan trọng như thượng úy Schulze-Boysen phục vụ trong lực lượng không quân; Acvit Harnack, làm việc trong Bộ Kinh tế.   Hơn 200 người bị bắt, trong đó 120 người đã bị bắn chết hoặc bị giết trong các nhà tù và trại tập trung của phát xít Đức. Đa số họ đã bị lực lượng Gestapo tiêu diệt. Theo tiết lộ của tên sỹ quan SS Panxinger, nguyên phó phòng Gestapo ở Miule, bị Hồng quân Liên Xô bắt làm tù binh, ngày 29.6.1951, trong cuộc hỏi cung ở cơ quan chống gián điệp, anh ta đã khai rằng việc theo dõi hoạt động của tổ chức chống phát xít được bắt đầu khi các chuyên gia vô tuyến điện chặn thu được các bản tin mật mã (tiếng lóng của phản gián gọi các điện tín viên là “nhạc công”, “người đánh pianô”).   Trong không trung, tiếng đánh morse không phải của một máy phát vô tuyến mà rất nhiều máy. Ở Đức và ở các nước châu Âu bị chiếm đóng có cả một “dàn nhạc” hoạt động. Cơ quan chống gián điệp vô tuyến của Đức xác định, “các nhạc công” đều hướng các buổi phát của mình về phía Moskva. Vì thế, “dàn nhạc” được mang màu “Đỏ”. Vượt lên những hiểm nguy, những thách thức và khó khăn, tên gọi đó đã đi vào lịch sử như một biểu tượng cho lòng dũng cảm của con người, thể hiện sự chống đối kiên cường đối với chủ nghĩa phát xít Đức.   Mời các bạn đón đọc Dàn Nhạc Đỏ của tác giả  Leopold Trepper.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chúa Đã Khước Từ - Richard E. Kim
Chúa đã khước từ mở đầu như một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Mười bốn mục sư bị bắt khi quân Bắc Hàn chuẩn bị tiến vào Nam Hàn năm 1950. Mười hai người đã chết, một kẻ hóa điên, và mục sư Shin câm lặng. Sự thật nào đang bị che giấu? Sự câm lặng kia là tuẫn giáo hay hèn hạ? Câu hỏi ấy không được trả lời ngay. Mục sư Shin hiện lên vừa như Judas “kẻ phản Chúa” nhận lời sỉ vả của giáo dân, vừa như Chris một mình bị đóng đinh vào thánh giá giữa nhân quần đang say máu chém giết. Ông là ai, hỡi người tu sĩ không thần linh, gánh vác trách nhiệm về “sự thật”, về “niềm tin” khi mà Chúa đã bỏ loài người. Sự thành công vang dội của Chúa đã khước từ nằm ở chỗ nó gợi nhớ đến vô số ẩn dụ lớn về tầm vóc con người trong mối quan hệ với đức tin thiêng liêng: liệu có thể chết cho một đức tin mỏng manh như ảo ảnh; liệu chỉ cái chết mới có thể phục sinh lại những điều tốt đẹp đã mất; liệu cứu rỗi có tồn tại và nếu có, nó có tới từ các thánh thần hay không; liệu có thể có hy vọng nào cho loài người – những kẻ không còn đức tin đang lao vào những cuộc “thánh chiến” ý thức hệ. Những câu hỏi ấy vang lên khi trong lòng phương Tây đang khủng hoảng niềm tin vào những truyền thống Ki-tô và phương Đông đang rên xiết trong những cuộc tranh chấp quyền lực. Một hiện thực đau đớn đến độ cá nhân tuyệt vọng mong cúi đầu chờ sự ban phước của Chúa trời rồi nhận lại câm lặng hư không. Trong cơn phi lý cùng cực ấy, kẻ vác thánh giá chỉ có thể là cá nhân lẻ loi, như mục sư Shin, chọn im lặng để lộn trái lại hiện thức không còn lối thoát. Tư tưởng ấy, đúng như lời đề tặng đầu sách, có ảnh hưởng lớn lao từ nhà hiện sinh chủ nghĩa Camus với tiểu thuyết Dịch hạch, khi mà chúng ta không thể trốn tránh và chiến thắng sự phi lý tồn tại hiển nhiên khắp nơi, cái làm nên nhân tính là việc cá nhân đối mặt với sự phi lý ra sao. Chúa đã khước từ loài người, loài người đã khước từ lẫn nhau, chỉ còn cá nhân và cây thánh giá riêng anh ta phải vác mà thôi. *** Richard E. Kim (1932 - 2009), là một tiểu thuyết gia, nhà phê bình và giáo sư văn học nổi tiếng, xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên "The Martyred" (Chúa Đã Khước Từ) năm 1964 và được hoan nghênh rộng rãi. Tác phẩm được đề cử giải National Book Award năm 1965 và đã được dịch ra 14 thứ tiếng. Mời các bạn đón đọc Chúa Đã Khước Từ của tác giả Richard E. Kim.
Con Mắt Thần Osiris - R. Austin Freeman
Xác ướp suốt bấy nhiêu thế kỷ nằm lặng dưới cát bụi sa mạc, một khi đưa ra khỏi lăng mộ, linh hồn Pharaon liệu còn ngủ yên? Trở về từ chuyến lữ hành đến Ai Cập, nhà nghiên cứu John Bellingham nổi tiếng đột nhiên mất tích bí ẩn, để lại bản di chúc kì quặc cùng khối lượng tài sản kết xù. Một con người mà có thể biến mất tựa sương khói, không một ai xác định được phương hướng ông ta đi, không một ai chứng kiến thấy giây phút cuối cùng của ông ta như thế nào... Đương khi mọi chiều hướng điều tra đều đam vào ngõ cụt, thì các dấu vết còn sót lại dần được gắn kết với nhau bởi Tiến sĩ Thorndyke lừng danh, từ món đồ trang sức hình bọ hung bằng vàng, hay khu vườn cải xoong chôn những mẩu xương người rải rác, cho đến xác ướp Sobekhotep cổ xưa, rồi cả hình xăm Utchat kỳ lạ... tất thảy cùng dẫn đến chân tướng cuối cùng. Con mắt Thần Osiris đỏ tươi, mở to soi chiếu mọi tội ác trên thế gian này. Ở nơi ta, lòng người, suy cho cùng mới là thứ khó ngủ yên nhất. *** Richard Austin Freeman là một nhà văn người Anh về những câu chuyện trinh thám, chủ yếu là các nhà điều tra pháp y medico-TS Thorndyke. Ông tuyên bố đã phát minh ra câu chuyện trinh thám ngược. Freeman đã sử dụng một số kinh nghiệm ban đầu của mình như là một bác sĩ phẫu thuật thuộc địa trong tiểu thuyết của mình Mời các bạn đón đọc Con Mắt Thần Osiris của tác giả R. Austin Freeman.
Pháp y Tần Minh Tập 4: Kẻ Dọn Rác - Tần Minh
Sách nói Kẻ Dọn Rác “Kẻ dọn rác” là cuốn thứ tư trong Series “Bác sĩ pháp y Tần Minh”. Trong cuốn này, bác sĩ Tần Minh và nhóm giám định hiện trường của anh đã đọc được tín hiệu phạm tội của rất nhiều xác chết, gặp nhiều hiện trường quái dị và đẫm máu, nhưng bất luận là cuộc hành trình đến địa ngục hay du hồn bám theo xe hoặc bóc trần sự thật trong ngôi nhà cổ, vụ thảm sát trong núi sâu... thì họ vẫn luôn tìm ra dấu vết dù là nhỏ bé nhất trong mười hai hiện trường vụ án vừa kỳ quái lại vừa hoang đường, từ đó vạch trần ra chân tướng sự thật. Trong tập truyện này, một sát thủ thần bí đang âm thần xuất hiện trong thành phố, hắn lặng lẽ hành quyết những người lang thang cơ nhỡ, những kẻ dối trá. Sau khi gây án, hắn hoàn toàn không để lại dấu vết nào ngoại trừ chữ ký bằng máu “Kẻ dọn rác” như lời thách thức dành cho giới cảnh sát. Nhóm giám định hiện trường có thể tìm thấy tay sát thủ thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma kia nhờ vào những dấu vô cùng tinh vi không? Mỗi giây mỗi phút diễn ra trong hệ liệt “Bác sĩ pháp y Tần Minh” đều khiến từng tế bào thần kinh của bạn chịu kích thích đến cực độ. Mời các bạn đón đọc Pháp y Tần Minh Tập 4: Kẻ Dọn Rác của tác giả Tần Minh.
Người Ruồi - Hans Olav Lahlum
Tác phẩm trinh thám viết theo lối cổ điển này được xem như là một hiện tượng trong vài năm trở lại đây tại Na Uy. Nhưng đằng sau lớp vỏ trinh thám mật thất kinh điển là một câu chuyện có chiều sâu với các nhân vật được khắc họa đa chiều. Một đêm cuối năm 1968, thi thể của một người anh hùng chiến tranh được tìm thấy trong căn hộ chung cư của ông sau một tiếng súng nổ. Sau khi khoanh vùng đối tượng tình nghi, cảnh sát xác định hung thủ chỉ có thể là một trong những người hàng xóm ở cùng chung cư với nạn nhân. Từ đây, quá khứ của từng người được bóc tách dần dần, và tất cả đều cho thấy có mối liên hệ ít nhiều phức tạp với người quá cố. Ai là hung thủ? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi thường thấy sau vụ án mạng thứ nhất còn chưa được giải đáp thì một cái chết thứ hai xảy ra, cũng trong cùng chung cư, khiến tất cả mọi người rúng động… Trong câu chuyện, chúng ta lần đầu được làm quen với hình mẫu một cặp đôi thám tử điều tra khá thú vị. Thanh tra cảnh sát Kohljorn Kristiansen (biệt danh K2) trẻ tuổi và đầy nhiệt huyết là một người có khả năng quan sát rất tốt, nhưng óc suy luận của anh lại không được nhạy bén bằng. May mắn thay, mỗi khi anh rơi vào bế tắc thì lại nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ Patricia Borchmann, một cô tiểu thư giàu có phải ngồi xe lăn sau một vụ tai nạn. Những gợi ý của Patricia giúp cho K2 giăi quyết được những khúc mắc của vụ án, nhưng ngược lại, việc phải gắn chặt với chiếc xe lăn khiến cô không thể trực tiếp đến quan sát hiện trường. Vì vậy, họ là một cặp đôi đầy thú vị, bổ khuyết cho nhau một cách hoàn hảo, dù không phải lúc nào cũng đồng tình với nhau. Một ưu điểm nữa của tác giả là khả năng tạo kịch tính. Đây là điều rất khó thực hiện với một câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất (góc nhìn của người phá án). Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo để cho những suy luận sai lầm của K2 liên tục đánh lừa bạn đọc, khiến cho chúng ta bị bất ngờ hết lần này đến lần khác. Cảnh ấn tượng nhất trong truyện là đoạn đọc di chúc của người quá cố. Có cảm giác như đó là một sân khấu kịch bất đắc dĩ với những người hàng xóm buộc phải đóng vai người tử tế, nhưng rốt cuộc bản chất của họ vẫn lộ ra. Từ những cái liếc mắt, tiếng thở dài, cho đến vị trí ngồi của họ, tất cả đều là những chi tiết cực đắt và được gài cắm rất khôn khéo, đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm khi bản chúc thư cuối cùng được công bố. Người ruồi là những con người không thể quên được quá khứ, nên dĩ nhiên tác phẩm này dành một dung lượng khá dài để ôn lại những ký ức vẫn còn nóng hổi về cuộc đại chiến thế giới thứ hai qua lời kể của những người hàng xóm. Đây là phần nội dung gây nhiều xúc động, đặc biệt là những tâm sự của vợ chồng người gác dan. Các bạn có thể thấy nó dài dòng không cần thiết, nhưng đừng hấp tấp bỏ qua nhé, nó chứa đựng một vài manh mối rất quan trọng của vụ án đấy. Tác giả khá tôn trọng luật công bằng của trinh thám suy luận cổ điển, nên bạn đọc có đầy đủ các dữ liệu để tìm ra hung thủ trước khi đọc những trang cuối. Vấn đề là bạn có đủ tinh ý hay không. Nói tóm lại, Người ruồi là một tác phẩm trinh thám lịch sử đáng đọc, đáng suy gẫm. Chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua những điểm còn chưa hoàn chỉnh của một tiểu thuyết đầu tay, và yên tâm về chất lượng của những cuốn tiếp theo trong series K2-Patricia này. *** Hans Olav Lahlum là một sử gia Na Uy, tác giả tội phạm, người chơi cờ vua và nhà tổ chức, và chính trị gia. Ông đã viết tiểu sử về Oscar Torp và Haakon Lie, và một cuốn sách lịch sử về tất cả các tổng thống của Hoa Kỳ.  Khi viết quyển tiểu thuyết trinh thám lịch sử này tôi đã vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của một nhà sử học, và đã cố gắng hết sức chân thật trong ngữ cảnh liên quan đến các sự kiện vào năm 1968 và Thế chiến thứ Hai. Tuy nhiên, người viết quyển tiểu thuyết này dù sao cũng là nhà văn Hans Olav Lahlum, chứ không phải nhà sử học cùng tên vốn được biết đến nhiều hơn. Và tôi cũng sử dụng sự tự do nghệ thuật mà các tác giả vẫn thường xuyên sử dụng. Tên các địa điểm và những con phố là chính xác, nhưng hầu hết những tòa nhà được đề cập đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Do đó, độc giả đặc biệt quan tâm sẽ có thể tìm thấy cả hai con phố Krebs và Erling Skjalgsson, nhưng sẽ không có những số nhà hoặc tòa nhà được mô tả trong quyển tiểu thuyết này. Tương tự như vậy, không thể tìm thấy một đồn cảnh sát ở Salen với cùng địa hình xung quanh hoặc cùng một kiến trúc như đã được mô tả trong chương Chín. Một vài nhân vật phụ đã được lấy cảm hứng trực tiếp từ những nhân vật lịch sử. Còn lại, tất cả những nhân vật chính, bao gồm cả nạn nhân vụ án, ông Harald Olesen, hoàn toàn là sản phẩm tưởng tượng của tác giả và không dựa trên bất kỳ nhân vật lịch sử nào, dù là của năm 1968 hay trong Thế chiến thứ Hai. Và đối với một vài nhân vật phụ được lấy cảm hứng từ nhân vật lịch sử kia, phải nhấn mạnh rằng sự miêu tả văn chương không dựa trên bất kỳ liên quan nào với một cuộc điều tra hình sự. Vụ án Feldmann, vốn được đề cập ngắn gọn trong tiểu thuyết này, là một trường hợp pháp lý được bàn tán rộng rãi từ năm 1946 đến 1947, trong đó hai người cựu dẫn đường qua biên giới bị kết tội sát hại một cặp vợ chồng người Do Thái trong chiến tranh với lí do tự vệ. Việc này đã được sử dụng như cứ liệu lịch sử cho quyển tiểu thuyết này, nhưng không tương ứng với cốt truyện hay bất kỳ nhân vật nào. Tuy nhiên, một vài nhân vật được lấy cảm hứng hoàn toàn hoặc một phần từ những người mà tôi biết ngày hôm nay - kể cả bản thân tôi. Trưởng bộ phận tiểu thuyết của nhà xuất bản Cappelen Damm, Anne Tlotaker, đã là người cố vấn quan trọng nhất của tôi về cả nội dung và bút pháp của quyển tiểu thuyết này. Tôi cũng nhận được những phản hồi hữu ích từ nhà phụ trách xuất bản, Anders Heger và biên tập viên Marius Wulfsberg. Tôi cũng muốn gửi ngàn lời cảm ơn đến một nhóm những cố vấn cá nhân, những người đã đọc tất cả các phần của bản thảo và cho tôi những lời phê bình mang tính xây dựng về mặt nội dung và/hoặc ngôn ngữ. Nhóm này bao gồm em gái tôi Ida Lahlum, cùng những người bạn tốt của tôi: Ingrid Baukhol, Mina Finstad Berg, Ingrid Busterud, Anne Lise Fredlund, Kathrine Ncess Hald, Hilde Harbo, Kristin Hatledal, Bjarte Leer-Salvesen, Torstein Lerhol, Espen Lie, Ellisiv Reppen, Jane Iren Solbrekken-Nygard, Karen Thue, Arne Tjolsen và ICatrine Tjolsen. Ellisiv và Mina cũng xứng đáng được nhắc đến, đặc biệt do mối quan tâm liên tục của họ đến dự án này và sự giúp đỡ thiết thực của họ trong những lần sửa bản thảo cuối cùng. Chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết liệu quyển tiểu thuyết trinh thám đầu tay này của tôi cũng sẽ là quyển cuối cùng hay nó sẽ khởi đầu của một chuỗi những tiểu thuyết trinh thám lịch sử. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể hy vọng rằng Người Ruồi cũng sẽ hấp dẫn người đọc như nó đã từng lôi cuốn tác giả. Độc giả có bất kỳ bình luận hoặc câu hỏi nào cho tác giả chỉ cần gửi email đến địa chỉ [email protected] hoặc đăng chúng lên trang Facebook của tôi. Gjovik, 27 tháng 6 năm 2010 Hans Olav Lahlum Mời các bạn đón đọc Người Ruồi của tác giả Hans Olav Lahlum.