Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Điển Khazar

Nếu có những cuốn sách đáng gọi “kỳ thư”, Từ điển Khazar là một trong số đó. Kể từ khi ra đời nó đã gây cảm hứng lớn lao cho nhiều thế hệ người đọc, và từ khi bản tiếng Việt được in lần đầu, nó đã là cánh cửa mở ra một thế giới mới mẻ và hấp dẫn khôn cùng của tiểu thuyết hiện đại. Với người đọc bình thường, cuốn sách cho ta một trải nghiệm khác lạ, “đọc theo cách nào cũng được” song đồng thời đầy thử thách, đòi hỏi ta tích cực tham gia vào việc tái dựng chỉnh thể, một cách tưởng tượng và sáng tạo. Với người viết văn, nó là minh chứng cho thấy những khả năng của tiểu thuyết là vô hạn và những chân trời chưa ai chạm tới của văn chương là kỳ vĩ, thu hút khôn cưỡng như thế nào. Không chỉ là “tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ 21” như một số người tán tụng, Từ điển Khazar còn giống như một cuốn sách xưa, lạ lùng, mà tác giả khai quật được từ bụi bặm lãng quên và đưa ra ánh sáng cho chúng ta, cuốn sách mà, dẫu nằm kia dưới ánh ban ngày, vẫn nguyên vẹn bóng tối âm hiểm, u trầm của nó. *** Cùng với "Từ điển Khazar", Milorad Pavic đi vào văn chương thế giới như một trong những nhà văn tìm lối đi riêng để làm mới thể loại tiểu thuyết Nhiều nhà phê bình gọi tiểu thuyết "Từ điển Khazar" (Trần Tiễn Cao Đăng dịch) của nhà văn Milorad Pavic là "tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ XXI" dẫu tác phẩm này được xuất bản từ năm 1984. "Kỳ thư" của thế kỷ XXI "Từ điển Khazar" như tên gọi của nó, là cuốn từ điển viết về dân tộc Khazar, được cấu trúc như một từ điển theo thứ tự của bảng chữ cái, là "tiểu thuyết - từ điển gồm 100.000 từ". Chính vì thế, trong mỗi ngôn ngữ khác nhau, người đọc của mỗi bản dịch sẽ có trình tự đọc "Từ điển Khazar" khác nhau như Milorad Pavic từng chia sẻ: "Bản gốc "Từ điển Khazar" in bằng chữ Cyrillic kết thúc bằng đoạn trích tiếng Latin: "sed venit ut illa impleam et confirmem, Mettheus". Bản dịch tiếng Hy Lạp kết thúc bằng câu: "Tôi đã nhận ra ngay rằng có đến ba nỗi sợ trong tôi chứ không chỉ một". Bản tiếng Anh, Do Thái, Tây Ban Nha và Đan Mạch "Từ điển Khazar" kết thúc bằng câu: "Khi người đọc quay trở lại, mọi thứ diễn ra theo thứ tự ngược lại và Tibon tiến hành sửa chữa bản dịch dựa trên ấn tượng khi nghe kẻ khác vừa đi vừa đọc to bản dịch ấy…". Không những thế, vì là "tiểu thuyết - từ điển" nên người đọc có thể chọn mục từ mình muốn đọc, đọc nhảy cóc, đọc xuôi hay đọc ngược, thậm chí "đọc chéo" theo lời khuyên của tác giả mà vẫn không thay đổi nội dung của tác phẩm. Bìa cuốn tiểu thuyết “Từ điển Khazar” xuất bản tại Việt Nam Làm được như thế là bởi "Từ điển Khazar" được xây dựng dựa trên cấu trúc mở, với những văn bản phân mảnh và kết hợp lại dựa trên sự chủ quan của độc giả, cũng như những dị biệt của từng ngôn ngữ. Khái niệm về đoạn đầu và đoạn cuối tác phẩm không còn cố định theo nghĩa thông thường nữa mà thay đổi, khiến cho tiểu thuyết này trở thành vòng tròn bất tận, không có đầu và không có kết trong chừng ấy trang sách. Nghĩa là trong cái hạn hữu của vật chất là trang giấy chứa đựng cái vô hạn của câu chuyện. Cách đọc này cho phép người đọc dự phần nhiều hơn vào một tác phẩm văn học. Thay vì chỉ duy nhất một cách đọc văn bản, tiểu thuyết hậu hiện đại cho phép người đọc được chọn lựa cách thức đọc một tác phẩm hay nói như nhà văn Raymond Queneau là "một truyện kể theo cách riêng của bạn". Bằng cách đó, con đường của tiểu thuyết không còn bó hẹp trong một lối đi mà có hàng ngàn dự phóng khác nhau, gây hứng thú cho cả người đọc lẫn người viết. Được sinh ra như đứa trẻ Sức hấp dẫn của "Từ điển Khazar" không chỉ đến từ cấu trúc đặc biệt của nó mà còn bởi câu chuyện hoang đường mà Milorad Pavic kể lại về cách cuốn "Từ điển Khazar" được hình thành qua hàng ngàn năm. Biến tiểu thuyết này thoát khỏi cái kỹ thuật nặng nề, khô cứng mà trở nên bay bổng, đầy thơ mộng bởi sức hấp dẫn của những truyện kể, gợi nhắc đến bộ kỳ thư của nhân loại "Ngàn lẻ một đêm" và Milorad Pavic không khác chi nàng Seherazat, mê hoặc người đi qua từ câu chuyện này đến câu chuyện khác hay ở đây là từ mục từ này qua mục từ khác. Được cấu tạo từ 3 quyển sách: "sách đỏ", "sách xanh" và "sách vàng" viết bởi 3 tôn giáo khác nhau (Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo) xung quanh sự kiện được gọi là "luận chiến Khazar". Tại sự kiện lịch sử đó, từng cuốn sách kể lại câu chuyện của mỗi tôn giáo về cách họ thuyết phục quốc vương cho phép dân Khazar cải đạo theo tôn giáo của mình. Chính ở đây, Milorad Pavic đẩy người đọc tiến xa hơn, không còn tiếp thu văn bản một cách thụ động mà buộc họ phải dự phần vào việc suy luận, tùy theo mỗi độc giả sẽ có một đáp án riêng của mình. Thậm chí, nếu hỏi Milorad Pavic, rốt cuộc người Khazar đã cải đạo nào thì chắc ông cũng lắc đầu nói không biết. Điều này khiến ta nhớ đến tác phẩm "Trong rừng trúc" của Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) hay "Cô dâu hay con hổ" của Frank R. Stockton (1834-1902) ở chỗ truyện không chỉ có một kết thúc mà quan trọng người đọc quyết định tin vào lời chứng nào và chọn kết thúc mà mình thấy hài lòng nhất. Milorad Pavic biến tiểu thuyết trở thành một sinh thể sống động chứ không còn là một văn bản chết của giấy và mực. Như chính ông từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn: "Tiểu thuyết được sinh ra hệt như một đứa trẻ". Câu nói này, không chỉ ví von cách nhà văn "thai nghén" ra tác phẩm mà còn ở chỗ "đứa trẻ" đó có một sinh mệnh riêng, những dự phóng riêng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của "cha mẹ", những tác giả không có nhiệm vụ quyết định thay độc giả tương lai của tác phẩm. Tiêu biểu cho văn chương hậu hiện đại Milorad Pavic sinh năm 1929, nhà văn người Serbia. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông từng được nhiều lần dự đoán là ứng cử viên sáng giá của Serbia cho giải Nobel Văn chương. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được các nhà phê bình trên thế giới đánh giá cao bởi những sáng tạo độc đáo, kích thích độc giả. Ngoài "Tiểu thuyết - từ điển gồm 100.000 từ", "Từ điển Khazar", Milorad Pavic còn có các tiểu thuyết độc đáo khác: "Tiểu thuyết ô chữ", "Phong cảnh vẽ bằng trà" (1988); "Tiểu thuyết - đồng hồ cát", "Mặt trong của gió"(1991) và "Tiểu thuyết - bài tarot", "Mối tình cuối ở Constantinople" (1994). Cũng giống như nhà văn Italo Calvino của Ý hay Jorge Luis Borges của Argentina, ông được xem là nhà văn tiêu biểu cho văn chương hậu hiện đại. Huỳnh Trọng Khang Mời các bạn đón đọc Từ Điển Khazar của tác giả Milorad Pavic.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Biển Chết - Jorge Amado
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể.   Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường.   IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Biển Chết của tác giả Jorge Amado.
Cha, Con Và Những Thước Phim - David Gilmour
Người cha đã nhìn thấy mình thuở nhỏ trong hình bóng của Jesse Gilmour - cậu con trai đang ở cùng vợ cũ. Ông băn khoăn "Jesse cần phải làm một cái gì đó, nhưng chính xác là phải làm gì? Tôi có thể cho nó làm việc gì mà không động chạm đến những thất bại ở trường học? Nó không thích đọc và cực ghét thể thao. Jesse thích điều gì? Nó rất thích xem phim. Ngay cả tôi cũng thích." Và quyết định cuối cùng đã được đưa ra: "Con không cần phải làm việc, cũng không cần phải trả tiền thuê nhà. Hàng ngày con có thể ngủ tới năm giờ chiều cũng được. Nhưng không được hút thuốc... Bố muốn mỗi tuần, con sẽ cùng bố xem ba bộ phim. Bố sẽ là người lựa chọn phim. Đây là kiến thức duy nhất con sẽ phải học." Quyết định này được đưa ra bởi ông nghĩ "đây một cách tốt nhất để đi sâu vào những bộ phim nghệ thuật của Châu Âu, tôi biết những bộ phim này sẽ khiến nó không chán khi nó học được cách để xem chúng. Điều đó cũng giống như một sự biến tấu trong việc học ngữ pháp thông thường". Liệu đó có phải là một quyết định liều lĩnh, sai lầm của một người cha - người đang quyết định số phận cuộc đời con trai mình? Cuốn sách The film club là câu chuyện có thật diễn ra trong ba năm của tác giả David Gilmour và con trai ông - hai thành viên duy nhất của câu lạc bộ phim sinh hoạt hàng tuần tại ngôi nhà nhỏ của mẹ Jesses. Những bộ phim được chiếu trong câu lạc bộ này do David chọn bằng kinh nghiệp của một nhà phê bình tài năng và lém lỉnh. Mỗi bộ phim được chiếu, ông tóm tắt nội dung, giới thiệu về tác giả, các diễn viên, giải thích từ việc làm phim, các cảnh quay cho đến những việc ở hậu trường. Tham gia câu lạc bộ của hai cha con Gilmour, độc giả sẽ như được xem tận mắt những bộ phim kinh điển: Crimes and Misdemeanors (Trọng tôi và khinh tội) (1989), Basic Instinct (Bản năng gốc) (1992), Giant (Người khổng lồ) (1956), Notorious (Khét tiếng) (1946), The Shinning (Ngôi nhà ma) (1980), Around the world (Vòng quanh thế giới) (1956), Last Tango in Paris (Bản tango cuối cùng ở Paris) (1972)... Những bộ phim hiện lên thật sống động, hấp dẫn qua lời kể của David - một nhà phê bình phim kinh nghiệm và hóm hỉnh. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ kì lạ này, không chỉ đơn thuần là những kiến thức về điện ảnh, mà đó là thời gian David quan sát cậu con trai đang tuổi dậy thì, suy nghĩ những việc cần làm cho Jesse và đôi khi đó là khoảng thời gian hai cha con tâm sự về tất cả những mối quan tâm của Jesse: Tương lai, bạn gái, thuốc lá, rượu, ma túy, công việc.... "Khi con đi học ở trường, con phải lo lắng về việc bị điểm kém và gặp rắc rối. Bây giờ, con không phải đến trường nữa, con lo lắng rằng, có thể con đã hủy hoại cuộc đời mình"... Hi vọng, lo lắng, thất vọng, giận dữ, hoài nghi, mừng vui... tất cả những cảm xúc đó được trải nghiệm qua từng bộ phim và từng trải nghiệm thực tế của Jesse. Mỗi bộ phim là một câu chuyện, một thông điệp mà các đạo diện, diễn viên và ekíp thực hiện gửi gắm. Qua những thước phim ấy, David đã dạy con cách sống bằng một phương pháp đặc biệt. Ông đã biết cách để Jesse tự quyết định cuộc đời của chính mình. Jesse đã vào đời từ những thước phim... *** Những lời khen tặng dành cho cuốn sách:   "Một cuốn hồi kí thông thái." - USA Today "Nhẹ nhàng... một bức chân dung tuyệt đẹp, không tô vẽ về những người cha và những cậu con trai - có những điều không theo qui tắc, có những rạn vỡ, tổn thương và có cả tình yêu thương." - Newsweek "[Cuốn sách] kể lại chi tiết về mối quan hệ giữa cha và con, gần gũi và gắn bó đến mức khiến nhiều bậc cha mẹ có con ở lứa tuổi thiếu niên phải ganh tỵ." - San Joe Mercury News "Chân thành... khiến tôi không chỉ một lần xúc động và bật khóc." - Douglas McGrath, Chuyên mục điểm sách của New York Times *** Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra(nhưng không phải một bất ngờ) Chloe, kẻ đam mê danh vọng ngất trời, dường như đã suy nghĩ lại. Morgan, theo lời đồn, thì đã được giải quyết nhanh gọn. Feelers bị đuổi ra ngoài. Đứa bạn thân nhất của Chloe “ngẫu nhiên” gặp Jesse tại một buổi tiệc, rồi bảo với cu cậu rằng Chloe “thực sự, thực sự nhớ nó.” Sắc thái hồng hào, tôi cho là thế, đã trở lại trên gương mặt thằng bé, thậm chí còn có cả sự khác biệt trong cách đi đứng và cái vẻ huênh hoang thì dù đã cố, vẫn không tài nào che giấu nổi. Jesse chơi cho tôi nghe một ca khúc, rồi thêm một bài hát khác nữa. Nhóm Nostalgia Đồi Bại hóa ra, ý chúng ám chỉ trong ngành công nghiệp giải trí, trở lại trong thời kỳ ăn khách. Chúng biểu diễn ở một quán bar trên phố Queen. Còn tôi thì rơi vào tình trạng bị đày ải. Ý thức rằng mối quan tâm của nó với chương trình xem phim Buried Treasures (Những kho báu bị lãng quên) đang nguội lạnh dần, tôi đã có tầm nhìn xa hơn. Cần có thứ gì đó để viết lách lúc này vì dường như thằng nhóc đang có khuynh hướng đi theo con đường đó. Nhưng hoạt động này đã có rồi, rõ ràng như việc trên mặt tôi có mũi ấy: Hai cha con đã lập một chương trình về các bộ phim có kịch bản được viết hay không chịu nổi. Chúng tôi nghiên cứu bộ phim Manhattan (năm 1979) của Woody Allen. Xem phim Pulp Fiction (năm 1994) để làm rõ sự tương phản giữa việc viết vui và viết thật. Pulp Fiction là một bộ phim vô cùng thú vị, với lời thoại long lanh tráng lệ nhưng không có khoảnh khắc có tính người thực sự nào trong đó. Tôi đã nhắc mình kể cho Jesse nghe câu chuyện về nhân vật Chekhov đi xem vở kịch The Dolh Hordse của Ibsen trong một rạp hát ở Moscow, suốt buổi diễn, anh ta quay sang một người bạn và thì thầm: “Nghe này, Isben không phải một nhà biên kịch... ông ta chẳng hiểu gì về cuộc sống cả. Trong cuộc sống thực, mọi thứ đơn giản không giống như thế này.” Mời các bạn đón đọc Cha, Con Và Những Thước Phim của tác giả David Gilmour.
Học Phí Trả Bằng Máu - Nguyễn Khắc Phục
Bộ tiểu thuyết “Bay qua cõi chết” lúc đầu dự định có 4 tập: Học phí trả bằng máu – Thành phố đứng đầu gió – Đêm trước mùa Mậu Thân – Màu da trên xác chết, nhưng vì một sự cố mà chưa một nhà văn nào trên đất nước này gặp phải, Tác giả chỉ đi được một nửa chặng đường của mình. Trong bộ tiểu thuyết này, ta sẽ bắt gặp số phận của bao con người trên mảnh đất miền Trung bị lôi cuốn vào cơn bão tố của cuộc chiến tàn khốc, dai dẳng vào bậc nhất trong lịch sử đất nước này. Ai trong số họ cũng phải trả “Học Phí Bằng Máu” cho mỗi quyết định, lựa chọn của mình… *** Tác giả Nguyễn Khắc Phục * Tên khai sinh: Nguyễn Khắc Phục, sinh ngày 24.8.1947 tại Nhang Cát, Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Nơi ở hiện nay: 2A Thủy Xưởng, thành phố Nha Trang. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Học hết phổ thông trung học. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1975). * Nguyễn Khắc Phục đã tham gia nhiều công việc như đi trên biển, làm công tác tuyên huấn, hiện nay ông là biên kịch điện ảnh. * Tác phẩm đã xuất bản: Vườn thầy Năm (kịch, 1972); Trường ca ăn cốm giữa sân (1973); Thành phố không bị chiếm (kịch, 1975); Học phí trả bằng máu (tập 1, tiểu thuyết, 1984); Thành phố đứng đầu gió (tập 2, tiểu thuyết, 1986-1989); Khát vọng (tiểu thuyết, 1986); Điệp khúc hy vọng (tiểu thuyết, 1978); Giọt nước mắt cuối cùng (tiểu thuyết, 1989); Cuối xuân (tiểu thuyết, 2 tập); cùng hàng chục kịch bản phim, sân khấu đã được dàn dựng. - Giải thưởng văn học: Giải thưởng báo Văn nghệ 1967 và tạp chí Văn nghệ Quân đội 1969 về truyện ngắn.   Mời các bạn đón đọc Học Phí Trả Bằng Máu của tác giả Nguyễn Khắc Phục.
Chỉ Cần Mẩu Khăn Giấy - Dan Roam
“Để chứng minh rằng chúng ta hiểu rõ một điều gì, không có cách nào hùng hồn bằng việc vẽ ra một bức tranh đơn giản về vấn đề đó. Và để thấy được những giải pháp ẩn bên dưới, không có cách nào hiệu quả bằng việc cầm bút lên và vẽ ra các “mảnh” vấn đề của chúng ta.”  Đó là những điều Dan Roam viết trong cuốn Chỉ cần mẩu khăn giấy, cuốn sách bán chạy nhất thế giới đã chứng minh rằng một bức vẽ đơn giản trên mảnh khăn giấy khiêm nhường có thể hiệu quả hơn nhiều so với một bài trình bày PowerPoint cầu kỳ nhất. Dựa trên 20 năm kinh nghiệm và những khám phá mới nhất về khoa học thị giác, Roam hướng dẫn người đọc cách làm sáng tỏ bất cứ vấn đề nào và “bán” bất cứ ý tưởng nào, chỉ sử dụng một bộ công cụ vô cùng đơn giản. Nhờ đó, cuốn sách đã được bình chọn là cuốn sách hay nhất năm, ở ba hạng mục khác nhau của ba tờ báo uy tín là BusinessWeek, Fast Company và Times (London), đồng thời nằm trong Top 5 cuốn sách kinh tế hay nhất của Amazon.  *** Một ngày ở MTA Một ngày mùa thu năm 2006, tôi lên chuyến tàu điện ngầm của thành phố New York, hướng về phía trung tâm. Ted Weinstein, đại diện bản quyền, cho rằng tôi có một ý tưởng tốt cho một cuốn sách về kinh doanh nên đã sắp xếp cho tôi một buổi gặp với nhà xuất bản và vài người quan trọng khác ở Penguin, nhà xuất bản lớn nhất thế giới. Ted nghĩ rằng tôi đã sẵn sàng chào bán ý tưởng của mình và đồng ý gặp tôi ở văn phòng của Penguin để giới thiệu về nó. Ngồi trên tàu, tôi lướt lại một lần nữa bài giới thiệu của mình. “Tựa đề cuốn sách của tôi là Biểu đồ triệu đô: Hướng dẫn cách tư duy thị giác cho các nhà tư vấn (The Million-Dollar Chart: The Consultant’s Guide to Visual Thinking). Nội dung của nó là làm thế nào để các nhà tư vấn kinh doanh có thể sử dụng hình vẽ để khám phá, phát triển và chia sẻ các ý tưởng đột phá hiệu quả hơn.” Lời quảng bá nghe có vẻ ổn, nhưng tôi lại lo lắng về một phần rất quan trọng. Cuốn sách xoay quanh một loạt các câu hỏi mà tôi cho rằng các doanh nhân nên tự đặt ra cho mình khi họ muốn thể hiện một ý tưởng bằng hình ảnh trực quan. Các câu hỏi rất đa dạng, chẳng hạn “Tôi nên trình bày ý tưởng của mình theo kiểu liệt kê hay kiểu trực quan?” hoặc “Tôi nên trực tiếp trình bày ý tưởng của mình hay so sánh với một điều gì khác?”. Tổng cộng có năm bộ câu hỏi loại này, và tôi đã dành nhiều năm để tinh lọc chúng. Tôi biết chúng rất hiệu quả và toàn diện đối với vấn đề tư duy bằng hình ảnh, nhưng tôi cũng biết rằng mình sẽ quên biến mất một nửa số đó khi đặt chân vào phòng họp. Tôi cần tìm cách để nhớ được toàn bộ các câu hỏi này. Tôi lôi ra cuốn sổ tay và viết lại cả năm bộ câu hỏi trong lúc tàu điện ngầm vẫn lắc lư dọc đường ray: Viễn cảnh (Vision) hay Thực thi? Thay đổi (Change) hay Nguyên trạng? Đơn giản (Simple) hay Tỉ mỉ? Định tính (Qualitative) hay Định lượng? Riêng biệt (Individual) hay So sánh? Rồi tôi bắt đầu kết hợp các chữ cái đầu tiên của mỗi câu hỏi, để xem có thể tạo thành một từ viết tắt hay một phương pháp ghi nhớ nào đó không. Mời các bạn đón đọc Chỉ Cần Mẩu Khăn Giấy của tác giả Dan Roam.