Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Danh Nghĩa Nhân Dân

Danh nghĩa nhân dân xuất bản tháng 1/2017, đến tháng 5 đã được tái bản lần thứ mười, tổng lượng bán ra hơn 1 triệu 500 ngàn bản. Tại Liên hoan truyền hình quốc tế Macao lần thứ 8 năm 2017, bộ phim truyền hình chuyển thể cùng tên đã đoạt bốn giải thưởng lớn, trong đó có giải Phim truyền hình xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất. Nội dung kể về cuộc chiến chống tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng. Lấy bối cảnh chính trường tỉnh H, Trung Quốc, tác giả miêu tả cuộc chiến cam go giữa một bên là Hầu Cảnh Bình, cục trưởng cục chống tham nhũng tỉnh H và các kiểm sát viên viện kiểm sát, với một bên các quan chức cao cấp đã tha hóa trong bộ máy tỉnh chuyên lấy danh nghĩa nhân dân ra để biện minh, phục vụ cho lợi ích của mình. Vốn dĩ, viết về quyền lực chính trị của các phe phái trong một bộ máy cán bộ chính quyền không bao giờ là việc dễ dàng. Nhưng Danh nghĩa nhân dân của Chu Mai Sâm đã thực sự làm được điều đó. Không đơn giản hư cấu nên một cuộc đấu đá chốn quan trường, tác phẩm đã trở thành một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội Trung Quốc trong thời đại phát triển mới, sâu hơn nữa soi tỏ nội tâm đấu tranh giữa danh lợi và sự công minh, để lộ phần nhân tính bản chất trong mỗi con người. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Chu Mai Sâm sinh năm 1956, người Từ Châu, Giang Tô. Là nhà văn chuyên nghiệp, phó chủ tịch Hội Nhà văn tỉnh Giang Tô, ủy viên Hội Nhà văn Trung Quốc các khóa 7, 8, 9. Các tác phẩm của Chu Mai Sâm thường xoay quanh chủ đề chính trị, quan trường, giành được nhiều giải thưởng cao, như Nhân gian chính đạo đoạt giải Sách Quốc gia năm 1996, Made in China đoạt giải Sách Quốc gia và giải Năm Công trình năm 1998, Lợi ích tối cao đoạt giải Sách Quốc gia năm 1999, Quyền lực tuyệt đối đoạt giải Sách Quốc gia năm 2002. Nhiều tác phẩm của Chu Mai Sâm được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập do chính ông là biên kịch, và được khán giả vô cùng yêu thích. Danh nghĩa nhân dân xuất bản tháng 1/2017, đến tháng 5 đã được tái bản lần thứ mười, tổng lượng bán ra hơn 1 triệu 500 ngàn bản. Tại Liên hoan truyền hình quốc tế Macao lần thứ 8 năm 2017, bộ phim truyền hình chuyển thể cùng tên đã đoạt bốn giải thưởng lớn, trong đó có giải Phim truyền hình xuất sắc nhất và Biên kịch xuất sắc nhất. *** Danh nghĩa nhân dân: Lời nhắc nhở những người làm phòng tuyến chống tham nhũng Mỗi khi hai chữ nhân dân được viết ra trên trang giấy, người đọc như khựng lại mấy nhịp: có phải một tên quan tham nữa sắp lộ nguyên hình rồi không? Tiểu thuyết Danh nghĩa nhân dân (Lục Hương dịch) của nhà văn Chu Mai Sâm ra đời trong bối cảnh chiến dịch chống tham nhũng "đả hổ diệt ruồi" dâng lên cao trào ở Trung Quốc.  Viết về một đề tài khó cả nghề văn lẫn nghề chính trị, Chu Mai Sâm đã lão luyện vẽ ra màn kịch đấu trí ở chốn quan trường tỉnh H, giữa một bên chống tham nhũng và bên kia là bè lũ đã bị danh lợi làm cho hủ bại. Vào cái đêm lời khai của một viên trưởng phòng thuộc Bộ Xây dựng tuôn ra, chính trường tỉnh H đã không còn được trở về như cũ, từng thớ đất bị trốc lên để tìm kẻ tham nhũng, những vụ án mạng nhằm vào cán bộ điều tra được thi triển lạnh lùng. Trung tâm của cuộc chiến là Hầu Lượng Bình - cục trưởng Cục Chống tham nhũng tỉnh H. Như Tôn Hành Giả trở mình phá ngọn núi tảng bằng ý chí sắt đá, Hầu Lượng Bình đã từng bước đưa bè phái hủ bại ra ánh sáng công lý, chỉ có điều sợi dây tham nhũng càng kéo càng dài, càng giật càng thấy người thân... "Lượng Bình, cậu nhớ kỹ cho tôi, viện kiểm sát của chúng ta là viện kiểm sát nhân dân, tòa án của chúng ta là tòa án nhân dân, công an của chúng ta gọi là công an nhân dân.  Vì vậy chúng ta vĩnh viễn phải đặt lợi ích của nhân dân trong lòng mình, vĩnh viễn, vĩnh viễn" - những lời nói khiến người ta run run xúc động này là từ Cao Dục Lương, thầy giáo cũ của Hầu Lượng Bình và nay là bí thư ủy ban chính trị tỉnh H. Khoảnh khắc nghe được lời khuyên nhủ, Hầu Lượng Bình thực sự đã bị kích động mãnh liệt, trong lòng tự nhủ sẽ đeo đuổi vụ án tham nhũng đến cùng. Cả anh cũng không ngờ người nói ra câu chữ hùng hồn kia lại chính là kẻ sừng sỏ nhất đứng đằng sau tấm màn trướng giăng biểu ngữ nhân dân. Các nhân vật trong cuốn sách của Chu Mai Sâm ngoài mặt chữ thì được chia làm hai tuyến chính - tà nhưng tựu trung lại chỉ là một tuyến: chính trị gia. Nói như vậy có nghĩa là những mưu kế chính trị được rải lớp lang khắp các trang sách.  Người ngay thẳng cũng muốn leo lên địa vị cao hơn, kẻ dính chàm lại càng muốn cao hơn nữa, nếu chống tham nhũng mà không có nghề chính trị thì sớm muộn cũng bị người ủng hộ mình quay lưng lại. Sự nghiệp tiểu thuyết của Chu Mai Sâm đều là về chốn quan trường, cách ông viết về thủ thuật Hầu Lượng Bình lách qua những cạm bẫy chính trị cũng khiến người đọc phải rùng mình vì sự liều lĩnh trong ngòi bút, sự sắc bén trong tư duy. Nhân dân là tầng lớp ít xuất hiện nhất trong tập sách. Những quan chức đấu đá nhau, nhân dân chính là người chịu hậu quả sau rốt, nhưng trên mặt trận danh nghĩa, mặt trận phát biểu, mặt trận hội nghị... lúc nào cũng nghe bô bô hai chữ này.  Đương đầu với những kẻ giả nhân giả nghĩa, lại có quyền thế, có chỗ dựa (tài nguyên chính trị nói như lời tác giả Chu Mai Sâm), cục trưởng Hầu Lượng Bình như một người đi giữa bão lửa. Dẫu đến cuối truyện, "củi ướt củi khô" từ địa phương đến trung ương đều bị cháy rụi nhưng mầm mống tham nhũng vẫn tiếp tục sinh sôi. Cuốn sách như một lời nhắc nhở đến những con người làm phòng tuyến chống tham nhũng: khi nào còn có người dựa vào quyền lực để mưu cầu hư vinh cho bản thân, ngày ấy tham nhũng còn cơ hội ngóc dậy từ tro tàn. Cuốn sách đi sâu vào bản chất của con người, nơi lương tri phải đấu tranh với quyền lực để giành giật lại chính mình. Chỉ trong hoàn cảnh cam go, thử thách như vậy, chúng ta mới biết được chỗ đứng của nhân dân là ở đâu. *** Hầu Lượng Bình nhận được tin chuyến bay bị hoãn vô thời hạn, sốt ruột muốn nhảy dựng lên. Anh vốn định đáp chuyến bay cuối cùng đến tỉnh H, phối hợp chỉ huy hành động bắt giữ phó thị trưởng thành phố Kinh Châu Đinh Nghĩa Trân, phen này thì kế hoạch lỡ dở hết cả. Trên loa vang lên tiếng nữ phát thanh viên hết lượt này đến lượt khác thông báo cáo lỗi bằng tiếng Anh và tiếng Trung, bầu trời phía trên sân bay có vùng mây dông, vì sự an toàn của hành khách, máy bay tạm thời không thể cất cánh. Trán Hầu Lượng Bình rịn mồ hôi lấm tấm, anh đã biết nỗi khổ bị giam chân ở sân bay, giờ lại phải nếm mùi đau khổ thêm lần nữa rồi. Màn hình tivi cỡ lớn đang chiếu hình ảnh khí tượng, từng đám từng đám mây trắng dày đặc đang xoay tròn theo hình lốc xoáy, trông có vẻ rất nguy hiểm. Hàng chữ thuyết minh là kiến thức phổ cập ngành hàng không: dông sét gây nguy hiểm cho an toàn bay như thế nào, lọt vào vùng mây dông sẽ dẫn đến tai nạn hàng không ra sao. Nhưng tất cả đều không thể làm tâm trạng lo lắng bồn chồn của mọi người lắng xuống, thời điểm này, cả sảnh chờ máy bay dường như đã biến thành một cái tổ ong khổng lồ, tiếng người nhao nhao ồn ào, cũng không ngoài hỏi thăm thời gian chuyến bay của mình có thể cất cánh, truy hỏi phương án bồi thường, vân vân và vân vân. Hầu Lượng Bình chẳng cần chen lên phía trước cũng hiểu được một điều: chỉ cần vùng mây dông ấy vẫn còn trên đỉnh đầu mình, đừng hòng có chuyến bay nào được cất cánh. Hầu Lượng Bình rảo bước đi ra khỏi sảnh chờ, tìm một chỗ yên tĩnh vắng vẻ, gọi hết số di động này đến số di động khác. Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh H Quý Xương Minh tắt máy. Cục trưởng Cục chống tham nhũng Trần Hải tắt máy. Đương khi bận rộn thì mất tích bà nó hết. Đương nhiên, Hầu Lượng Bình biết bọn họ không mất tích, mà đang tham gia một cuộc họp khẩn cấp, báo cáo về vụ án Đinh Nghĩa Trân với phó bí thư tỉnh ủy phụ trách công tác chính trị pháp luật Cao Dục Lương, thông thường, những người tham gia họp đều phải tắt máy. Nhưng Hầu Lượng Bình thà tin rằng bọn họ cố tình tắt máy, chơi trò mất tích với anh. Với tư cách trưởng phòng điều tra của Tổng cục chống tham nhũng thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hầu Lượng Bình đã nhiều lần nhấn mạnh, thậm chí là thỉnh cầu các đồng nghiệp ở tỉnh H: bắt người trước, rồi họp sau! Gã phó thị trưởng họ Đinh này quá quan trọng, là một mắt xích then chốt trong vụ án Triệu Đức Hán nhận hối lộ vừa phá được. Nếu để lộ phong thanh làm hắn ta chạy mất, rất nhiều bí mật trong quan trường của tỉnh H có thể sẽ như đá chìm đáy biển. Hầu Lượng Bình cực kỳ bất mãn với người bạn học cùng đại học Trần Hải, anh đã đặc biệt dặn đi dặn lại Trần Hải đừng báo cáo, cứ khống chế Đinh Nghĩa Trân trước rồi tính sau, nhưng Trần Hải nhát gan, quanh co mấy câu rồi rốt cuộc vẫn báo lên cấp trên. Hầu Lượng Bình chính là sợ đêm dài lắm mộng, bắt Triệu Đức Hán xong liền lập tức lên chuyến bay đêm đến tỉnh H, không ngờ lại gặp phải vùng mây dông thế này. Hầu Lượng Bình đột nhiên phát hiện, bên ngoài chẳng có gió cũng chẳng có mưa, bình yên tĩnh lặng, đến cả tiếng xe đưa đón khách như thoi dệt cửi ồn ã cũng đã biến mất. Dông sét ở đâu ra? Vùng mây dông ở chỗ quái nào? Anh chạy ra cửa sảnh chờ, ngước nhìn bầu trời đêm. Bầu không tuy mây đen mờ mịt, trăng lu sao mờ, nhưng chẳng thấy ánh chớp mà cũng càng không nghe thấy tiếng sấm đâu, hình như máy bay không thể cất cánh là một sai lầm! Vừa khéo bên cạnh anh có một nhân viên sân bay đi qua bên cạnh, Hầu Lượng Bình chặn ông ta lại chất vấn. Vị cán bộ sân bay đã có tuổi này liếc nhìn anh một cái đầy ngụ ý, rồi ra vẻ triết lý nói, nhìn sự vật không thể chỉ nhìn bề ngoài, anh thấy được phía bên trên tầng mây kia à? Đằng sau sự tĩnh lặng bao giờ cũng ẩn chứa bão giông. Hầu Lượng Bình nhìn theo bóng lưng ông ta mà ngẩn người, tựa như vừa nghe được một ẩn dụ nào đó, những lời nói ấy khiến anh không ngừng liên tưởng... Hầu Lượng Bình tốt nghiệp khoa chính trị pháp luật trường đại học H, thầy giáo và bạn học rải khắp cả quan trường tỉnh H, khiến anh có một tình cảm vướng vít đặc biệt với tỉnh này. Cơn bão chống hủ bại tham nhũng đang càng lúc càng mạnh lên ở khắp nơi, chỉ riêng tỉnh H lại bình lặng khác thường, các lời đồn khi nổi chỗ này khi chìm chỗ khác bao năm nay đa phần đều chỉ dừng lại ở mức độ lời đồn mà thôi. Đương nhiên, Hầu Lượng Bình hiểu đây chỉ là hiện tượng giả tạo, người trần mắt thịt không thể thấy được thế giới bên trên tầng mây dày đặc, cũng không thể nhìn thấy những chỗ tối tăm ẩn giấu bên dưới ánh mặt trời. Vụ Đinh Nghĩa Trân nổi lên mặt nước cơ hồ là một sự ngẫu nhiên, nếu không phải vụ án động trời của Triệu Đức Hán dính dáng đến hắn, nhất thời cũng khó mà nắm được chứng cứ nào chắc chắn. Trưởng phòng điều tra hiểu rõ tầm quan trọng của thời cơ, bước chân đầu tiên ra cửa lúc nào cũng là mấu chốt quyết định thắng hay bại. Hầu Lượng Bình sốt ruột lắm, nhưng sốt ruột cũng chẳng ích gì, trên trời có dông sét ngăn cản anh lại. Anh đi qua cửa kiểm tra an toàn lần nữa, quay lại sảnh chờ. Trong sảnh vẫn hết sức ồn ào. Anh cố ép mình bình tĩnh lại, đứng trước máy nước sạch uống mấy ngụm, tìm một ghế trống ngồi xuống, nhắm mắt nghỉ ngơi. Hình ảnh Triệu Đức Hán sa lưới liền hiện lên trước mắt anh, Hầu Lượng Bình không kìm được, lại chìm vào những hồi ức về Triệu Đức Hán. Tối hôm qua, khi người này đang bê cái bát tô lên ăn mì tương đen, cánh cửa gỗ cũ kỹ "cót két" mở ra, anh chính là người thay mặt cho số mệnh đến gõ cửa nhà tay tham quan này. Ông ta có gương mặt trung hậu thật thà, thoạt nhìn không giống một cán bộ cơ quan nhà nước cho lắm, mà như một lão nông dân vừa ở ruộng về nhà. Tay nông dân này rất bình tĩnh, tố chất tâm lý cực tốt, gặp biến mà không kinh hoảng. Hầu Lượng Bình liếc qua đã nhìn thấu, đây là trạng thái mạnh mẽ do nắm quyền lớn trong tay thời gian dài rèn nên. Đương nhiên, có lẽ ông ta đã đoán trước được cảnh tượng ấy từ lâu, đã có chuẩn bị tâm lý. Chỉ có điều, Hầu Lượng Bình không ngờ, một trưởng phòng dự án của ủy ban cấp bộ bị chỉ đích danh tố cáo nhận hối lộ đến mấy chục triệu nhân dân tệ lại sống ở nơi tồi tàn thế này! Đây là một căn hộ cơ quan cải tạo lại khá phổ biến, khoảng bảy mươi mét vuông, đã cũ kỹ lắm rồi. Đồ đạc trong nhà toàn là mua từ thời Triệu Đức Hán kết hôn, quê kệch hết sức, góc xô pha đã mòn bục cả ra. Ngoài cửa chỏng chơ mấy đôi dép lê rách nát, có vứt ra đường cũng chẳng ai thèm nhặt. Bồn cầu trong nhà vệ sinh đang rò nước, cứ hai ba giây lại nghe "tí tách" một tiếng. Vòi nước trong nhà bếp cũng đang nhỏ nước, nhưng hình như không phải bị rò, mà là cố ý trộm nước. Chứng cứ rất rõ ràng, chậu rửa mặt bên dưới vòi đã hứng được nửa chậu nước sạch không phải trả tiền. Mời các bạn đón đọc Danh Nghĩa Nhân Dân của tác giả Chu Mai Sâm & Lục Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiều Hôm Lỡ Chuyến - Mishima Yukio
Yukio Mishima tên thật là Hiraoka Kimitake sinh năm 1925 tại Tokyto - Nhật Bản và kết thúc cuộc đời bằng việc tự sát năm 1970. Các thể loại sáng tác bao gồm: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và kịch. Sự nghiệp của ông được bắt đầu bằng cuốn tiểu thuyết “Confessions of a Mask”, năm 1948. Ông chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo Samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Ông được đánh giá là một trong những nhà văn quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được đề cử là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học *** Giải thưởng: Giải Shincho (1954); Giải thưởng Kishida cho tác phẩm kịch (1955); Giải Yomiuri (1957, 1961). Truyện kể về Ryuji, một chàng thủy thủ luôn sống với ý nghĩ, dù là mơ hồ, rằng có một niềm vinh dự đặc biệt nào đó đang chờ đợi chàng ngoài biển khơi. Chàng gặp một thiếu phụ có tên là Fusako và yêu nàng say đắm. Cuối cùng, chàng quyết định kết hôn với nàng. Đứa con trai 13 tuổi của Fusako – Noboru – là một trong những đứa trẻ trong nhóm những cậu bé có tính nết hoang tàn. Những đứa trẻ này tin vào cái gọi là “tính khách quan”, bài trừ thế giới người lớn bởi theo chúng người lớn là những kẻ luôn sống trong ảo mộng, là những kẻ đạo đức giả và lụy tình. Ngay khi Ryuji bắt đầu thân thiết với Fusako – người thiếu phụ sống bên bờ biển – cũng là lúc chàng xé bỏ những ước mơ mà chàng đang đeo đuổi trong cuộc đời chàng. Con trai của Fusako, Noboru, có một sở thích nhìn lén mẹ nó qua lỗ khóa cửa: mỗi lần nhìn ngắm mẹ nó trút bỏ xiêm y, nó lại thấy cơ thể mình đê mê, rạo rực. Noboru căm ghét cái ý nghĩ rằng mẹ nó đang dần xa rời nó để đến với một người đàn ông, người mà đã lấy đi của nó niềm hy vọng và sự tự do. Sự giận dữ, nỗi lo sợ vì phải cô đơn ấy của Noboru đã hóa chuyển thành những hành động hung dữ khủng khiếp của chính nó và những đứa trẻ cùng trong nhóm. *** Truyện kể về Ryuji, một chàng thủy thủ luôn sống với ý nghĩ, dù là mơ hồ, rằng có một niềm vinh dự đặc biệt nào đó đang chờ đợi chàng ngoài biển khơi. Chàng gặp một thiếu phụ có tên là Fusako và yêu nàng say đắm. Cuối cùng, chàng quyết định kết hôn với nàng. Đứa con trai 13 tuổi của Fusako – Noboru – là một trong những đứa trẻ trong nhóm những cậu bé có tính nết hoang tàn. Những đứa trẻ này tin vào cái gọi là “tính khách quan”, bài trừ thế giới người lớn bởi theo chúng người lớn là những kẻ luôn sống trong ảo mộng, là những kẻ đạo đức giả và lụy tình. Ngay khi Ryuji bắt đầu thân thiết với Fusako – người thiếu phụ sống bên bờ biển – cũng là lúc chàng xé bỏ những ước mơ mà chàng đang đeo đuổi trong cuộc đời chàng. Con trai của Fusako, Noboru, có một sở thích nhìn lén mẹ nó qua lỗ khóa cửa: mỗi lần nhìn ngắm mẹ nó trút bỏ xiêm y, nó lại thấy cơ thể mình đê mê, rạo rực. Noboru căm ghét cái ý nghĩ rằng mẹ nó đang dần xa rời nó để đến với một người đàn ông, người mà đã lấy đi của nó niềm hy vọng và sự tự do. Sự giận dữ, nỗi lo sợ vì phải cô đơn ấy của Noboru đã hóa chuyển thành những hành động hung dữ khủng khiếp của chính nó và những đứa trẻ cùng trong nhóm. ***  “Ngủ ngoan đi con”, Mẹ nó vừa nói vừa đứng từ bên ngoài khoá tách cửa phòng ngủ lại. Không biết khi cháy nhà thì bà sẽ xoay xỏa ra sao. Việc trước tiên phải làm là cứu nó thoát ra khỏi phòng, bà vẫn thường tự thề với mình như vậy. Nhưng ngộ nhỡ lửa nóng làm khung cửa gỗ cong queo hoặc sơn chảy ra bịt kín lỗ khoá cửa đi thì sao? Nhảy qua cửa sổ mà chạy trốn ư? Phía dưới cửa sổ là lối đi trải đá hơn nữa tầng nhì của căn nhà ngất nghểu này lại cao quá chừng, thực tuyệt vọng chẳng còn trông mong được gì hết. Chẳng qua cũng đáng đời cho nó, tự thân tác nghiệp cả! Nếu không có một lần nghe lời thằng thủ lĩnh dụ dỗ lẻn trốn khỏi nhà giữa đêm khuya thì làm gì có chuyện. Sau đó dù bị cật vấn biết bao lần, nó vẫn nhất định không chịu xưng tên thằng thủ lĩnh ra cho mẹ nó hay. Hai mẹ con nó sống trong căn nhà cha nó xây lên lúc còn sinh tiền trên đỉnh đồi Yado ở Yokohama. Sau chiến tranh, căn nhà bị quân đội chiếm đóng trưng dụng và sửa sang để cho căn phòng nào trên tầng nhì cũng có nhà tiêu, nhà tắm riêng rẽ. Đêm đến có bị nhốt trong phòng cũng chẳng đến nỗi khó chịu tù túng bao nhiêu nhưng đối với một thằng bé mười ba tuổi như nó thì thật là một sự khuất nhục khủng khiếp. Một sáng phải một mình ngồi trông nhà, muốn phá phách cho hả, Noboru đã lục lọi lung tung khắp phòng chẳng chừa một chỗ nào hết. Áp ngay vào bức tường phòng ngủ mẹ nó, có kê một cái tủ gỗ đầy những ngăn kéo rộng lớn. Nó lôi hết mấy cái ngăn kéo ra hất tung hê các thứ bên trong vung vãi khắp sàn và bất chợt nó nhìn thấy một tia sáng chiếu rọi vào trong một ngăn tủ rỗng không. Nó chui đầu vào trong khoảng trống và khám phá ra nguồn ánh sáng: qua một cái lỗ nhỏ nó nhìn thấy mặt trời buổi sáng đầu mùa hè phản ánh chói chang trên măt biển chiếu sáng chan hoà căn phòng trống không của mẹ nó. Ngăn tủ này rộng lắm. Nó uốn mình chui tọt vào trong, ngay cả một người lớn nếu chịu khó cuộn mình cũng có thể chui lọt vào nữa. Ghé mắt qua lỗ hổng nhìn vào phòng ngủ của mẹ, Noboru cảm thấy có một cái gì thực mát mẻ tốt tươi. Mấy chiếc giường ngủ bằng đồng thau bóng loáng mà ba nó gửi mua tận New Orleans ở châu Mĩ đem về vẫn được kê sát tường bên trái sau khi ba nó qua đời. Một tấm khăn trải giường và trên tấm vải trắng tinh có một chữ «K» to tướng nổi bật lên – đó là chữ đầu trong họ Kuroda nhà nó. Một cái mũ cói màu xanh nước biển để đội khi đi dạo mát nằm trỏng trơ trên giường, dải mũ dài có tua xanh lợt buông thõng phất phơ. Trên chiếc bàn đặt đèn ngủ, có một cái quạt điện màu xanh. Phía bên phải, gần cửa sổ là cái bàn phấn có tấm gương ba mặt hình bồ dục. Tấm gương vẫn chưa hoàn toàn khép kín, mép kính phía trên lấp lánh trông như những mảnh giá băng có góc cạnh sắc nhọn. Phía trước gương là cả một rừng chai lọ nho nhỏ: nước hoa eau de Cologne, bình xịt nước hoa, lọ hương thuỷ màu tím để pha vào nước tắm, cái cốc chân vại theo lối người Bôhêmiêng trông như pha lê trong vắt, mặt cốc lóng lánh dưới ánh sáng mặt trời, một đôi bao tay màu nâu nhăn nheo dúm dó trông như mấy chiếc lá sam. Một bộ trường kỉ, hai chiếc ghế, một cây đèn và một cái bàn thâm thấp, bóng bẩy hào nhoáng được kê ngay dưới cửa sổ. Trên bộ trường kỉ có một tấm khung thêu mới bắt đầu thêu phác một hình vẽ. Thứ này gần đây không còn thấy lưu hành nữa, nhưng mẹ nó lại thích những trò thủ công nghệ như thế này. Hình thêu dường như là một nửa cánh chim anh vũ màu sắc sặc sỡ trên nền xám bạc. Bên cạnh khung thêu là những chiếc bít tất dài vứt bừa bãi chồng chất lên nhau. Tiêng ni lông mỏng dính màu da người và tấm vải thêu phủ trên bộ trường kỉ cọ sát vào nhau kêu sột soạt làm cho toàn thể căn phòng có một vẻ rộn rã xôn xao. Chắc hẳn là ngay lúc sắp sửa đi ra ngoài mẹ nó mới khám phá thấy đôi tất dây bẩn nên vội vã thay ngay đôi khác. Qua khung cửa sổ chỉ có thể nhìn một khoảng không có mấy áng mây dày, cứng và bóng lộn như là men sứ dưới ánh sáng chói chang phản chiếu trên mặt biển. ... Mời các bạn đón đọc Chiều Hôm Lỡ Chuyến của tác giả Mishima Yukio.
Chiếc Âu Vàng - E.T.A. Hoffmann
Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX, tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt, đầy sức hấp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng - món quà tặng của tình yêu luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông (Nhà văn Pháp H. Balzac ca ngợi Hoffmann là “nhà ảo thuật phương Đông”)... Có người nói, Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. *** Ernst Theodor Amadeus Hoffmann sinh ngày 24.1.1776 tại Königsberg, là nhà văn được giới văn học sử nhất trí tôn vinh là một thiên tài đa dạng trong giai đoạn văn học lãng mạn Đức thế kỷ 19. Ông là luật sư, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà phê bình âm nhạc, giám đốc nhà hát, nhạc trưởng... và nổi bật hơn cả là một cây bút danh tiếng có sức mê hoặc người đọc cùng thời và có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến các trào lưu lãng mạn ở Đức và châu Âu. Với hai cuốn tiểu thuyết Rượu trường sinh của quỷ (Die Elixiere des Teufels, 1816), Quan niệm sống của chú mèo Murr (Lebensansichten des Katers Murr, 1819 - 1821) và hơn 70 truyện vừa và truyện cổ tích văn học (trong đó có những tác phẩm nổi tiếng thế giới như Chiếc âu vàng (Der goldene Topf, 1814), Vua chuột và chàng cắn hồ đào (Nußknacker und Mausekưnig, 1816), Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober (Klein Zaches, genannt Zinnober, 1819), Thống lĩnh Bọ Chét (Meister Floh, 1822), Tiểu thư Scuderi (Das Fräulein von Scudéry, 1819)..., được sáng tác trong vòng 13 năm cuối đời, E.T.A. Hoffmann ngay lúc sinh thời đã là một nhà văn có sách bán chạy nhất nước Đức, là một cây bút luôn được người đọc ở trong và ngoài nước đón đợi, ái mộ và tán thưởng. Các truyện cổ tích văn học của Hoffmann được nhiều nhà phê bình Đức đánh giá là những tác phẩm bậc thầy trong làng văn học lãng mạn và huyễn tưởng mà đỉnh cao, tiêu biểu nhất là câu chuyện tình hấp dẫn và kỳ thú Chiếc âu vàng. Bằng giọng văn bi hài và giầu chất men say của một cây bút thường sáng tác văn chương trong trạng thái ngà ngà, say say, tỉnh tỉnh, E.T.A. Hoffmann đã rất tài tình pha trộn màu sắc và âm thanh của thế giới hiện thực với thế giới huyền ảo, mộng mị và có chút ma quái cuốn hút người đọc vào một câu chuyện tình đầy vẻ huyền bí và biến ảo khôn lường của chàng sinh viên Anselmus với hai người đẹp là Veronika, con gái rượu của viên hiệu phó Paulmann và Serpentina, một con rắn xanh óng ánh vàng và là con gái của hỏa thần Lindhorst - một vị thần vì tình yêu đã phạm tội và bị lưu đầy xuống thế giới trần tục của con người. Chuyện tình của Anselmus là câu chuyện của một tâm hồn nghệ sĩ bị giằng xé, vật vã giữa thế giới vật chất và tinh thần, giữa khát vọng về một cuộc sống cao đẹp hài hòa với thiên nhiên trong trí tưởng tượng bay bổng của thi ca với đời sống thường nhật tẻ nhạt, háo danh, háo lợi và đầy những toan tính thấp hèn. Và cuối cùng, sau biết bao thử thách cam go và đau khổ, sau những cuộc chiến ác liệt giữa ác thần (dưới hình dạng một mụ già bán táo và phù thủy) và hỏa thần (người dẫn lối cho Anselmus đến xứ sở thần tiên trong trí tưởng tượng của thi nhân), chàng sinh viên thông minh nhưng vụng về và lạc lõng trong đời thực đã đến được nơi chàng hằng ước mơ... Trong một lần đề cập đến nguyên tắc sáng tác, Hoffmann đã phát biểu: “Tôi cho rằng, nền tảng của chiếc thang bắc lên trời mà người ta muốn trèo lên, vươn tới những miền cao cả hơn phải bám chắc vào cuộc sống để mỗi người đọc đều muốn trèo lên theo. Và khi con người trèo lên cao, cao hơn, cao hơn nữa và thấy mình đang ở trong một vương quốc kỳ diệu, huyễn tưởng, con người sẽ tin rằng cả vương quốc này cũng vẫn thuộc vào cuộc sống của mình và nó lại là cái phần kỳ diệu, tuyệt vời nhất của cuộc sống”. Hoffmann đã dũng cảm lên tới được nơi chốn huyền diệu nhất của con người và để lại cho văn chương nhân loại nhiều tác phẩm kỳ thú, trong đó, tác phẩm Chiếc âu vàng được chính Hoffmann đánh giá là sáng tác thành công nhất của cả cuộc đời mình. Giới phê bình Đức cũng nhất trí với Hoffmann cách đánh giá như vậy và còn bổ sung thêm: Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX. Đó là tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt bay vút lên từ hiện thực cuộc sống và xã hội thời đại ông, là một tác phẩm tài hoa trong nghệ thuật cấu trúc, đầy sức hẫp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại, và cũng rất đặc biệt, bởi nó được sáng tác bằng tâm hồn của một nhạc sĩ kiêm nhạc trưởng dàn nhạc có tên là E.T.A. Hoffmann, một tài năng âm nhạc có nhiều nhạc phẩm đáng kính nể với vô số các bản giao hưởng, nhạc thính phòng và các vở nhạc kịch, trong đó vở ôpera Udine của ông hoàn toàn xứng đáng với thiên tài âm nhạc Mozart mà ông từng tôn thờ. Hơn nữa, Chiếc âu vàng cũng như nhiều tác phẩm văn chương khác còn được sáng tác bằng con mắt tinh tường và sắc sảo của một họa sĩ, một nhà đồ họa và một nhà vẽ tranh biếm họa có biệt tài hài hước và châm biếm có tên là E.T.A. Hoffmann. Vì vậy, văn chương ở đây là sự hội tụ của thơ, của nhạc và của hội họa trong cùng một con người lạ lùng ấy. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng - món quà tặng của tình yêu - luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông[1]. E.T.A. Hoffmann đã và vẫn đang là đối tượng nghiên cứu với nhiều mâu thuẫn của giới phê bình văn học, nhất là trong việc xác định vai trò lịch sử và vị trí của ông trong truyền thống văn chương Đức. Có người nói Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. Dù sao, thời gian cũng đã chứng minh một cách đầy thuyết phục nhận định của văn hào Áo Stefan Zweig: Ai đã vượt qua được thử thách một trăm năm, người đó sẽ vượt qua mãi mãi và tồn tại. E.T.A. Hoffmann là một người như thế. Cùng với Goethe, Schiller, Heine, ông thuộc vào số ít những cây đại thụ của thời hoàng kim văn chương Đức mà tác phẩm được tôn vinh là những kiệt tác văn chương thế giới. Ngày 25 tháng 6 năm 1822, E.T.A. Hoffmann đã ra đi vĩnh viễn, ngọn lửa kỳ ảo Hoffmann vụt tắt trong tiếng nhạc chuông thủy tinh du dương và tiếng vọng của màu Xanh huyền bí mà ông đã từng viết cho đời: - Ôi! Màu Xanh, màu Xanh! Màu Xanh mẹ hiền của tôi! - Xin hãy đón tôi vào vòng tay của mẹ!... Hà Nội, ngày 30/11/2011 QUANG CHIẾN Mời các bạn đón đọc Chiếc Âu Vàng của tác giả E.T.A. Hoffmann.
Ảo Hỏa - Hermann Hesse
Ảo hóa, một truyện ngắn chỉ vài mươi trang nhưng nó giúp chúng ta vỡ lẽ triết lý “Tánh Không" của Đạo Phật: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành thức cũng lại như vậy". Có thế nói, khi đọc đến chứ cuối cùng của tác phẩm này, Ảo hóa đã đem lại cho người đọc sư vỡ òa của trí tuệ, giúp nhìn rõ thưc tánh “không có chỉ bên" của vạn vật, giống như là vừa tung xong bài “Bát nhã Tâm Kinh". *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana. Ravana có một người con trai tên Dasa. Mẹ Dasa chết sớm, vương tử cưới một người vợ khác. Sau khi người đàn bà đẹp và tham vọng này sinh được một con trai, bà đâm ra thù ghét Dasa. Bà muốn cho Nala, con mình kế vị, nên âm mưu chia rẽ cha con Dasa, và chờ cơ hội thanh toán cậu bé. Trong triều, có một người Bà-là-môn, tên Vasudeva, viên quan coi về tế tự, biết được âm mưu của bà. Ông thương tình cậu bé, người mà ông thấy có khuynh hướng sùng tín và đức công bằng giống mẹ. Ông trông chừng cho Dasa khỏi bị hại, và chờ dịp đưa cậu ra khỏi tầm tay mẹ ghẻ. Bấy giờ vua Ravana sở hữu một đàn bò được xem là thiêng liêng. Sữa và bơ của chúng dùng để tế thần. Những đồng cỏ tốt nhất trong xứ dành cho những con bò ấy. Một ngày kia, người chăn bò đem sữa về kinh, báo cáo rằng trong vùng bò đang ăn cỏ, có những dấu hiệu sắp hạn hán. Do đó, đoàn người chăn dẫn bò lên những dãy núi cao, ở đó nước và cỏ luôn luôn sẵn sàng ngay cả vào những thời khô ráo nhất. Người Bà-la-môn đã quen biết người chăn bò này từ lâu, anh ta là một người đáng tin cậy. Ông cho anh ta biết dự định của mình. Hôm sau, khi hoàng tử bé Dasa biến mất, thì chỉ có ông và người chăn ấy biết được lý do bí ẩn của sự mất tích. Người chăn bò đem cậu bé theo lên núi rừng. Họ theo kịp đàn bò di chuyển chậm chạp. Dasa sung sướng được gia nhập đoàn mục tử. Cậu phụ giúp thả bò, vắt sữa, chơi với những con bê, và lang thang khắp những đồng cỏ trên núi, uống sữa tươi ngọt ngào. Những bàn chân trần của cậu lấm đầy phân bò. Cậu thích đời sống mục tử này, dần quen với rừng núi và những cây trái, hoa cỏ của nó. Cậu nhổ những củ sen ngọt trong ao đầm, và vào những ngày lễ hội, cậu đeo một tràng hoa rừng đỏ chói. Cậu trở nên quen thuộc với đường đi lối về của thú rừng. Tập tránh cọp, chơi với những con sóc và nhím. Mùa mưa cậu ở trong căn nhà lá, mà ở đó bọn chăn bò chơi cờ, hát hoặc đan giỏ hay chiếu cói. Dasa không hẳn quên hết đời sống vương giả của mình trước đấy, nhưng chẳng mấy chốc những thứ này đối với cậu dường như một giấc chiêm bao. Một ngày kia, khi đàn bò đi đến một vùng khác, Dasa vào rừng để tìm mật. Từ ngày biết núi rừng, cậu đã bắt đầu thích; nhưng đặc biệt khu rừng này, cậu thấy nó đẹp lạ. Những tia nắng lượn khúc qua những cành lá trông như những con rắn vàng. Những tiếng của rừng, tiếng chim hót, tiếng xào xạc của những ngọn cây, tiếng của những con khỉ quyện vào nhau thành một mạng lưới âm thanh êm dịu trong sáng, giống như ánh sáng giữa những cành cây. Những mùi hương cũng vậy, hoà vào nhau rồi lại phân tán: hương của hoa rừng, của những loại cây, lá, nước, rêu, thú vật, trái cây và của đất, vừa cay nồng vừa dịu ngọt, vừa hoang dã vừa thân thiết, vừa kích thích vừa thoa dịu, vừa buồn vừa vui. Dasa quên mất việc tìm mật. Trong khi lắng nghe tiếng hót của những con chim nhỏ màu sáng như ngọc, cậu chú ý đến một đường mòn giữa những cây phong chót vót, trông như một cụm rừng nhỏ ở trong khu rừng lớn. Đấy là một lối đi rất nhỏ hẹp, cậu im lặng rón rén bước theo dấu đường mòn, và đến một cây bàng có nhiều nhánh lớn. Dưới gốc cây, có một cái chòi nhỏ, một túp lều đan bằng lá dương xỉ. Cạnh túp lều, một người đàn ông đang ngồi bất động, lưng thẳng tuột, hai bàn tay đặt trên đôi chân bắt chéo. Dưới mái tóc bạc trắng và vầng trán rộng, đôi mắt bất động của ông tập trung trên mặt đất. Đôi mắt ấy đang mở, nhưng như nhìn vào bên trong. Dasa nhận ra rằng đấy là một người thánh thiện, một người tu phái Yoga. Trước đấy cậu đã thấy những người như vậy, đó là những người được ân sủng của thần linh, đáng được tôn trọng, cúng dường. Nhưng người cậu đang thấy đây, ngồi trước túp lều được lợp rất đẹp và ở nơi kín đáo này, hoàn toàn bất động như thế, đăm chiêu trong thiền định - người này càng lôi cuốn cậu bé hơn bất cứ người nào cậu đã gặp. Ông ta dường như bay lượn trên mặt đất, trong khi đang ngồi đấy, và dường như cái nhìn xa xăm của ông, thấy và biết mọi chuyện. Một hào quang của sự thánh thiện vây phủ ông, một phép mầu của sự tôn nghiêm lan toả làm cho cậu không dám phá tan bằng một lời chào hay một tiếng kêu. Vẻ uy nghiêm của người ông, ánh sáng nội tâm rạng ngời trên gương mặt ông, mãnh lực tâm linh toát từ nơi ông khiến Dasa có cảm tưởng đây là một con người mà, chỉ cần móng một niệm nghĩ, không cần phải ngước mắt lên, cũng có thể sinh và sát được cái gì ông muốn. Người ẩn sĩ ngồi bất động hơn cả cây cối mà những cành lá còn lay động trong hơi thở của gió. Người này ngồi bất động như một pho tượng đá, và từ khi thấy người ấy, cậu bé cũng đứng bất động, say mê, như bị bùa lực lôi cuốn. Cậu đứng nhìn chòng chọc vào vị thầy. Cậu thấy một đốm sáng mặt trời trên vai ông ta, một đốm sáng trên một bàn tay buông thõng của ông, cậu trông thấy những điểm sáng di động ẩn rồi hiện, nhưng những thứ này không làm vị ấy cử động, cũng như tiếng chim hót và tiếng của những con khỉ từ các khu rừng xung quanh. Một con ong rừng đến đậu trên má ông, đánh hơi làn da ông, bò một đoạn ngắn trên má ông rồi vụt bay đi. Nhà ẩn sĩ vẫn ngồi bất động trước tất cả sự sống động đủ màu sắc của khu rừng. Tất cả cảnh tượng này, những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe, những cái đẹp và xấu, đáng yêu hay kinh khủng, đều không mảy may liên hệ đến con người thánh thiện này. Toàn thể thế giới xung quanh ông đã trở thành bề mặt vô nghĩa lý. Cậu bé mục tử có gốc gác vương giả tưởng chừng như vị ẩn sĩ này đã lặn sâu xuống dưới lớp bề mặt của cuộc đời và đi vào bản thể của mọi sự. Một điều lạ lùng, trong khi đứng đấy, cậu bỗng nhớ lại gốc gác vương giả của mình. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Hỏa của tác giả Hermann Hesse.
Ánh Nắng Nhiệm Màu - Chân Phương
Đến đại lộ Cộng Hòa lúc nào cũng không hay, Hiệp theo thói quen cho xe chạy chậm lại. Đây là một trong những con đường còn xứng danh là một đại lộ của Đô thành, có đường rộng cho xe lớn lướt vội vàng, có lối thênh thang cho xe hai bánh chạy ung dung, có lề lót gạch phẳng phiu và nhất là có bóng mát, thật nhiều bóng mát cho người đi bộ. Ở đây, mỗi người cất bước là một vì vương tiến giữa hai hàng cây sừng sững như những tên lính khổng lồ đứng thẳng tắp giương lên thật cao những chiếc lọng thiên nhiên lợp bằng lá cây xanh ngắt. Dù bận đến đâu, Hiệp cũng không nỡ cho xe chạy nhanh trong cái khung cảnh êm đềm ấy. Nó gợi lại trong đầu chàng bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu. Bao nhiêu buổi sáng mát rượi, bao nhiêu buổi chiều dìu dịu, chàng đã được cùng các bạn nô đùa thỏa thích nơi đây trong khi ở đàng kia, không xa, trời nắng như đổ lửa. Hiệp mỉm cười ôn lại những trận đấu sức cùng các bạn ngày nào trong bóng cây râm mát. Bỗng chàng giật mình thấy một toán sáu bẩy cậu học sinh trạc 14, 15 tuổi đang sắp sửa dánh nhau. Đánh nhau thật sự chứ không phải giả ngộ như ngày xưa chàng nô giỡn cùng chúng bạn. Một bên hai cậu, một bên đông gấp đôi, bốn cậu, đã quăng cặp xuống đường, sắp xông vào đấm đá. Hiệp ngừng xe, chưa kịp chạy lại can thiệp đã thấy từ đâu phóng tới một cậu học sinh thứ bẩy cũng trạc tuổi sáu cậu kia. Cậu này giang hai tay tách sáu người ra làm hai toán. - Thôi – cậu ôn tồn nói – cho tôi xin đi, anh em cả mà, đánh nhau chi cho mệt, kỳ lắm! Hiệp ngạc nhiên, bụng bảo dạ tiếng ai nghe quen quen như tiếng thằng Thuận. Vẫn ngồi yên trên xe lúc này đã đậu sát lề, chàng gỡ cặp kính râm ra coi, thấy quả là cháu mình, lại đeo kính lên, lặng yên thử xem nó hòa giải các bạn của nó ra sao. Thuận, một tay cầm cặp, vẫn tươi cười giang rộng hai tay như một đôi cánh xòe ra giữa hai toán đứng ngó nhau gườm gườm. Quay sang bên phải, nó bảo hai cậu vốn là bạn cũ ở gần nhà: - Thiết, Thực, hai bác đang trông ở nhà kìa! Nghỉ hai giờ cuối, sao còn lạng quạng ở đây? Về nhà lẹ đi kẻo hai bác la cho đó! Rồi quay sang bên trái, nó ngạc nhiên nhận được một người quen: - Ủa! Lợi hả? – nó hỏi – Giờ này chưa đi học sao? Hà hà, anh phải mách anh Lộc trị tội cậu này mới được! - Giáo sư bệnh – Lợi vội bào chữa – chúng em cũng được nghỉ hai giờ chót mà. - Ờ, thôi được – Thuận nói – Lợi về đi. Cả ba anh nữa. Học trò với nhau cả mà, ai lại nói chuyện phải trái với nhau bằng đấm đá bao giờ! Thằng Lực, to con và vẻ mặt ba trợn nhất trong đám bạn thằng Lợi, định sừng sộ. Thằng Lợi vội gạt đi, cướp lời: - Vâng, vâng, chúng em về… Dĩ hòa vi quý mà anh! Trong khi hai anh em thằng Thiết dắt nhau đi vô hướng đường Lý Thái Tổ thì Thuận rảo bước đi còn ngoái lại bảo Lợi: - Lợi vô nói với anh Lộc tối nay ghé chơi anh Thuận nghe! - Dạ, anh Thuận nhớ đừng mách anh em đấy nhé. - Ờ! Hiệp mỉm cười, sắp nổ máy cho xe chạy, bỗng ngưng lại lắng tai nghe. - Lợi, thằng nào đó? – Lực hậm hực hỏi bạn – Thằng Thuận nào mà mày có vẻ ngán dữ vậy? - Anh Thuận bạn thân của anh Lộc tao đó. Khỏe lắm mày ơi! Mày đánh không lại đâu! - Nhưng tao không thích nó can cái kiểu đàn anh ấy – Lực vẫn ấm ức nói – Đánh không lại, tao cũng không ngán. Thằng Lợi cười cười: - Biết rồi. tao thấy bộ dạng mày muốn ăn đòn nên phải cướp lời không để cho mày gây sự. Bộ mày chưa nghe tiếng Thuận đầu bò sao? - Chưa, nó ghê gớm như thế nào, nói tao nghe đi. - Oai hùng không thể tả! – Lợi ba hoa kể – Chẳng những một mình thằng Lực chả đi đến đâu, cho luôn cả ba thằng chúng mày xúm vào, ảnh cũng đá bay trong nháy mắt. Đến anh Lộc tao sừng nhất trường, muốn hạ tụi du đãng choai choai xóm Sáu Lèo để cho các em lớp Sáu khỏi phải nạp tiền mãi lộ, còn phải nhờ anh Thuận giúp một tay mới xong. Chúng mày biết không, năm sáu thằng đen chùi chũi và đô thật là đô, có cả dao con chó nữa, thế mà hai anh ấy tay không đánh cho một trận bò lê bò càng, cạch không dám bắt nạt và làm tiền các em nhỏ nữa… Thằng Chi nãy giờ đứng im, lên tiếng hỏi: - Thằng chả cùng học với anh mày ở Chu văn An hả, Lợi? - Đâu có! - Nhưng chắc cũng trên chúng mình vài lớp? – Chi hỏi gặng. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Nắng Nhiệm Màu của tác giả Chân Phương.