Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

AI CẬP SINH TỬ KỲ THƯ

Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông...

Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông...

Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn.

Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn.

“Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”. Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình. Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”. Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng. Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình.

“Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”.

Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình.

Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”.

Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng.

Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

MINH TÂM BỬU GIÁM - TRƯƠNG VĨNH KÝ (1924)
Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát. Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát.Hán học du nhập Việt Nam từ thời nội thuộc nhà Hán (179 trước Công Nguyên). Các triều đại kế tiếp của Trung Quốc đều duy trì ý thức vun đắp cho nền văn hóa và chính trị khu vực bằng tinh thần "đồng văn". Do đó, sách vở Trung Quốc lưu hành ở Việt Nam không thua kém gì ở Trung Quốc nhờ sự qua lại khá thường xuyên của giới ngoại giao và giới doanh nhân hai nước. Tuy nhiên, sách Minh Tâm Bảo Giám có mặt nhan nhản trong dân gian hầu hết lại là sách chép tay gia truyền của những gia thục chứ các nhà xuất bản địa phương không hề tham gia phát hành, khắc in như đối với các sách khác - Phần lớn các ông Ðồ lại thường dạy theo trí nhớ thành thử thử ít đảm bảo tính chính xác, thống nhất của văn bản. Tựu trung các sách ấy thuộc hai dòng chính: - Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc". - Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ" Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn. Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản). - Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc".- Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ"Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn.Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản).MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
MƯU LƯỢC TOÀN THƯ - QUỶ CỐC TỬ
Trong lịch sử Trung Quốc, thòi Chiến Quốc là thời kỳ xã hội rối ren, loạn lạc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử liên tục biến đổi, thậm chí là tùng giò, từng phút. Thời đại như vậy đã sản sinh ra rất nhiều nhà chính trị, nhà quân sụ, nhà mưu lược, cũng như các phe phái học thuật và các lý thuyết mưu lược. Trong lịch sử Trung Quốc, thòi Chiến Quốc là thời kỳ xã hội rối ren, loạn lạc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử liên tục biến đổi, thậm chí là tùng giò, từng phút. Thời đại như vậy đã sản sinh ra rất nhiều nhà chính trị, nhà quân sụ, nhà mưu lược, cũng như các phe phái học thuật và các lý thuyết mưu lược. Mỗi nhà chính trị, quân sự, mưu lược đều có lý thuyết mưu trí riêng cho mình, họ đã thể hiện rõ sự tài ba, cũng như phát huy được sở trường của mình trong những cuộc đấu tranh lịch sử. Quỷ Cốc Tử đã lớn lên trong bối cảnh xã hội như vậy, ông là thuỷ tổ của Tung Hoành gia, mặc dù Ông sống ẩn dật nơi núi cao rừng sâu, song tên tuổi của ông vẫn được nhiều ngưòi biết đến. Rốt nhiều học trò của ông đã vận dụng tốt thuật Tung Hoành của ông đi du thuyết chư hầu, tạo dựng sự nghiệp thành công và để lại tiếng vang muôn đời. Mỗi nhà chính trị, quân sự, mưu lược đều có lý thuyết mưu trí riêng cho mình, họ đã thể hiện rõ sự tài ba, cũng như phát huy được sở trường của mình trong những cuộc đấu tranh lịch sử. Quỷ Cốc Tử đã lớn lên trong bối cảnh xã hội như vậy, ông là thuỷ tổ của Tung Hoành gia, mặc dù Ông sống ẩn dật nơi núi cao rừng sâu, song tên tuổi của ông vẫn được nhiều ngưòi biết đến. Rốt nhiều học trò của ông đã vận dụng tốt thuật Tung Hoành của ông đi du thuyết chư hầu, tạo dựng sự nghiệp thành công và để lại tiếng vang muôn đời.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” nghiên cứu trí tuệ quyền thuật và mưu lược trong xã hôi cổ đại. Cao Tự Tông đời Tống đã từng ca ngợi rằng: “Những mưu trí, thuật số, cách ứng biến của cuốn sách này, là tiêu chuẩn của người thời Chiến Quốc”; là “Kiệt tác của một thời”.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” và “Binh Pháp Tôn Tử” đều được mệnh danh là “Thánh điển binh thư”, trong đó “Binh pháp Tôn Tử” thiên về chiến lược tổng thể, còn “Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” lại thiên về kỹ xảo chiến lược tấn công, do đó hai cuốn sách này có thể sử dụng bổ trợ cho nhau.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” là sự hội tụ kiến thức xã hội chính trị thâm thúy, tài năng hùng biện cao siêu và quyền thuật mưu lược xuất sắc, nó mang ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc cho người đời sau trong đối nhân xử thế, cũng như trong chính trị, thương trường. Có thể nói, giá trị của nó tồn tại mãi mãi.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” là tác phẩm duy nhất của phái Tung Hoành còn tồn tại tới ngaỳ nay, tiên phong trong việc sáng tạo ra thuật du thuyết Trung Quốc, từng được mọi người lý giải và vận dùng từ nhiều góc độ khác nhau.MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
Khuyến Học
Khuyến Học Khuyến Học Khuyến Học là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến công chúng Nhật Bản. Khi mới đựơc in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người. Fukizawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, ý nghĩa của nền văn học mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị… khuyến học đã làm lay chuyển tâm lý người Nhật Bản. Với tuyên ngôn “trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”, Fukuzawa Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng cho đa số người Nhật Bản vốn quen phục tùng phó mặc và e sợ quan quyền. Công Ty Nhật Bản Made In Japan: Chế tạo tại Nhật Bản Nghệ Thuật Bài Trí Của Người Nhật Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực tế”. Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc. Quan điểm xuyên suốt cuốn sách là “làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản” trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa. Khuyến Học sẽ giúp độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính các và tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô “ăn nhờ ở đậu” nhờ có sự khai sáng đã trở thành “quốc dân” của một đất nước Nhật Bản hiện đại.
Siêu Hình Học
Siêu Hình Học Siêu Hình Học Siêu Hình Học là một bản giáo khoa về triết học cơ bản, đó là Siêu hình học – khoa học về hữu thể, như vẫn luôn được hiểu kể từ thời Permenides, Plato, Aristotle, và Thánh Thomas Aquinas cho đến ngày nay. Trong hai thập niên gần đây, một số lượng lớn những tác phẩm triết học đã ấn hành đều là những chuyên khảo và những khảo luận, mà tốt nhất nên coi như sách sử ký và phân loại. Kèm theo hiện tượng này là chuyện suy giảm việc ấn hành và sử dụng những tác phẩm triết học có tầm mức tổng quát hơn, ví dụ những sách giáo khoa. Điều này có thể là do những thay đổi thị hiếu của độc giả đương đại – giờ đây dường như họ cần được thoát khỏi lối tiếp cận hệ thống quá mức và học thuật quá cao của nhiều sách giáo khoa triết học. Triết Học Hiện Sinh Triết Học Trong Khoa Học Tự Nhiên Kinh Dịch Trọn Bộ Siêu hình học đặc biệt có giá trị trong thời chúng ta như triết học khai mở đến sự siêu việt của hữu thể sau nhiều thế kỷ bị hạn chế do chủ quan. Những nghiên cứu đương đại về hiện tượng luận, hiện sinh, và triết học phân tích, thêm một lần nữa đã làm dấy lên những vấn đề liên quan đến hữu thể. Mục tiêu của chúng tôi là trình bày cho độc giả những nguyên tắc siêu hình một cách sáng tỏ và thứ tự. Do đó, độc giả có thể giải quyết những vấn đề triết học nóng bỏng mà con người thời đại chúng ta phải đối mặt…