Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Hoa Tiêu trên Sông Danube - Jules Verne

  *** Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng. Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn. Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”. *** Vào ngày đó, thứ bảy 5 tháng tám 1876, cả một đám đông người ồn ào tụ tập tại quán rượu “Cuộc gặp mặt của các ngư dân”. Những tiếng hát, tiếng ly tách, tiếng hoan nghênh, tiếng la hét trộn lẫn thành sự ồn ào kiinh khủng, chốc chốc lại bật lên những tiếng thét to: “Hô!” bộc lộ niềm vui tràn ứ. Những ô cửa sổ nhỏ của quán rượu trông thẳng ra sông Danube, ven sông là một thành phố nhỏ tuyệt diệu của Ditmaringen, thủ phủ cua triều đại Phổ, tọa lạc bên nguồn sông vĩ đại vùng Trung Âu. Sau khi đeo xong tấm biển, được kẻ bằng những kiểu chữ Gô-tích thật đẹp, treo trên cửa ra vào, các hội viên của “Hội vùng sông Danube” đi vào quán rượu. Đây là một hội quốc tế bao gồm những ngư dân thuộc nhiều quốc gia khác nhau nằm ở ven sông Danube. Nếu không có sự đánh chén thì cuộc nhóm họp nào cũng mất đi phần náo nhiệt vui tươi – thức uống phải ngon nhất hạng. Thế nên ở đây người ta uống bia Huyn-khen hảo hạng và rượu ngon Hungary – ly cốc nào cũng luôn đầy tràn. Họ phì phà thuốc lá và những ống điếu dài lúc nào cũng nhả khói thơm lựng ngập tràn cả gian phòng lớn mời tố. Nếu những người nói chuyện không nhìn thấy mặt nhau, ắt họ cũng nghe được tiếng nhau, nhất là đối với những người không bị nặng tai. Là những con người điềm tĩnh và lặng lẽ khi bắt tay vào việc, những ngư dân này sẽ hóa thành những người ồn ào nhất trên đời, khi họ đã xếp mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của cánh săn bắn. Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là hàng trăm khách được mời đến – những dũng sĩ của cái cần câu, những người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê. Đồng hồ gõ ba tiếng – khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng sông Danube”. Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén) này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia. Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu. Cuộc thi vừa được diễn ra, đây là lần thứ hai trong năm 1876. Vào lúc 5 giờ sáng, những đối thủ đã rời khỏi thị trấn và tụ tập trên bờ trái sông Danube gần Ditmarigen. Họ thảy đều ăn bận theo đồng phục của hội đoàn: áo choàng ngắn không làm gò bó các cử động, quần dài được nhét ống vào đôi ủng đế cao, mũ với phần lưỡi trai lớn. Đương nhiên, họ có trong tay cả bộ các loại dụng cụ khác nhau mà đã được liệt kê trong “Sách chỉ nam của người câu cá”. Những cần câu, những vợt phụ, chỉ câu được bó lại trong các túi da nai, những cái phao đủ mọi độ sâu, những hạt chì đủ mọi kích thước cho hòn chì, những con ruồi nhân táo, những sợi dây nhỏ, dây gân Florentina. Sự câu cá được tự do, bất cứ con cáo nào câu được cũng được tính điểm, và mỗi người câu cá đều có thể cho nó ăn thêm gì cũng được. Khi đồng hồ điểm sáu giờ, chín mươi bảy đấu thủ đều vào chỗ với cần câu trên tay, chuẩn bị ném móc câu. Khi kèn trỗi nhạc hiệu, thí chín mươi bảy sợ chỉ câu đồng loạt vút lên trên mặt sông. Vài giải thưởng đã được công bố tại hội thi, hai giải đầu, mội người được 100 phloring, được quy định phát cho người câu cá câu được số cá nhiều nhất, và cho người câu được con cá lớn nhất. Hoàn toàn không có diễn biến gì xảy ra cho đến hồi kèn hiệu thứ hai. Hội thi kết thúc vào lúc 11g. Số cá câu được của mỗi người đều được giao lại cho ban giám khảo gồm chủ tịch Micletxco và bốn hội viên của “Hội vùng sông Danube”. Dù rằng những người đánh cá bằng cần câu là những người nóng nảy nhất trên đời, song hoàn toàn không có một ai nghi ngờ đến sự hết sức công bằng của những nhân vật cao cấp và có uy thế này, nên không có một sự phản kháng nào xảy ra. Chỉ phải trang bị bằng lòng kiên nhẫn để nhận biết kết quả của cuộc thẩm xét tận tâm: sự phân chia các giải thưởng khác nhau căn cứ theo số cân hay số lượng cần phải đươc giữ trong bí mật cho đến tận lúc phát giải mà trước đó là bữa tiệc hữu nghị giữa những người dự thi. Giờ ấy đã đến. Những người câu cá – đó là không nói đến những người Ditmaringen tò mò – ngồi yên lặng chờ đợi trước bục diễn đàn gồm vị chủ tịch và các hội viên khác của hội đoàn. Quả thật, nếu có đủ ghế tựa, ghế dài và ghế đẩu, thì sẽ có khá đủ những chiếc bàn, mà trên cac bàn đã bày ra những vại bia, những chai rượu đủ các loại, những ly, cốc đủ cỡ lớn và nhỏ. Khi mọi người đã yên vị, và các ống tẩu đã bắt đầu nhả khói, vị chủ tịch đứng lên. - Nghe nào! Nghe nào! Những tiếng hoan hô vang động. Ngài Micletxco uống cạn cốc bia, bọt bia vẫn còn lòng thòng trên ria mép ông ta. - Thưa các bạn đồng nghiệp – ông nói bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà các hội viên đều biết; không phân biệt các dân tộc – các bạn đừng mong mỏi ở tôi lời lập luận cấu trúc theo cách cổ điển với lời vào đề, phần nội dung chính, rồi đến đoạn kết bài. Không, chúng ta có mặt ở đây không phải để thưởng thức những ngôn từ nghi thức trang trọng mà tôi sẽ chỉ nói đến các công việc nhỏ bé của chúng ta theo tình bằng hữu, thậm chí sẽ nói, theo tình anh em, nếu như cách diễn đạt như thế lại thích hợp hơn đối với một hội đoàn quốc tế. Đáp lại hai câu nói quá dài này – như thường lệ mỗi khi bắt đầu diễn từ, thậm chí khi người phát ngôn không muốn làm người lắm lời – là tràng vỗ tay đồng lòng vang lên kèm theo với hàng loạt những tiếng la “Hay lắm!”, “Hô!” bị đứt quãng bởi những tiếng nấc cục. Tiếp đó ngài chủ tịch nâng cốc và toàn bộ những cái cốc cùng cạn sạch. Tiếp tục bài diễn văn, ngài Micletxco đã sắp xếp những người đánh cá bằng cần câu lên hàng đầu của nhân loại. Ông ta nhấn mạnh tất cả những phẩm chất, tất cả những đức tính mà những người câu cá đã được thiên nhiên hào phóng ban cho, ông ta chỉ rõ ràng phải cần đến biết bao nhiêu là sự nhẫn nại chịu đựng, sự nhanh trí, tính lạnh lùng, trình độ trí thức cao, để đạt được thành tích trong nghệ thuật bắt cá, bởi lẽ đây là cái lớn hơn nghề nghiệp, đây chính là nghệ thuật, và nó còn cao hơn nhiều so với các chiến công mà những thợ săn đã huênh hoang một cách vô ích. - Có thể so sánh nghề đi săn với sự đánh bắt cá được hay sao? – ông ta lớn tiếng. - Không! Không! – những cử tọa đồng loạt ứng tiếng. - Công trạng như thế nào khi phải giết một chú gà gô hay một cô thỏ, khi các ngài nhìn thấy chúng trong tầm bắn và khi con chó – mà chẳng lẽ chúng ta có con chó? – đi tìm thú săn cho các ngài? Các ngài nhận định con thú săn ấy từ xa, các ngài không bắn ngay nó vội, và các ngài sẽ vãi ra một số lượng đạn chì không đếm xuể, phần lớn những viên đạn chì ấy bay đi một cách vô ích… Trái lại, để đánh bắt con cá thì các ngài sẽ không thể theo dõi bằng cái nhìn… con cá ẩn náu dưới mặt nước… Phải nhờ đến rất nhiều kỹ xảo, mưu mẹo, trí tuệ và sự lém lỉnh để buộc con cá phải cắn câu, để giật nó, để lôi nó lên khỏi mặt nước, lúc thì nó treo lơ lửng bất động trên đầu sợi cước, lúc thì rung rung giãu giụa tựa như đang hoan nghênh các ngài vì chiến thắng. Lời này, lời đáp lại là những tiếng hô muốn vỡ phòng: “Hoan hô!”. Nhất định la ngài chủ tịch biết làm rung nảy lên tình cảm của các hội viên. Hiểu rằng không thể đi quá xa trong những lời tán dương các bạn đồng nghiệp của mình, ông ta đã đánh bạo mà không sợ bị buộc tội cường điệu – đặt ra cho họ phần công việc tao nhã cao hơn mọi người khác, tâng bốc lên tận trời xanh các nghề đánh cá khoa học của những người nhiệt thành và thậm chí ông ta còn quay lại để tưởng nhớ vị nữ thần tuyệt vời được đưa lên hàng đầu bởi những người hâm một trẻ tuổi của cổ La Mã tại các kỳ hội lớn của những người đánh cá. Những điều ám chỉ này có hiểu ra được hay không? Có lẽ thế, bởi vì họ đã gây nên làn sóng phấn khởi thật tình. Sau đó, vừa lấy lại hơi thở và sau khi uống cạn thêm một cốc vại bia sủi bọt nữa. Ông ta tiếp tục; - Tôi chỉ còn một điều là chúc mừng các bạn nhân sự phát đạt của hội đoàn mà hang năm đều được bổ sung thêm nhiều hội viên mới và tiếng tăm của hội đã được lặp nên một cách vững chãi trên toàn Trung Âu. Tôi sẽ không nói với các bạn về thành tích của chúng ta. Các bạn đã biết rõ chúng, cac bạn đã tham gia làm nên chúng, và đó là vinh dự lớn để nhập cuộc thi. Báo cí Đức, Tiệp, Rumani đều không tiếc lời ca ngợi, đánh giá hết sức cao, và tôi xin nói thêm là, hết sức xứng đáng! Tôi xin nâng cốc chúc mừng, và xin các bạn hãy ủng hộ với tôi, các nhà báo đã hết sức tận tụy với công việc quốc tế của “Hội vùng sông Danube”! Tất nhiên, mọi người đồng thanh đáp lại lời của ngài chủ tích. Những chai rượu được dốc cạn vào các cốc, còn những cái cốc thì được lật úp vào những cái cổ họng cũng hết sức nhẹ nhàng như thế, như nước sông vĩ đại và ngọn nguồn của nó tuôn ra biển cả. Có thể chấm dứt được vào chỗ này, nếu như bài diễn văn của ngài chủ tịch đã được kết thúc bằng lời chúc rượu sau cùng. Nhưng những lời chúc rượu khác được tuôn ra có lẽ là rất ư hợp thời. ... Mời các bạn đón đọc Người Hoa Tiêu trên Sông Danube của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Núi Thần
Nếu như Buddenbrooks là ngôi sao tỏa sáng trong sự nghiệp của Thomas Mann, hay Chết ở Venice là một cuốn tiểu thuyết ngắn nhưng vô cùng hoàn hảo của ông, thì Núi thần lại là kiệt tác thể hiện những tư tưởng lớn lao của nhà văn cũng như những đối lập trong nền văn hóa châu Âu. Lấy bối cảnh là một viện điều dưỡng trên vùng núi cao ở Thụy Sĩ trong những năm trước Thế chiến thứ nhất, Núi thần là bản tổng hòa của một tác phẩm kinh điển trường phái hiện đại, một bildungsroman (tiểu thuyết triết lý) truyền thống, màn kịch đầy đủ những tính cách, và bức tranh về giới tư sản châu Âu đầu thế kỷ 20. Người ta có thể thấy trong Núi thần tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn và những tư tưởng cấp tiến, tình yêu và trách nhiệm.  Núi thần còn là cuốn tiểu thuyết về bệnh tật, không chỉ là bệnh tật trong cơ thể mà còn là bệnh tật trong tâm hồn. Và nơi bệnh tật ngự trị cũng là triệu chứng của sự suy thoái của chủ nghĩa tư bản và giới tư sản Âu châu. Ở một cấp độ cao hơn, Núi thần cũng đặt ra câu hỏi về bản chất của thời gian, thời gian là phương tiện và được phản ánh qua trải nghiệm của nhân vật chính, chàng kỹ sư trẻ tuổi Hans Castorp. Núi thần là cuốn sách đầy sự thông thái với ngòi bút tả thực mỉa mai, đập nhịp cùng sự sống giữa cái chết u ám. *** Paul Thomas Mann (1875 - 1955) là nhà văn Đức đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý. Văn của Thomas Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kỹ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ; ông sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. Năm 1913, cuốn tiểu thuyết ngắn Der Tog in Venedig (Chết ở Venice) được xuất bản, cùng với Tonio Kroger được coi là những tác phẩm xuất sẳc nhất thuộc thể loại này. Thế chiến thứ nhất đã đẩy nhà văn vào một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng, ông viết tập ký 600 trang Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918) trong thời gian này. Sau chiến tranh ông trở lại với văn học nghệ thuật, hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của minh là Der Zauberberg (Núi thần, 1924). Năm 1929, ông được nhận giải Nobel, chủ yếu vì bộ tiểu thuyết vĩ đại Buddenbrooks - Verfall einer Familie.  Từ những năm 1930, Thomas Mann tích cực tham gia các hoạt động chính tri chống chủ nghĩa phát xít; dưới thời Đức quốc xã sách của ông bị cấm và bị đốt ở Đức, ông bị tước quốc tịch Đức (1936), phải sống lưu vong. Năm 1938 ông sang Mỹ và trở thành công dân Mỹ (1944). Sau chiến tranh ông về thăm cả Đông và Tây Đức, được đón tiếp long trọng nhưng ông không ở lại Đức mà sang định cư ở Zurich (Thụy Sỹ) cho đến khi mất. Ngoài giải Nobel, ông được cả Đông và Tây Đức trao tặng giải thưởng Goethe năm 1949; ông cũng được Đại học Oxford và Đại học Cambridge trao bằng danh dự. *** Khi tới nhà điều dưỡng để thăm anh họ của mình, kỹ sư Hans Castorp không biết trước rằng, thay vì ở đó một vài tuần như dự định, anh sẽ ở lại nhiều năm, suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết dày ngàn trang của Thomas Mann. Với những người bạn Âu châu mà tôi trở nên đủ thân thiết để hỏi: cuốn tiểu thuyết nào là cuốn bạn thích nhất, câu trả lời “Núi thần” xuất hiện với một tần suất lớn đáng ngạc nhiên. Tôi thử tự lý giải như thế này: Các nhân vật chính hay phụ trong sách: từ Hans Castorp người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời trong khu điều dưỡng cho những người lao phổi, Joachim Ziemßen người anh họ ốm yếu nhưng chỉ có một hoài bão là được ra trận, bà Chauchat người phụ nữ mà Hans Castorp yêu trong tâm tưởng và ghen tuông, bác sĩ trưởng Behrens, nhà hiền triết Settembrini cho đến ông Pepperkorn, chồng của bà Chauchat người chỉ xuất hiện vào nửa cuối của truyện, đều là những nhân vật vô cùng đặc sắc. Đây là một cuốn sách đậm đặc phong vị của châu Âu, đầy sự lịch lãm và hài hước, những gì mà người châu Âu coi là sự biểu đạt của văn hóa. Nhưng cái quan trọng nhất có lẽ lại là cái khác. Đó là thái độ của Hans đối với một cuộc sống tù túng và vô nghĩa, cuộc sống của người bệnh nằm dài ngoài ban công của tòa nhà điều dưỡng, mình cuộn trong tấm chăn mỏng dệt từ lông lạc đà, miệng ngậm hàn thử biểu, nằm để chờ đợi một cái gì khủng khiếp xảy ra, có thể là cái chết, có thể là chiến tranh. Cả chiến tranh và cái chết sẽ đều tới thật. Tiếp nhận cuộc sống như một tấn bi kịch tàn độc và vô nghĩa, với một nụ cười tủm tỉm là lựa chọn của Hans, có lẽ của Thomas Mann và của nhiều người trong số chúng ta. Ngô Bảo Châu *** CÁNH CỬA MỞ RỘNG   Tủ sách hợp tác giữa nhà toán học Ngô Bảo Châu, nhà văn Phan Việt với Nhà xuất bản Trẻ   Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG được thực hiện nhằm mục đích giới thiệu những đầu sách có giá trị của thế giới và trong nước đến bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ, góp phần thúc đẩy việc đọc sách, tinh thần hiếu học, coi trọng tri thức và những giá trị sống. Các tựa sách trong tủ do nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt tuyển chọn và giới thiệu. Tủ sách được phân thành ba mảng: văn học, khoa học xã hội – kinh tế, và khoa học tự nhiên; trước mắt cấu tạo tủ sách gồm 80% các sách có khả năng tiếp cận đông đảo bạn đọc và 20% cho các sách chuyên ngành. *** Câu chuyện của Hans Castorp mà chúng tôi dự định kể hầu quý vị - không phải kể về bản thân chàng ta (vì quý độc giả sẽ gặp ở đây một chàng trai trẻ rất đỗi bình thường, mặc dù cũng không kém phần đáng mến), mà kể về câu chuyện theo thiển ý của chúng tôi rất đáng lưu truyền (có lẽ cũng nên vì Hans Castorp xin lưu ý quý vị rằng đây là câu chuyện của chàng ta, và không phải bất kỳ ai cũng có được một câu chuyện để kể): một câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, có thể nói rằng những lớp rỉ sét lịch sử đã phủ đầy lên đó, và vì vậy phải được kể bằng thời quá khứ xa xưa nhất. Điều này chẳng phải là một điểm bất lợi cho câu chuyện, đúng ra phải coi đó là lợi điểm; vì đã là chuyện kể thì phải xưa cũ chứ, và có thể nói không ngoa rằng chuyện càng lùi xa vào dĩ vãng lại càng hấp dẫn, càng có lợi cho bản thân câu chuyện lẫn cho người kể chuyện, kẻ rì rầm đọc thần chú gợi lên một thời quá khứ chưa khép lại. Tuy nhiên đối với câu chuyện này, cũng như giờ đây đối với mọi người và dĩ nhiên trong số họ bao gồm cả những người kể chuyện, phải hiểu rằng: nó già cỗi hơn rất nhiều so với tuổi của mình, sự già nua tuổi tác không thể tính bằng ngày bằng tháng, không thể tính bằng những vòng quay của trái đất quanh mặt trời; nói một cách ngắn gọn: mức độ xa xưa của nó đúng ra không được đo bởi thời gian - một nhận định kín đáo ám chỉ và lưu ý ta về tính khả nghi và bản chất tráo trở của cái yếu tố bí hiểm tên gọi thời gian. Để cho sự việc không bị bao phủ dưới bức màn thiếu tự nhiên, xin được giải thích: tính cổ xưa của câu chuyện này bắt nguồn ở chỗ, chuyện xảy ra trước một ranh giới đồng thời là bước ngoặt lịch sử, một vực thẳm xẻ ra trống hoác trong cuộc sống và trong tiềm thức… Chuyện xảy ra, hay, để tránh dùng thời hiện tại một cách có dụng ý, chuyện đã xảy ra và đã từng xảy ra khi ấy, trước kia, vào những ngày xa xưa, trong một thế giới đứng trước cuộc chiến tranh lớn mở đầu cho biết bao nhiêu sự kiện, và sự mở đầu này cho đến nay vẫn còn chưa kết thúc. Vậy là câu chuyện này đã xảy ra trước đó, mặc dù trước đó chẳng bao lâu. Nhưng phải chăng tính xưa cũ của một câu chuyện càng sâu đậm, trọn vẹn và thần thoại khi diễn biến của nó càng xích lại gần thời điểm “trước đó”, trước cái mốc lịch sử kia? Như vậy thì rất có thể câu chuyện của chúng ta, với nội dung của nó, cũng có chút hơi hướng liên quan với thần thoại. ... Mời các bạn đón đọc Núi Thần của tác giả Thomas Mann.
Gã Cướp Biển Quý Tộc - Johanna Lindsey
Gã Cướp Biển Quý Tộc kể lại chuyện tình độc đáo giữa hai con người có quá khứ không hề hoàn hảo nhưng vô cùng thú vị. Georgina Anderson - cô gái người Mỹ 22 tuổi lăn lội vượt Đại Tây Dương đi tìm vị hôn phu đã xa cách 6 năm để rồi chính thức bị bỏ rơi sau chừng ấy năm nàng chung thuỷ với hắn. Tuy nhiên, sự bất hạnh của Georgina không dừng lại tại đó. Sự liều lĩnh khi vượt biển đến nước Anh đã đặt cô vào tình thế oái ăm, cô - Georgina Anderson - chủ chiếc tàu Amphitrite, cổ đông của công ty đường biển Skylark Line, cô có tài sản của riêng mình, nhưng giờ lại không đủ tiền để trở về mà phải làm việc dưới dáng vẻ một cậu bé trên tàu của James Malory để có thể trở về nhà. James Malory – chàng quý tộc 36 tuổi với một đứa con ngoài giá thú 17 tuổi mới được phát hiện cách đây 6 năm. To cao, tóc vàng và đẹp trai là những gì người ta thường nói về chàng. "Chàng là một người muốn ra khơi theo ý thích, đi đến bất cứ nơi nào mà tâm trạng chàng muốn đến". James vừa bước qua tuổi ba mươi sáu, nhưng sẽ không có một người phụ nữ nào có thể ràng buộc chàng vào hôn nhân được. Yêu họ rồi rời xa họ là cách duy nhất để tồn tại được với họ, một đức tin đã sống cùng chàng ngần ấy năm trước đây, và sau này cũng vậy. Thế nhưng, đức tin ấy sắp bị phá hủy hoàn toàn bởi một người cô gái 22 tuổi xinh đẹp tràn đầy thú vị. *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** “James, chúng ta nên xuống nhà thôi. Những cỗ xe ngựa đã đến từ một tiếng trước rồi.” “Đó là gia đình ta đến tham dự sự kiện trọng đại này. Nếu may mắn, mấy ông anh của em sẽ không tìm thấy ngôi nhà.” Nàng xoắn một lọn tóc vàng của anh quanh ngón tay và nhẹ nhàng giật nó. “Anh sẽ không cố chấp nữa đấy chứ?” “Ta chưa bao giờ cố chấp, em yêu. Chẳng qua là em vẫn chưa thuyết phục được ta tha thứ cho các anh trai của em.” Đôi mắt nàng mở to, rồi lại mở to hơn nữa khi anh lăn người trên giường, đè nàng xuống bên dưới anh một lần nữa. Cơn thịnh nộ của Georgina muốn bùng lên, nhưng khi James đặt người vào giữa hai đùi nàng, nàng chẳng còn thấy giận dữ nữa. Tuy nhiên, nàng vẫn nhắc anh, “Anh đã mời họ đến đây mà”. “Đúng là ta đã mời họ, nhưng đây là nhà của Tony. Chú ấy có thể đá đít họ ra khỏi cửa.” “James!” “Vì vậy hãy thuyết phục ta đi.” Người đàn ông đáng ghét này đang nhoẻn miệng cười với nàng và Georgina không thể không cười đáp lại. “Anh thật quá quắt. Đáng lẽ em không bao giờ được nói là anh sẽ thích điều này.” “Nhưng em đã nói rồi… và ta rất thích.” ... Mời các bạn đón đọc Gã Cướp Biển Quý Tộc của tác giả Johanna Lindsey.
Điệu Waltz Dưới Ánh Trăng - Catherine Anderson
Cuốn sách kể về mối tình cảm động giữa một ông chủ trang trại điển trai, giàu có, Ryan Kendrick với cô gái khuyết tật sở hữu óc hài hước và nụ cười tuyệt đẹp, Bethany Coulter. Điệu Waltz dưới ánh trăng, cuốn tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất của nhà văn Catherine Anderson đã được  xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 2013. Catherine Anderson sinh năm 1948 tại Oregon, Mỹ, là nữ nhà văn chuyên về tiểu thuyết cổ điển lãng mạn và tình cảm hiện đại. Ngoài những tiểu thuyết lãng mạn truyền thống với các nhân vật chính đều hoàn hảo về mặt hình thể thì bà còn có những tác phẩm lấy nhân vật chính là những người khuyết tật, tiêu biểu như tác phẩm Phantom Waltz (Điệu Waltz dưới ánh trăng); Annie’s song (Giai điệu của Annie); Blue Skies… Catherine Anderson đã nhận được giải “Thành tựu trọn đời” do Romantic Times trao tặng cho những cống hiến của bà trong dòng tiểu thuyết lãng mạn. *** Trong cuốn kinh thánh nhà Kendrick giờ có thêm ghi chép mới rằng Ryan Kendrick, con trai của Ann và Keefe Kendrick, cưới Bethany Ann Coulter vào ngày 31 tháng 8, năm 2000. Vẫn còn thiếu một thông tin rằng đám cưới diễn ra bên hồ Bear Creek vào ngày hè tươi đẹp đó và thực tế là có thêm một đám cưới khác cũng được tổ chức đồng thời. Đó là hôn lễ giữa Sylvester Bob Glass và Helen Marie Boyle. Một thông tin khác nữa cũng không được ghi vào đó là cô dâu trẻ hơn vừa phát hiện ra mình đã có mang và vô cùng hạnh phúc. Có mặt trong buổi thành hôn toàn những vị khách ăn vận theo lối cao bồi bụi bặm. Tất thảy đều đi ngựa ba tiếng đồng hồ từ Rocking K đến hồ. Nhà Coulter có mặt đông đủ, bố mẹ Bethany và năm ông anh trai cứ quắc mắc nhìn Ryan cho đến khi anh nói, “Con đồng ý”. Không gấu hay báo gì xuất hiện cả. Tuy nhiên đang giữa buổi lễ thì một con bò có tên Cốt Lết ở đâu lù lù xuất hiện chứng kiến hôn lễ. Dè chừng quá nhiều người lạ, nó dừng lại ở khoảng cách nhất định và chỉ rống lên một lần để báo cho ông chủ của mình biết là nó đã tìm thấy ông. Trên lưng con bò là con mèo ú chễm chệ liếm láp. Sau buổi lễ Mary Coulter nhìn chồng tủm tỉm cười, đưa cho ông chiếc quần cộc được gấp lại gọn gàng. Harv bật cười, nhìn nó săm soi, rồi hỏi. “Mình có mang theo muối tiêu không đấy? Tôi muốn thêm chút gia vị cho ngon miệng.” Mary mỉm cười quàng tay ôm eo chồng. Zeke, nhạc công nhà Coulter, kéo một điệu nhạc chậm rãi du dương bằng chiếc violin của anh. Bố mẹ Bethany ngắm nhìn khi người chồng mới của cô con gái bồng cô lên từ chiếc xe lăn cùng nhau lướt một điệu Waltz trên mặt đất lốm đốm những tia nắng mặt trời - một điệu Waltz đẹp đến nao lòng vì chân cô dâu không hề chạm đất. “Anh đã nghĩ sai về nó”, Harv thú nhận. “Anh có thể nhìn thấy ánh sáng yêu thương lấp lánh trong đôi mắt nó mỗi khi nhìn con gái mình.” “Con gái mình cũng vậy thôi”, Mary thì thầm. “Em cũng sai. Mình có thấy nét mặt con bé khi cưỡi ngựa không? Con bé sinh ra là để cưỡi ngựa. Vì em mà nó phải từ bỏ niềm vui đó một thời gian quá lâu. Em thấy có lỗi quá.” Harve hích khuỷu tay vào vợ, “Tại vì mình quá yêu nó, sợ nó lại bị thương nếu để nó cưỡi ngựa. Con bé hiểu điều đó”. “Tình yêu thật diệu kỳ.” Mary nói khẽ. “Em thật mừng vì Ryan bước vào cuộc đời nó và thấy được điều vợ chồng mình không thấy. Tốt hơn hết là cứ để con bé dấn thân và tận hưởng cuộc sống hơn là được bảo bọc mà không thấy vui.” ... Mời các bạn đón đọc Điệu Waltz Dưới Ánh Trăng của tác giả Catherine Anderson.
Darling, Chúng Ta Ly Hôn Nhé Tập 1 - Chu Y Điểm Thủ
Thông qua vấn đề ngoại tình trong hôn nhân, tác giả muốn gửi tới bạn đọc thông điệp: những ai đã từng phạm phải sai lầm đều sẽ phải trả giá cho hành vi sai lầm đó. Hi vọng các thế hệ thanh niên hiện đại có cái nhìn đúng đắn về tình yêu, hôn nhân! Nếu hôn nhân đã rời khỏi quỹ đạo của nó, khi bạn ngoảnh đầu lại sẽ phát hiện ra tình yêu không còn ở vị trí cũ chờ bạn nữa rồi. - Lưu Hồng Huy, đạo diễn phim “Liệu ngày mai có đến” Tôi luôn nghĩ rằng trong xã hội hiện nay không có quá nhiều người hoàn mỹ, cho dù là về tâm hồn hay thể xác. Tuy nhiên cho dù là người thế nào cũng đều có thể tìm cho mình một thế giới hoàn mỹ ngay cả khi bản thân không hoàn mỹ. - Hồng Linh, chuyên gia tình cảm, hôn nhân nổi tiếng của Trung Quốc. Người nghèo khổ có cách hạnh phúc của người nghèo khổ, người giàu có cách hạnh phúc của người giàu. Cho dù là kiểu hạnh phúc nào thì trước tiên phải tìm được nguồn gốc của hạnh phúc. Nếu không tìm được nguồn gốc của hạnh phúc, chúng ta sẽ không bao giờ thoát ra khỏi sự đeo bám của thứ tình cảm nội tâm đầy rắc rối. Có thể cuốn tiểu thuyết này sẽ hướng dẫn mọi người làm thế nào để nhận định rõ bản chất của hạnh phúc, để từ đó có thể sống một cách đúng đắn hơn. - Tô Hà, nhà chế tác điện ảnh. *** Trương Hoa vui vẻ dẫn vợ đi họp lớp. Đây là lần đầu tiên Trần Dĩnh đồng ý tham dự các buổi tụ tập kiểu như thế này kể từ sau khi kết hôn. Trần Dĩnh là mẫu phụ nữ không thích tham gia các hoạt động xã giao, cứ hết giờ làm là về nhà. Hôm nay khó khăn lắm mới chịu cùng đi với Trương Hoa, vì vậy Trương Hoa rất vui. Nhưng niềm vui này chẳng duy trì được lâu, bởi vì người bạn cũ của anh là Lí Dương Uy đã nói nhỏ với anh: - “Là một bạn học cũ, có một số chuyện tôi buộc phải nói với cậu, hôm nay tôi mới biết cô gái này là vợ cậu, nhưng đây không phải lần đầu tiên tôi gặp cô ta, trước đây tôi đã gặp cô ta nhiều lần rồi, chỉ có điều cô ta không biết tôi mà thôi”. Trương Hoa hỏi Lí Dương Uy gặp Trần Dĩnh ở đâu? Lí Dương Uy liền nói: - “Ở ngay khách sạn của chúng tôi, mỗi tháng cô ta thường xuất hiện vài lần với tổng giám đốc công ty cô ta, phòng thuê cố định là phòng 1608.” Trương Hoa đờ người ra khi nghe những lời ấy. Lí Dương Uy tiếp tục nói: “Mấy nhân viên phục vụ của khách sạn chúng tôi đều biết, cô ta với tổng giám đốc cứ sau giờ làm là đến thuê phòng mấy tiếng đồng hồ rồi mới đi. Bởi vì đã gần một năm nay rồi nên tôi gặp cô ta nhiều lần. Nhưng cô ta lần nào cũng vội vàng đến rồi đi, chẳng để ý gì đến tôi”. Trương Hoa định thần lại, gắt lên: “Đừng nói vớ vẩn, Trần Dĩnh từ xưa đến nay rất yên phận!”. Lí Dương Uy cười khẩy: “Bạn bè cũ tôi mới nói thẳng, lần sau tổng giám đốc cô ta gọi điện đến đặt phòng, tôi sẽ gọi cho cậu!” ... Mời các bạn đón đọc Darling, Chúng Ta Ly Hôn Nhé Tập 1 của tác giả Chu Y Điểm Thủ.