Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cửa Hàng Thịnh Vượng

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Cửa Hàng Thịnh Vượng của tác giả Takashi Uno & Kam Tròn (dịch). Đời người chỉ có một lần. Vậy nên, chắc hẳn trong thâm tâm chúng ta, ai cũng từng nghĩ đến việc trở thành một ông chủ tự lực tự cường. Ước mơ này không hề viển vông. Đúng là không phải ai cũng đủ năng lực để sở hữu một công ty lớn, nhưng nếu là chủ của một cửa hàng nhỏ thì bạn hoàn toàn có khả năng. Hơn cả thế bạn còn có thể kinh doanh cả đời trong vui vẻ nữa. Để có thể kinh doanh, buôn bán lâu dài trong vui vẻ, chúng ta phải tìm cách giúp cho cửa hàng của mình thật phát đạt. Điều này thực chất không hề quá khó khăn. Vì chính bản thân tôi đây cũng chỉ làm những việc đơn giản mà bất kì ai cũng có thể làm, và tôi đã kinh doanh được gần 50 năm rồi. Trong kinh doanh, có những điều tuy nhỏ bé nhưng lại có thể trở thành cơ hội để thu hút khách đến cửa hàng. Cửa hàng đầu tiên của tôi là một quán cà phê. Thời đấy, đá viên khá là đắt đỏ, vậy nên khi phục vụ nước lọc cho khách, tôi sẽ hỏi: - Quý khách có dùng đá không ạ? Nếu khách hàng trả lời “Có”, tôi mới thêm đá vào. Vì đã cất công dùng đá như vậy, tôi muốn khách hàng ý thức được rằng: “Cửa hàng này phục vụ nước lọc có bỏ đá cho khách hàng.” Chỉ một việc nhỏ như thế thôi nhưng khi được tôi nói ra thành lời, khách hàng sẽ cảm thấy: “Nước lọc ở đây lúc nào cũng có đá, thích thật đấy!” Nhờ vậy, có thể khách hàng sẽ quay lại quán của tôi không chừng. Khi bắt đầu kinh doanh một quán nhậu có diện tích vỏn vẹn 16,5 m2, vì chỉ có một mình đứng quán nên tôi đã suy nghĩ xem làm thế nào để có thể kinh doanh một cách đơn giản nhất mà vẫn có hiệu quả cao. Tôi quyết định sẽ chuẩn bị sẵn vài món ăn trước giờ mở cửa. “Cánh tay phải” của tôi trong việc nấu nướng chính là chiếc lò vi sóng. Khi khách gọi món, tôi chỉ cần hâm nóng thức ăn trong đĩa rồi mang ra là được. Thời đấy, việc công khai sử dụng lò vi sóng trong bếp là chuyện đáng xấu hổ, nhưng vì quán của tôi bé nên tôi chỉ có thể đặt nó ở nơi ai cũng có thể nhìn thấy. Nếu đã vậy, để biến tình huống này bớt phần ngại ngùng, tôi đặt tên cho lò vi sóng là “anh đầu bếp”. Khi khách gọi món, tôi sẽ hỏi: - Quý khách muốn “anh đầu bếp” làm không ạ? Hay để anh bếp trưởng làm? Nghe thế, khách hàng liền ngạc nhiên hỏi tôi: - Ô? Thế bếp trưởng đi. Tôi lập tức đáp lại: - Bếp trưởng (tức là tôi) đang bận nên để “anh đầu bếp” làm có được không ạ? Cứ như vậy, tôi đã thành công gây ấn tượng với khách hàng. Nếu khách hàng nghĩ: “Cửa hàng này thú vị nhỉ!” thì rất có thể họ sẽ quay lại quán lần nữa. Tôi mở chi nhánh đầu tiên của quán nhậu ở Shibuya, Tokyo. Địa điểm tôi chọn là một nơi chẳng có mấy ai hứng thú qua lại, đến mức chủ nhà đã phải hỏi tôi rằng: - Ông thực sự muốn thuê chỗ này sao? Không lâu sau đó, toà nhà nơi quán nhậu của tôi kinh doanh xảy ra một vụ nổ súng. Tôi nhanh trí nảy ra một ý tưởng: - Món ăn được phục vụ ngày hôm nay sẽ là món rau củ xào thập cẩm1! 1 Tác giả chơi chữ giữa hai từ “rau củ xào thập cẩm” (happousai) và “nổ súng” (happou). Và tôi đã bán hết sạch món đó. Rau củ xào thập cẩm thì chỉ cần dùng những loại rau có sẵn ở cửa hàng là có thể chế biến ngay được. Hơn thế nữa, tôi còn tranh thủ trò chuyện với khách: - Hôm nay vất vả thật đấy! Nhờ thế mà khoảng cách đôi bên được rút ngắn lại. Để duy trì mức chi phí thấp, tôi thường mua nguyên liệu là thịt gà. Khi khách gọi món cánh gà tẩm bột chiên giòn, tôi sẽ hỏi lại: - Quý khách muốn ăn cánh trái hay cánh phải ạ? Câu pha trò đó đã khiến khách hàng bật cười vui vẻ. Không chỉ chú trọng cung cách phục vụ khách hàng, tôi còn chú ý xây dựng thực đơn sao cho phù hợp với phong cách của quán nhất. Ví dụ, khách hàng rất yêu thích hai món mì udon kimchi và trứng cá của quán tôi. Mặc dù những món này đơn giản đến mức ngay cả người không mấy khi nấu nướng cũng có thể làm được, nhưng khi ngà ngà say thì chúng thực sự rất ngon! Tuy thực đơn toàn là những món không đòi hỏi kĩ thuật hay nỗ lực gì, nhưng nhờ cách vận hành như vậy, khách hàng vẫn thường xuyên quay lại quán của tôi. Chỉ cần phục vụ những món ăn mà khách hàng có thể vui vẻ thưởng thức trong khoảng thời gian ở quán, chúng ta sẽ có thể tạo dựng được những mối quan hệ sâu sắc và biến họ trở thành người hâm mộ của quán. Rồi sau đó những người hâm mộ đấy sẽ là những người ủng hộ, giúp đỡ cho quán của chúng ta. *** Là một người biết điểm dừng, tôi luôn nghĩ đến việc làm thế nào để đạt được mục tiêu mà vẫn nằm trong giới hạn mình đặt ra. Tính cách của tôi thực sự không phù hợp với hai từ “nỗ lực” quá sức. “Nỗ lực” quá sức chính là việc cố gắng vượt lên trên năng lực của bản thân. Nhưng nếu cứ cố nhón chân rồi vươn tay đến một nơi rất, rất cao, chẳng phải chúng ta sẽ chóng cảm thấy mệt mỏi và không thể đứng lâu hay sao? Ngược lại, đứng vững chãi trên mặt đất và vươn tay tới những thứ trong độ cao có thể với tới thì sẽ chẳng quá mất sức mà vẫn có thể lấy được đồ. Mặc dù vậy, nếu cứ liên tục giơ tay lên thì sẽ rất mỏi. Tôi cho rằng chính vì không bao giờ cố quá sức nên tôi không biết mệt mỏi là gì và có thể duy trì quán nhậu suốt mấy chục năm như vậy. Mặc dù đã kinh doanh quán nhậu được một thời gian nhưng nếu không có chứng chỉ đầu bếp, tôi sẽ khó có thể tiếp tục duy trì quán. Vì chẳng có tài cán gì nên tôi đã phải vắt óc suy nghĩ làm sao để chỉ với những việc đơn giản mà ngay cả tôi cũng làm được, lại có thể biến khách hàng thành người hâm mộ của mình và giúp cho cửa hàng phát đạt. Nghĩ thử thì cụm từ “không cố gắng quá sức” có khi là một trong những khẩu hiệu chính của cuộc đời tôi. Trước đây, tôi cũng từng thử nỗ lực. Trong những năm dậy thì, để tăng chiều cao, tôi thậm chí đã sử dụng những dụng cụ tập thể dục kì quặc, rồi còn uống canxi hàng ngày nữa. Nhưng rốt cục chẳng mang lại kết quả gì nên tôi đã từ bỏ thứ gọi là nỗ lực viển vông ấy. Liệu tôi có thể làm được công việc nào không tạo thêm gánh nặng cho bản thân, mà còn vô cùng thú vị, vui vẻ không? Đó chính là điều cơ bản của cơ bản trong kinh doanh. Tôi nghĩ nếu có cơ hội làm việc một cách hạnh phúc như vậy, tôi mới có thể vận hành cửa hàng lâu dài và thoải mái tận hưởng đời người. Kí tên: Giám đốc tập đoàn Raku Coporation Uno Takashi *** Tóm tắt Cuốn sách Cửa Hàng Thịnh Vượng - 3 Món Nhỏ, Lời Lãi To của tác giả Takashi Uno đề cập đến những kinh nghiệm kinh doanh của ông trong suốt gần 50 năm. Ông là chủ tịch của tập đoàn Raku Corporation, một tập đoàn chuyên kinh doanh ẩm thực tại Nhật Bản. Theo ông Uno, để kinh doanh thành công, không nhất thiết phải có tài năng hay nỗ lực quá sức. Điều quan trọng là phải biết điểm dừng, suy nghĩ thấu đáo, và tận dụng những gì mình có. Trong cuốn sách, ông Uno chia sẻ những bí quyết kinh doanh của mình, bao gồm: Chú trọng đến cung cách phục vụ khách hàng. Ông Uno luôn quan niệm rằng khách hàng là thượng đế, và việc phục vụ khách hàng chu đáo là điều quan trọng nhất. Ông thường xuyên giao lưu, trò chuyện với khách hàng, và luôn cố gắng tạo ra những trải nghiệm đáng nhớ cho họ. Xây dựng thực đơn phù hợp với phong cách của quán. Ông Uno cho rằng thực đơn không cần phải quá cầu kỳ, chỉ cần phù hợp với sở thích của khách hàng và phong cách của quán là được. Không cố gắng quá sức. Ông Uno luôn ý thức được giới hạn của bản thân, và luôn cố gắng làm việc trong khả năng của mình. Ông cho rằng nỗ lực quá sức sẽ chỉ khiến chúng ta mệt mỏi và thất bại. Đánh giá Cuốn sách Cửa Hàng Thịnh Vượng - 3 Món Nhỏ, Lời Lãi To là một cuốn sách kinh doanh thực tế, dễ đọc, dễ hiểu. Những kinh nghiệm của ông Uno được chia sẻ một cách chân thành và gần gũi, giúp người đọc có thể dễ dàng áp dụng vào thực tế. Cuốn sách phù hợp với những ai đang có ý định kinh doanh, đặc biệt là những người kinh doanh nhỏ lẻ. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách được viết bởi một người có kinh nghiệm kinh doanh lâu năm và thành công. Những kinh nghiệm được chia sẻ trong cuốn sách đều rất thực tế và dễ áp dụng. Cuốn sách được viết một cách chân thành và gần gũi, giúp người đọc dễ dàng tiếp thu. Kết luận Cuốn sách Cửa Hàng Thịnh Vượng - 3 Món Nhỏ, Lời Lãi To là một cuốn sách kinh doanh đáng đọc cho những ai đang có ý định kinh doanh. Mời các bạn mượn đọc sách Cửa Hàng Thịnh Vượng của tác giả Takashi Uno & Kam Tròn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tổ Chức Gia Đình - Nguyễn Hiến Lê
Các cụ mất hồi đầu thế kỷ, bây giờ có sống lại mà đứng ở đường Lê Lợi tại Sài Gòn trong các giờ tan sở, chắc phải hoảng lên và la: - Có giặc cướp hay đám cháy nào thế này? Sao mà thiên hạ chạy tíu tít, vẻ mặt đăm đăm như vậy? Chỉ đứng độ năm phút, nhìn lớp sóng người qua lại, nghe tiếng chuông, tiếng còi, các cụ cũng đủ choáng váng và hồi hộp. Nếu các cụ lại sống chung với chúng ta một buổi sáng thôi, thấy chúng ta mới sáu giờ đã dậy tập thể dục, rửa mặt, tắm gội, hấp tấp bận quần áo, húp vội một ly sữa rồi bổ nhào ra ngoài phố, tới đầu đường, liệng một đồng bạc, giựt một số báo, leo lên ô-tô-buýt, tới 12 giờ rưỡi mới về, mặt bơ phờ, nuốt mấy miếng cơm rồi lăn ra ngủ, nếu các cụ thấy như vậy, thì các cụ tất mau mau từ biệt chúng ta để vào rừng ở, dầu chúng ta có đem hết thảy những tiện nghi, xảo diệu của khoa học để dụ dỗ, giữ các cụ ở lại, cũng luống công vô ích. Từ sau đại chiến thứ hai, đời sống chúng ta ồ ạt quá, gần như đời sống tại các kinh đô ở Âu Mỹ. Tám giờ sáng một ngày làm việc mà bạn thấy ai vơ vẩn ở bờ sông Sài Gòn, ngắm mây ngắm nước, tất bạn sẽ ngờ người đó muốn tìm chỗ trầm mình; gặp ai ung dung tản bộ, ngâm thơ trong một công viên, chắc bạn sẽ bĩu môi chê là “thi sĩ mơ mộng” nếu không nghĩ người đó mắc bệnh thần kinh, phải đưa vào nhà thương Biên Hoà. Chúng ta không còn quan niệm được thú nhàn của cổ nhân nữa. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 giờ mà công việc thì tăng lên biết bao nhiêu! Công việc tăng vì nhu cầu tăng. Ta không thể sống như Nhan Hồi với một giỏ cơm, một bầu nước; ta cũng không thể sống như một cụ đồ nho với vài manh áo kép và đơn. Nội khoản chi phí về sách báo của chúng ta đủ nuôi một gia đình hồi trước. Khi ta có thêm một nhu cầu, ta chẳng những mất thì giờ để thoả mãn nó, mà còn mất thì giờ kiếm tiền để có phương tiện thoả mãn nó nữa. Như nhu cầu hớt tóc chẳng hạn. Mỗi tuần hoặc nửa tháng ta phải bỏ ra nửa giờ để hớt tóc, lại phải làm việc thêm một chút để kiếm được 5-10 đồng trả công người thợ. Có khi một nhu cầu tạo ra ba bốn nhu cầu khác. Nhu cầu sẽ còn mỗi ngày một tăng thêm, không biết thế nào là cùng. Bạn thử tưởng tượng, như vậy đời chúng ta sẽ còn bận rộn biết bao nhiêu! Hiện nay, trong phần đông các gia đình, một người không còn kiếm tiền đủ để nuôi 5-6 người, có khi cả chục người như hồi xưa. Tại các châu thành lớn, nhiều gia đình chưa có con mà cả chồng lẫn vợ đã phải làm việc cực nhọc mới đủ ăn. Công việc nhà phải bỏ bê. Người nào có phước thì được mẹ già trông nom giùm. Mà kiếm được người ở bây giờ, không phải là việc dễ. Ông Tham ông Phán thời này đừng hy vọng gì nuôi một anh xe, một anh bếp, một vú già và một chị sen hoặc một anh bồi cho mỗi cô mỗi cậu nữa. Không ai ham cảnh “cơm thầy cơm cô” và trong xã hội, không thiếu gì công việc cho anh em lao động. Người ở đã khó kiếm lại khó giữ. Họ đã biết nhân phẩm, quyền lợi của họ: họ hiểu rằng về mặt pháp luật, họ bình đẳng với chủ nhân nên không chịu để chủ bóc lột, bắt làm việc quần quật từ sáng đến tối, tháng này qua tháng khác. Họ muốn nghỉ ngơi mỗi ngày vài giờ, mỗi tuần nửa ngày, mỗi năm dăm bảy ngày. Họ có lý và chỉ những kẻ lạc hậu mới không chịu cho họ những điều họ đòi hỏi ấy. Tóm lại, tình cảnh của phần đông các gia đình ở châu thành bây giờ như vầy: -     Công việc trong nhà rất nhiều. -     Thời giờ của người chủ thì ít. -     Mà người ở khó kiếm, không chịu làm nhiều giờ như hồi xưa. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, người ở sẽ hiếm như ở Âu, Mỹ và những gia đình trung lưu chỉ còn cách mướn người chuyên môn mỗi ngày lại nhà làm một vài công việc nào đó trong một thời gian nhất định thôi 1. Trở lại thời trước đã không được mà than tiếc nó chỉ vô ích, nên ta phải kiếm cách thích nghi với thời đại. Thời đã mới, cách sống đã mới thì cách làm việc cũng phải mới. Ta phải biết tổ chức công việc trong nhà cũng như tổ chức công việc trong sở, trong hãng. Tình thế bắt buộc ta như vậy mà sự thế tất nhiên phải tới như vậy. Ở Mỹ, sau khi khoa học tổ chức đã được áp dụng trong kỹ nghệ, tức là có những người đem thực hành nó trong gia đình, mà người đầu tiên là ông F. Gilbreth. Sau ông, có bà Christiane Frederick, tác giả cuốn “Le Taylorisme chez soi”. Ở Pháp, ông H.L.Rumpf viết cuốn “L’organisation familiale” (Editions Drouin) cách đây 20 năm. Ngoài ra lại có những tạp chí như “Mamans, avec moins de fatigue” ... Tại nước nhà từ trước đã xuất bản nhiều cuốn về gia chánh, chỉ cách nấu ăn may vá... nhưng chưa có cuốn nào dạy cách tổ chức gia đình. Gần đây, trên tuần báo “Mới” trong mục “Kim chỉ nam của bà nội trợ”, bà Hoàng Thị Hạnh viết một loại bài về cách xếp đặt việc nhà, nhưng lời khuyên rời rạc, không thành một hệ thống và đọc xong, các bà nội trợ không học được tinh thần tổ chức. Mà chính tinh thần ấy mới là quan trọng hơn cả. Có nó, ta mới biết tổ chức trong mọi trường hợp và biến hoá cách làm việc cho hợp với hoàn cảnh. Thiếu nó, ta sẽ luýnh quýnh mỗi khi gặp một trường hợp không chỉ sẵn trong sách. Vì lẽ ấy, chúng tôi viết cuốn này để giảng rõ tinh thần đó, vạch những quy tắc quan trọng rồi dẫn nhiều ví dụ giúp độc giả biết cách thực hành. Tất nhiên là chúng tôi không dám múa rìu qua mắt thợ mà bàn cách luộc rau, kho cá, cắt áo thêu khăn... Chúng tôi không biết gì về những công việc đó. Chúng tôi chỉ chú trọng đến những phương pháp tiết kiệm thì giờ, tiền bạc và sức lực, mục đích là giúp cho bà nội trợ tổ chức gia đình sao cho mọi việc xong xuôi mà có thì giờ để nghỉ ngơi, tiêu khiển, chơi với trẻ hoặc học hỏi thêm, và may ra bớt được nhiều lo lắng về vấn đề tài chính chăng. Chúng tôi sẽ phải dùng ít nhiều danh từ còn lạ tai đối với phần đông độc giả mà chúng tôi sẽ ráng giảng giải một cách thông thường để những bà nội trợ nào ít học nhưng chịu suy nghĩ cũng có thế hiểu được. Sách chủ ý viết cho các bà nội trợ, nhưng chúng tôi tưởng các bạn trai đã lập gia đình cũng nên đọc nó. Phụ nữ có nhiều đức quý như lòng vị tha, đa cảm, đức kiên nhẫn, tự tin... nhưng thường theo trực giác mà không chịu luận lý, lại cố chấp, thiếu phương pháp. Vì vậy, nếu các ông chồng hiểu rõ những quy tắc trong cuốn này rồi giúp các bà vợ cùng nhau tổ chức việc nhà thì kết quả sẽ mau hơn và không khí trong gia đình cũng sẽ đầm ấm hơn. Chúng tôi vẫn biết đàn ông mà bàn về công việc nội trợ thì không khỏi mang cái tiếng việt vị. Nhưng chúng tôi nghĩ đã không dám lấn vào phạm vi gia chánh, tức may vá, nấu nướng, mà chỉ xét những quy tắc để tổ chức việc nhà, thì các bà các cô cũng không nỡ trách; nên chúng tôi không do dự chi nữa mà cho xuất bản cuốn này với mục đích duy nhất là giúp phụ nữ Việt Nam tập sống đời sống mới tức đời sống có tổ chức, tổ chức bản thân và tổ chức gia đình rồi sau cùng tổ chức xã hội. Long Xuyên ngày 15-2-1953 Mời các bạn đón đọc Tổ Chức Gia Đình của tác giả Nguyễn Hiến Lê.
Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.