Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

40 Ngày Sống Với Đối Phương (Richard Dudman)

Nhà báo Richard Dudman, tác giả tập hồi ký "40 Ngày Sống Với Đối Phương - Câu Chuyện Của Một Nhà Báo Mỹ Bị Du Kích Bắt Giữ Ở Camphuchia" này, cùng hai nhà báo khác lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh để săn tin về cuộc xâm nhập của Mỹ và lính Sài Gòn vào Campuchia, nhưng đã bị bắt vào sáng sớm ngày 7-5-1970 và được đưa vào vùng giải phóng ở Campuchia. Sau đó, trong 40 ngày, họ đã có dịp nếm trải một kinh nghiệm sống hiếm có, lạ thường, đầy cảm xúc, đầy tình tiết ly kỳ, gian nan và thú vị, cùng với các chiến sĩ du kích. (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng)​

Khoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre).​

Tất cả những điều đó đã được tường thuật lại một cách sinh động và tinh tế và được các nhà báo của Saigon Times dịch lại trong cuốn sách này.

***

SAU KHI BỊ "VIỆT CỘNG" BẮT Tìm mua: 40 Ngày Sống Với Đối Phương TiKi Lazada Shopee

(Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng)

Khoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre).

Anh Bảy, anh là ai?

Không thể nào quên lần đầu tiên tôi gặp anh Bảy Cao, vào ngày 7 tháng 5 năm 1970, thời gian căng thẳng nhất cuộc đời tôi - Dudman nói.

Khi ấy, Richard Dudman, phóng viên tờ Sant Louis Post - Dispatch được phân công đến Việt Nam để đưa tin chiến trường vào thời điểm Nixon mở rộng chiến tranh, tiến quân vào Campuchia để trả mối hận bị tấn công vào Tết Mậu Thân.

Nước Mỹ thời gian đó như đứng bên bờ vực thẳm. “Tôi gặp Bảy Cao chỉ ba ngày sau khi bốn sinh viên Đại học Kent ở Ohio bị vệ binh quốc gia bắn chết trong một cuộc biểu tình phản chiến." Richard Dudman bồi hồi nhớ lại sự kiện đẫm máu, kéo theo làn sóng cuồng nộ ở khắp các khuôn viên đại học Hoa Kỳ. Nixon muôn tiêu diệt các căn cứ của Việt Cộng ở Campuchia nên hạ lệnh tấn công vào ngày 29-4. Ngay tức khắc, ngày 2-5 dân chúng và sinh viên Mỹ bắt đầu những cuộc biểu tình phản đối. Ngày 4-5 vệ binh quốc gia bắn thẳng vào sinh viên Kent: cuộc chiến tranh Việt Nam thực sự bắt đầu ngay trong lòng nước Mỹ.

“Tôi bay đến Việt Nam cùng hai đồng nghiệp, mộl nam một nữ. Michael làm cho hãng tin Dispatch News Service (sau này nghe nói có trở lạl và bị chính quyền trục xuất vì vi phạmluật Việt Nam) và cô Elizabeth Pond của tờ Christian Science Monitor, bây giờ đang viết báo nghiệp dư ở Bonn Cộng hòa Liên bang Đức" Richard xúc động, nói trong hơi thở gấp.

Vào sáng sớm 7-5-1970 cả ba nhà báo tự lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh, dự định theo chân cuộc hành quân của Mỹ và lính Sài Gòn, dọc theo "xa lộ an toàn". Nhưng chỉ mới nửa đường, khi đang vượt qua thị trấn Svai Riêng, thì bị chặn lại: Họ bị bắt và được những khẩu AK-47 “hộ tống" đi sâu vào những cánh rừng già.

“Tôi chợt nhận thấy mình đang rơi vào nguy hiểm chết người. Bao nhiêu tin tức về những người Mỹ khác bị phục kích và mất tích ở khu này đã làm tôi hoảng sợ" Richard Dudman thấp giọng như không còn nghe rõ.

Ông còn là người cao tuổi nhất trong số ba "tù binh" mới. Chính vì vậy, cùng lúc đó, ông cảm thấy có trách nhiệm trấn an hai người đồng nghiệp. “Vâng, nếu còn sống chúng tôi sẽ có một thiên phóng sự tuyệt vời”.

Nhưng, ám ảnh về cái chết vẫn không rời qua những buổi hỏi cung bất chợt do những du kích Khmer đỏ thực hiện dưới “con mắt" đen ngòm của AK. Rồi một ngày, cả ba bị ném lên phía sau một chiếc xe tải.

“Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đi qua những đường mòn rợp bóng cây, vào vùng giải phóngvới những cổng chào sặc sỡ, có cả ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.” Trí nhớ của Richard Dudman dường như chưa bao giờ có tuổi. Đến giữa làng, họ bị bịt mắt dẫn đi theo lối ngoằn ngoèo, giữa hàng ngàn người phẫn uất với tiếng chửi mắng, và hình như, có người đã nhổ vào mặt họ.

“Bọn chúng là điệp viên CIA " giọng người Việt nói đầy giận dữ.

''Không, chúng tôi là nhà báo quốc tế." Michael cố gắng thanh minh bằng vốn tiếng Việt sẵn có.

Một cú đấm bất ngờ làm Michael khuỵu xuống. Rồi đến lượt Richard.

Cuối cùng, họ nghe một giọng khác, nhẹ nhàng hơn: “Hãy cho họ uống nước” Và nói với hai nhà báo bị nghi ngờ: "Các anh không nên nói láo."

Người này là một trung úy còn rất trẻ. Ông hỏi những câu ngắn gọn, nhưng rõ ràng và hứa sẽ trả tự do nếu cuộc điểu tra chứng minh họ là nhà báo, chứ không phải là gián điệp CIA giả dạng.

Những hồi tưởng vẫn tiếp diễn bởi những khám phá bất ngờ. ''Chúng tôi di chuyển vào ban đêm, khi thì bằng xe hơi, khi thì xe đạp và phần lớn là cuốc bộ. Ban ngày dừng lại ngủ trong lều của nông dân” Richard nói.

Những người đồng hành đã trở thành thân thiện từ lúc nào không hay. Đến ngày thứ 40 - Richard đếm từng ngày như một cách giết thời gian, bỗng người sĩ quan cao to hôm nào xuất hiện với đôi mắt và nụ cười nhân hậu. Ông nói: ''Tôi đã được lệnh thả các anh.”

Đó là ngày 15-6-1970.

Nhiệm vụ hoàn thành

Vào năm 1972, chính nhà báo Dudman được chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời đến Hà Nội. Sau đó, ông đã viết nhiều bài tường thuật trực tiếp từ Hà Nội kêu gọi dân chúng Mỹ phản đối cuộc chiến tranh tàn bạo mà Mỹ gây ra tại Việt Nam.

Và từ ấy, ông ước mong được biết tên tuổi của người đã trả tự do cho ông và viết lại "thiên phóng sự tuyệt vời" như một phần thưởng vô giá của tình người mà ông từng nhận được.

Ánh sáng hy vọng lóe lên vào tháng 12-1993, 18 năm sau, có người bạn của Richard Dudman là Tim Kinh gọi điện cho vợ ông báo tin: trên tờ Newsweek có bài báo nhắc tới ông. Chính ký giả David Hackworth của Newsweek đã pha đèn vào sương mù ký ức, khi ông trích lời một tướng Việt Cộng về hưu rằng, vào năm 1970, ông và các đồng chí của ông đã thả ba nhà báo Mỹ bị tình nghi là gián điệp vì "Họ ăn quá nhiều. Một trong ba người đã ăn gấp 10 lần khẩu phần của chúng tôi " Tướng về hưu Bảy Cao nói với Hackworth. Nhưng nỗ lực tiếp theo từ Trung tâm Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giúp Richard tìm ra địa chỉ tướng Bảy Cao, giúp ông làm xong công việc mà, nói như người Việt Nam, ông đã có thể an lòng nhắm mắt. Còn với Richard: “Chưa nói được tiếng cám ơn đó thì vẫn chưa trọn đạo làm người".

Khi Richard thăm nhà Bảy Cao, có lần giữa câu chuyện hàn huyên, ông hỏi phòng vệ sinh, tướng Bảy Cao tự nhiên dẫn ông ra con kênh nghiêng bóng dừa trước căn nhà lộng gió. "Ồ, có lẽ, phòng vệ sinh nhà anh lớn nhất thế giới” Richard cười. Anh Bảy tỉnh bơ: “Anh đùa cũng như tôi, khi nói với Hackworth rằng các anh ăn quá nhiều, không chịu nổi, phải thả”.

Bảy Cao cho biết cú đấm mà Richard nhận là vi phạm chính sách, nên người tung ra cú đấm phải bị kỷ luật: anh ấy đã bị giáng chức từ trung úy xuống trung sĩ. Bảy Cao ngậm ngùi: “Tôi bắt anh ấy đến xin lỗi các anh, nhưng không may anh ấy đã hy sinh vài ngày sau đó khi quân ngụy tấn công vào ngôi nhà nơi đã giữ các anh.” Richard nghĩ rằng cách mà Bảy Cao lý giải chiến thắng của Việt Nam cũng đơn giản: "Lúc đầu người ta nghĩ các anh là điệp viên, là kẻ thù, nên họ manh động. Nhiều ngườì trong số du kích có gia đình hoặc thân nhân bị lính ngụy hay Mỹ tàn sát. Hãy hiểu sự phẫn nộ của họ".

Từ lâu, Richard vẫn mơ hồ rằng việc thả ông là do sự can thiệp quốc tế nào đó, nhưng tướng Bảy Cao đã tiết lộ: "Chúng tôi phải điện cho Hà Nội xin phép được trả tự do cho các anh. Tất nhiên Hà Nội đồng ý vì nhà báo không phải kẻ thù. Chính sách đó cũng sáng ngời như chính nghĩa của chúng tôi” Bảy Cao nói, giọng vẫn khỏe khoắn như ngày nào.

Nhưng Richard hiểu rằng ông may mắn biết bao, bởi vì làm sao có thể trách được sự ngộ nhận của chiến tranh. Năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Richard Dudman đã thực hiện được ước mơ cao hơn: đưa bà Helen Dudman - vợ ông đến Việt Nam để cùng nói lời cám ơn, bởi chính bà mới là người “thọ ơn" nhiều nhất. Hạnh phúc lớn nhất của bà là người chồng mất tích trong vùng chiến sự, bỗng trở về nhà.

Năm nay, 2005, kỷ niệm ba mươi năm giải phóng, chúng tôi muốn giới thiệu cuốn sách của Richard Dudman, sau khi được trả tự do. Tất nhiên, dưới mắt một nhà báo Mỹ đang bị bắt giữ, những nhận xét lúc đó "không dễ dàng", nhưng cuối cùng, tính nhân bản và vị tha giữa người với người luôn được chiếu sáng, không phải từ một phía, mà từ nhiều phía khác nhau, thậm chí phía đối địch.

Trần Ngọc Châu

Mời các bạn đón đọc 40 Ngày Sống Với Đối Phương của tác giả Richard Dudman.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 40 Ngày Sống Với Đối Phương PDF của tác giả Richard Dudman nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí (John Mcshane)
Với tuổi 48, thân hình béo ú, đầu tóc bù xù, bận một chiếc váy rơm quê mùa bước lên sân khấu chương trình Britain’s Got Talent, Susan Boyle đã nhận những cái nhìn diễu cợt, coi thường từ phía khán giả và cả chính những vị giám khảo nổi tiếng đang cầm chịch chương trình. Thế nhưng, khi ca khúc Tôi mơ một giấc mơ (I dreamed a dream) cất lên cùng với một giọng hát trời phú lảnh lót, cả khán phòng đã vỡ òa xúc cảm: Susan Boyle vô danh vụt sáng trở thành thần tượng âm nhạc chỉ sau một đêm, được hàng trăm triệu người biết tới. Cô trở thành ca sĩ chuyên nghiệp với hai album I dreamed a dream (album bán chạy nhất thế giới năm 2009, lập được kỷ lục Guiness cho album đầu tay bán chạy nhất với một nữ ca sĩ) và The gift. Năm 2011, cô còn được đề cử giải Grammy… Cuốn sách Susan Boyle thiên thần xấu xí tập trung vào giai đoạn từ khi Susan quyết định rời khỏi ngôi làng nhỏ của mình cho tới khi đạt được thành công cả về danh tiếng và tài chính, được cả thế giới nghiêng mình ngưỡng mộ. Tác giả John McShane đã tổng kết lại từ hàng nghìn bài báo, website, xem cả trăm chương trình truyền hình để dựng nên một chân dung chuẩn xác nhất về Susan Boyle. Gần như chẳng còn một thông tin nào về người phụ nữ này bị bỏ sót trong cuốn sách, từ những câu chuyện thời niên thiếu, cuộc sống gia đình và cả khát vọng vươn tới những điều tốt đẹp… Ngoài ra, tác giả còn mô tả lại cách giới truyền thông đã phản ứng như thế nào trước hiện tượng Susan Boyle - khi họ chợt giật mình nhận ra, một tài năng tuyệt vời không buộc phải đi cùng một ngoại hình đẹp. Chính vì vậy, Susan Boyle thiên thần xấu xí là một cuốn sách cổ vũ cho những giấc mơ, dẫu biết rằng cô chỉ là một tài năng hiếm hoi trong hàng triệu người. ***Người phụ nữ trung tuổi bước khoảng chục bước lên sân khấu. Những bước chân vừa dè dặt, lo lắng lại vừa dứt khoát, quyết tâm. Nửa chừng, khi tiến vào giữa ánh đèn, bà đặt bàn tay trái lên hông trong chốc lát, một cử chỉ vừa mang vẻ duyên dáng cực kỳ nữ tính vừa có phần không phù hợp và vụng về.Bà mặc bộ váy viền ren với cái màu mà nếu châm chước lắm thì cũng chỉ gọi được là “vàng xỉn”, dáng vẻ và phần nào hình dạng của nó dễ gợi liên tưởng đến một chiếc khăn trải bàn dùng cho bữa trà chiều vào cái thời xa xăm khi phòng khách thường chỉ được dành cho những dịp “trọng đại”. Bà thắt quanh eo một chiếc nơ con bướm to tướng giống hệt kiểu nơ người ta vẫn thường đính trên các hộp sô cô la hạ giá tại cửa hàng giảm giá trong khu phố nghèo. Tìm mua: Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí TiKi Lazada Shopee Với vóc dáng thấp, đậm, quá cân, người phụ nữ ấy đã tạo nên một hình ảnh mà ít lâu sau bị so sánh với “miếng thịt lợn trên chiếc khăn lót cốc”. Bà có khuôn mặt vuông, mái tóc màu nâu đục bù xù như chưa chải, lốm đốm xám bạc như bị rắc quá nhiều muối tiêu.Bà đi tất màu tối, giày màu sáng. Trên cánh tay phải, bà đeo một chiếc đồng hồ rẻ tiền, mặt đồng hồ thô kệch xoay xuống dưới cổ tay, còn bàn tay phải bà nắm chặt chiếc micro cỡ đại trong cung cách gần như sẵn sàng trực chiến, như thể chiếc micro ấy là một thứ vũ khí mà bà sẽ không ngần ngại sử dụng để tự vệ.Cuốn Từ điển Oxford rút gọn định nghĩa “frump” là một danh từ chỉ “người phụ nữ ăn mặc luộm thuộm, lỗi mốt”. Khi bà dừng bước ở trung tâm sân khấu, cái hình dáng tầm thường ấy dường như trở thành định nghĩa sống của chính từ đó: một con người không chỉ toát lên vẻ già trước tuổi mà còn tạo ấn tượng là đã già sẵn ngay từ khi sinh ra. Chỉ cần nhìn bà người ta cũng có thể thấy được hình ảnh một người lao động chân tay sầu muộn đầy tham vọng đang trên đà lão hóa, với những ý tưởng và hoài bão quá xa vời so với môi trường của mình đến độ nếu không đậm chất ảo tưởng tới mức đáng buồn thì hẳn chúng đã khiến người ta thấy thật khôi hài. Rõ ràng bà là một người thường xuyên thất bại trong cuộc sống, và chỉ có sự pha trộn của lòng thương hại và ái ngại mới ngăn được 3.000 khán giả cuồng nhiệt tại Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Scotland khỏi phá lên cười rầm rĩ. Một bầu không khí thiếu thoải mái bao trùm - cảm giác hân hoan khi ý thức được một thảm họa sắp xảy ra trộn lẫn với sự phấn khích tọc mạch khi dự cảm được nỗi xấu hổ của một con người khác. Không ít người trong hội trường bồn chồn chuyển mình trên ghế, liếc mắt về phía bạn bè với vẻ hiểu biết; phương án giải quyết của họ chỉ là hoặc cười thật to, hoặc im lặng, hoặc quan sát không chớp mắt, hoặc chỉ hé mắt qua kẽ ngón tay hầu giảm thiểu tác động. Nó cũng không khác gì khi ta đứng trên lối đi dạo ven bờ trong một ngày bão giông, nhìn ra biển khơi nơi sóng nước sắp nuốt chửng những tay bơi tuyệt vọng. Quá khủng khiếp khó lòng chứng kiến, nhưng quá thu hút chẳng dễ quay mặt đi.Người phụ nữ đeo quanh cổ một sợi dây chuyền mảnh, ngay trên miếng bìa đề rõ các con số 43212. Bên cạnh chúng, trên tấm thẻ tên là dòng chữ “Britain’s Got Talent”.Ở giữa người phụ nữ và đám khán giả đang háo hức là một chiếc bàn rộng không khác gì bàn của nhân vật phản diện trong phim James Bond, phía sau bàn là ba vị giám khảo: hai đàn ông, một phụ nữ, một bộ tam đầu chế của Caesar[1] thời hiện đại, những người sẽ bật đèn tín hiệu quyết định các đấu sĩ trước mặt họ sẽ được sống hay phải chết.Người đàn ông có mái tóc ngắn sẫm màu ngồi ở phía cuối đoàn giám khảo gãi gãi chóp mũi, lơ đãng nghịch nghịch cây bút và hướng ánh mắt vào tờ thông tin đặt trước mặt. Ông hỏi với vẻ thông thạo công việc, “Vậy, tên bà là gì?” Câu hỏi được thốt ra không phải bằng giọng buồn chán mà với vẻ chỉ muốn chuyện này kết thúc - và kết thúc cho nhanh. Xét cho cùng, kéo dài cơn hấp hối cũng chẳng có nghĩa lý gì.“Tôi tên là Susan Boyle,” câu trả lời cất lên, chất giọng Scotland không lẫn vào đâu được, cao và rõ ràng. Kẻ thẩm vấn ăn mặc xuề xòa, đang hờ hững tựa vào lưng ghế ấy là Simon Cowell. Đó cũng chính là người đàn ông quyền lực nhất giới showbiz Anh, một tỉ phú với đế chế không ngừng mở rộng. Ông là hình ảnh của kẻ không có thói quen đối xử tử tế với kẻ ngốc, có thể thô lỗ đến cay độc với những màn trình diễn ông không đánh giá cao. Không lời sáo rỗng, không uyển ngữ - không khoan nhượng.Ngồi ngay cạnh ông là nữ diễn viên Amanda Holden. Vốn là một nhân vật nổi tiếng trên màn ảnh nhỏ nước Anh, vai trò đồng giám khảo của chương trình truyền hình tìm kiếm tài năng - cộng thêm phản ứng thường tràn đầy cảm xúc của cô trước các màn trình diễn cũng như chuyện đời của các thí sinh mà cô được nghe - đã nâng cô lên một tầm cao danh tiếng khác.Và mảnh ghép cuối cùng để hoàn thiện bộ ba ấy là Piers Morgan, cựu biên tập viên Fleet Street[2], từng có một sự nghiệp báo chí nổi như cồn ghi dấu ấn bằng các bài viết gây tranh cãi và sau đó xuất sắc lột xác thành một ngôi sao truyền hình.Tất cả đều có vai trò trong sự kiện sắp diễn ra, nhưng vào cái ngày tháng Giêng năm 2009 đó, không ai trong số họ có thể dự đoán được rồi sẽ có chuyện gì xảy ra. Cowell vẫn tiếp tục đưa ra các câu hỏi theo một cung cách dường như tỏ rõ rằng ông sẽ vận hết khả năng lịch sự và chuyên nghiệp cần thiết để giải quyết nhanh gọn việc này.“Được rồi, Susan, bà quê ở đâu?” ông hỏi. “Tôi quê ở Blackburn, gần Bathgate, Tây Lothian,” bà trả lời. Cho đến lúc này thì mọi việc đều ổn. Nhưng rắc rối đang trực chờ phía trước.“Đó có phải một thành phố lớn không?” Cowell tiếp tục. Không hẳn là Susan Boyle bị câu hỏi gây khó dễ, nhưng bà vẫn không trả lời ngay, có lẽ bà có cái cảm giác lo lắng mà ta hoàn toàn có thể hiểu được khi nhất cử nhất động của mình đang bị hàng nghìn khán giả trong hội trường và không biết bao nhiêu ống kính truyền hình đang dõi theo.“Đó là một tập hợp… đó là một tập hợp… ờ…” bà cất lời, rồi dừng lại như không biết nên nói thế nào, vật lộn suy nghĩ tìm cách diễn đạt câu trả lời thật rõ, “… một tập hợp các ngôi làng.” Rồi bà thêm vào một cách không cần thiết, “Về điểm đó tôi còn phải suy nghĩ.”Có lẽ bà đã mệt rồi. Xét cho cùng, bà đã phải bắt sáu tuyến xe buýt từ nhà mới tới được hội trường.“Và bà bao nhiêu tuổi, Susan?” Cowell hỏi.Câu trả lời vang lên, “Tôi 47.” Cowell, khi đó 49 tuổi, đảo tròn mắt. Có thể nghe thấy từ phía sau ông rộ lên cả tiếng cười lẫn tiếng lầm bầm chê bai của khán giả. Một tiếng huýt sáo độc địa vang lên đâu đó giữa đám đông. Các khán giả đang theo dõi trực tiếp tại nhà hát, và cả hàng triệu người ngồi tại nhà xem buổi thi tài của Susan Boyle sau đó, chắc hẳn đều e rằng mình đang xem một chương trình về các vụ tai nạn giao thông.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí PDF của tác giả John Mcshane nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hồi Ký Người Vợ Á (Ngoạ Lan)
Tám năm trước, tôi đã đọc một lèo “đứa con đầu lòng” Ngày hôm qua của Ngoạ Lan và cho ngay lời bình vào ngày hôm sau. Khác với lần trước, lần này nhận được bản thảo đứa con tinh thần thứ hai của em, tôi lại cho phép mình đọc một cách chậm rãi và có những đoạn đọc đi đọc lại để ngấm hơn những giá trị của nó. Tôi đã trải qua những cảm xúc ấy của em nên đồng cảm sâu sắc, nhất là những năm tháng ở nước ngoài xa quê hương. Nếu Ngày hôm qua của Ngoạ Lan ví như một cô gái tuổi mới lớn đang vào kỳ yêu đương lãng mạn thì Hồi ký người vợ Á là tâm sự của một người đàn bà trưởng thành, trải nghiệm trong tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc đan xen, giằng xé nội tâm, phấn đấu cho hạnh phúc và thành công. Lối viết của Ngoạ Lan phóng khoáng, tự trào đầy cảm xúc, xen một chút ma mị càng lôi cuốn. Đam mê viết lách của tác giả Ngoạ Lan còn tràn đầy, tôi cảm nhận được tâm huyết cháy bỏng từ em. Những câu chuyện trong Hồi ký người vợ Á cũng mang nhiều bài học về giá trị nhân văn mà em muốn gửi gắm đến độc giả. Và tôi cũng đón chờ được đọc những bản thảo tiếp theo của Ngoạ Lan. Hồi ký người vợ Á mới mở ra chuỗi hành trình của tác giả, còn rất nhiều câu chuyện thú vị và đầy giá trị nhân văn ở phía trước…” chia sẽ của Connecting Lady Nguyễn Thu Anh dành cho cuốn sách. Tìm mua: Hồi Ký Người Vợ Á TiKi Lazada Shopee “Hồi ký người vợ Á là một cuốn sách chạm đến trái tim người đọc. Cuốn sách truyền cảm hứng cho những ai đã và đang trải qua những giai đoạn đầy thử thách, sóng gió trong cuộc sống, trong tình yêu, giúp họ có nghị lực để cân bằng và sống đẹp, sống đúng với những giá trị mình theo đuổi. Lối kể chuyện thu hút, sáng tạo, xâu chuỗi sự kiện liền mạch, hấp dẫn độc giả từ trang đầu đến những trang cuối cùng của tác phẩm. Nếu đã đọc Ngày hôm qua của Ngoạ Lan thì Hồi ký người vợ Á cho thấy sự trưởng thành, từng trải của tác giả, tác phẩm “lớn” hơn rất nhiều so với Ngày hôm qua.” “Đọc Hồi ký người vợ Á có lúc mình bật cười vì cách viết dí dỏm rất đời của tác giả nhưng cũng có lúc u ám, giằng xé tâm can khi chứng kiến người phụ nữ phải lựa chọn giữa con tim và lí trí, để biết cuộc sống này đâu chỉ có một màu hồng. Một cuốn sách đáng đọc!”Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồi Ký Người Vợ Á PDF của tác giả Ngoạ Lan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Không Khóc Ở Kuala Lumpur (Linh Lê)
Không khóc ở Kuala Lumpur là câu chuyện kể về những người trẻ, họ đã sống hết mình với những khát khao cháy bỏng, yêu bằng tất cả nhiệt huyết mà họ đang có. Việt An - một cô gái xinh đẹp với những vết thương tình cảm mãi hằn sâu trong lòng, những người mà cô yêu thương, ít nhiều đều mang tới cho cô những bi kịch. Xuyên suốt cuốn sách là những câu chuyện tình được đan xen hợp lý, đặt trong bối cảnh của một thành phố vừa hiện đại vừa cổ điển kiểu châu Á, trong sự phức tạp và thay đổi không ngừng của cuộc sống du học sinh. Tác giả Linh Lê đã lý giải quan niệm tình yêu của những người trẻ bằng một lối kể rất tự nhiên, như đang tâm sự, khiến xúc cảm của các nhân vật càng thấm đượm trong từng trang truyện. Cuốn sách mang đến cho người đọc những vùng trời rộng lớn, nơi ấy người trẻ được thỏa sức vẫy vùng, được yêu hết mình, dù có thể đến cuối cùng chỉ còn những kỉ niệm xót xa. Không khóc ở Kuala Lumpur - một bức tranh được vẽ nên từ những gam màu nổi trội nhất. Ở đó có màu đỏ rực rỡ của tình yêu cháy bỏng, màu xanh mướt mải của tuổi thanh xuân căng tràn nhựa sống, màu tím dịu dàng của tình bạn và lòng khoan dung, cuối cùng là sắc nâu trầm buồn của những đớn đau và bi kịch. Kuala Lumpur - thành phố rực rỡ phù hoa đã ghi dấu những ước mơ, hoài bão, tình yêu của nhóm bạn trẻ. Ở vùng đất ấy, khi tiếng quạ đã trở nên thân thuộc với mỗi con người như từng hơi thở, những nỗi đau tựa hồ đã thành hình thành tiếng qua từng trang truyện. Cho đến cuối cùng, những giọt nước mắt phải chăng đã chẳng còn tìm được lý do để rơi xuống, chỉ còn lại sự ráo hoảnh đến cực cùng. Tình yêu không phải một trò chơi, nhưng đôi khi lại là trò đùa của số phận…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Không Khóc Ở Kuala Lumpur PDF của tác giả Linh Lê nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Không Khóc Ở Kuala Lumpur (Linh Lê)
Không khóc ở Kuala Lumpur là câu chuyện kể về những người trẻ, họ đã sống hết mình với những khát khao cháy bỏng, yêu bằng tất cả nhiệt huyết mà họ đang có. Việt An - một cô gái xinh đẹp với những vết thương tình cảm mãi hằn sâu trong lòng, những người mà cô yêu thương, ít nhiều đều mang tới cho cô những bi kịch. Xuyên suốt cuốn sách là những câu chuyện tình được đan xen hợp lý, đặt trong bối cảnh của một thành phố vừa hiện đại vừa cổ điển kiểu châu Á, trong sự phức tạp và thay đổi không ngừng của cuộc sống du học sinh. Tác giả Linh Lê đã lý giải quan niệm tình yêu của những người trẻ bằng một lối kể rất tự nhiên, như đang tâm sự, khiến xúc cảm của các nhân vật càng thấm đượm trong từng trang truyện. Cuốn sách mang đến cho người đọc những vùng trời rộng lớn, nơi ấy người trẻ được thỏa sức vẫy vùng, được yêu hết mình, dù có thể đến cuối cùng chỉ còn những kỉ niệm xót xa. Không khóc ở Kuala Lumpur - một bức tranh được vẽ nên từ những gam màu nổi trội nhất. Ở đó có màu đỏ rực rỡ của tình yêu cháy bỏng, màu xanh mướt mải của tuổi thanh xuân căng tràn nhựa sống, màu tím dịu dàng của tình bạn và lòng khoan dung, cuối cùng là sắc nâu trầm buồn của những đớn đau và bi kịch. Kuala Lumpur - thành phố rực rỡ phù hoa đã ghi dấu những ước mơ, hoài bão, tình yêu của nhóm bạn trẻ. Ở vùng đất ấy, khi tiếng quạ đã trở nên thân thuộc với mỗi con người như từng hơi thở, những nỗi đau tựa hồ đã thành hình thành tiếng qua từng trang truyện. Cho đến cuối cùng, những giọt nước mắt phải chăng đã chẳng còn tìm được lý do để rơi xuống, chỉ còn lại sự ráo hoảnh đến cực cùng. Tình yêu không phải một trò chơi, nhưng đôi khi lại là trò đùa của số phận…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Không Khóc Ở Kuala Lumpur PDF của tác giả Linh Lê nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.