Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ác Mộng Ven Hồ

Gina Royal là một phụ nữ bình dị sống cuộc sống êm đềm bên chồng và hai đứa con thơ tại vùng Wichita, tiểu bang Kansas. Thế giới của cô bỗng đảo lộn hoàn toàn vào ngày nọ, khi cô lái xe đưa các con đi học về thì phát hiện một chiếc xe hơi đã tông vào bức tường gara nhà cô, để lại một khoảng trống hoác đồng thời phơi bày bí mật kinh hoàng: một thi thể phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Gia đình Gina bỗng chốc rơi xuống vực thẳm. Để sinh tồn, cô buộc phải trốn chạy, bỏ đi mọi thứ mình từng có, những mong làm lại cuộc đời. Gina cuối cùng tìm được bến đỗ tại ngôi nhà nhỏ bên hồ Stillhouse. Nhưng hy vọng mới còn chưa kịp bén rễ thì cuộc đời một lần nữa đẩy cô đến bờ vực khốn cùng. Cô phải làm thế nào để giữ được sự tỉnh táo trong trò chơi ú tim của kẻ giết người đã hiểu rõ cô và cô cũng hiểu hắn rất rõ? Phải làm thế nào để vừa giữ an toàn cho các con, vừa phải gìn giữ sợi dây tình cảm mong manh với hai đứa trẻ tuy còn nhỏ mà đã phải chịu quá nhiều thương tổn?  Là tập đầu tiên trong series trinh thám Stillhouse gồm ba cuốn, cùng với Con lạch chết chóc và Dòng sông hắc ám, Ác mộng ven hồ sẽ đưa người đọc cùng Gina trải qua hành trình đi tìm sự thật với vô vàn ngã rẽ cùng những nút thắt mở bất ngờ đến phút chót. ----- Về tác giả Rachel Caine Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Ác mộng ven hồ Tác giả: Rachel Caine. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại phương Tây, hồi hộp Gwen Proctor là người mẹ đơn thân của hai đứa trẻ, con gái lớn 14 tuổi đang trong thời kỳ nổi loạn, con trai nhỏ 11 tuổi tương đối hiểu chuyện và biết quan tâm đến chị gái. Gwen cũng là học viên xuất sắc tại trường dạy bắn súng cạnh vùng hồ Stillhouse thuộc bang Tennessee. Ngôi nhà của họ tọa lạc ở nơi có phong cảnh rất nên thơ, nhưng Gwen giữ thái độ xa cách và hết sức thận trọng với hàng xóm. Cô ép mình tập luyện gắt gao những bộ môn tự vệ nhằm cố gắng duy trì tinh thần ổn định và giữ tính mạng cho bản thân và hai đứa con. Cách đây bốn năm, Gwen từng là người phụ nữ nội trợ hạnh phúc có chồng làm thợ mộc, cuộc sống vô tư vô lo trôi qua từng ngày, cho đến khi một tài xế say rượu tông vỡ nát bức tường garage nhà cô, làm lộ ra thi thể một phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Tôi định chọn “Ác mộng ven hồ” làm một quyển trinh thám đọc chơi vào cuối tháng 9, không nghĩ rằng nó cuốn hút như thế này, khiến tôi bỏ ngủ và đọc hết trong vòng chưa đến hai ngày. Cuốn sách khiến tôi liên tưởng nhiều đến quyển “Săn đuổi đến cùng” (Lisa Gardner), cả hai cuốn đều đưa độc giả hoàn toàn rơi vào bầu không khí căng thẳng nhiều phần tối tăm của câu chuyện, hồi hộp theo từng hành động của nhân vật, sợ hãi với diễn biến kịch tính của truyện. Cả hai cuốn cũng không nhấn mạnh lắm vào vai trò của cảnh sát, nhân vật chính không thuộc giới thi hành pháp luật, họ chỉ vô tình rơi vào vòng xoáy tội ác và phải nỗ lực bằng cả tính mạng để giải thoát chính mình + người thân. Ngay phần mở đầu của “Ác mộng ven hồ” đã có cảnh khiến tôi sợ. Nếu là vài năm trước thì tôi đã không dám đọc tiếp, nhưng nay bớt nhát rồi, thêm nữa là cách viết của tác giả quá cuốn hút nên tôi đánh liều đọc đến hết, và khá ưng ý với quyển sách này. “Ác mộng ven hồ” không có những câu tả cảnh hữu tình hay những lời thoại chứa đầy kiến thức tâm lý ứng dụng như trong truyện của Lee Child hoặc Baldacci, cách viết của Rachel Caine khiến tôi nghĩ đến Tử Kim Trần: miêu tả rõ ràng gãy gọn, tập trung vào nhân vật và hành động, rất thực tế nhưng không khô khan, cảm giác như không có chữ nào dư thừa. Thêm một lý do khiến tôi thích cuốn này là vì tác giả không đưa vào quá nhiều tình cảm lãng mạn, thay vào đó, chất trinh thám tỉnh lạnh và đậm đặc hoàn toàn làm hài lòng các độc giả trinh thám. Suốt quá trình đọc, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Rachel Caine đúng là một tác giả NỮ viết cho bạn đọc NỮ, vì nội dung truyện nhấn mạnh vào diễn biến tâm lý của một phụ nữ trẻ, cách cô ấy bảo vệ con như một loài thú dữ, cách cô ấy so sánh người đàn ông trong hiện tại và người đàn ông của quá khứ, cách cô ấy vận dụng toàn bộ sức mạnh yếu ớt của nữ giới để chống lại kẻ xấu… Không biết những cuốn khác trong loạt truyện “Stillhouse” thì sao nhưng sau cuốn này thì tôi kết luận mình thích truyện của Rachel Caine. Có một số truyện trinh thám tôi từng đọc qua đề cập đến tác hại của Internet đối với cuộc sống con người, chẳng hạn như “Cây thập tự ven đường”, “Dữ liệu tử thần”, “Sát nhân mạng” (cả ba truyện vừa nêu đều của tác giả Jeffery Deaver). “Ác mộng ven hồ” cũng tương tự như vậy. Trước khi đọc cuốn này, tôi chưa từng tưởng tượng vợ con của một kẻ sát nhân sẽ nhận được thái độ đối xử như thế nào từ công chúng? Thông cảm, hay thờ ơ không quan tâm? Trái với lầm tưởng ngây thơ của tôi, mức độ thù hằn đổ lên đầu họ còn gấp nhiều lần đổ lên chính kẻ sát nhân. Họ chỉ là phụ nữ và trẻ con, và dù vô tội, họ vẫn bị những tay anh hùng bàn phím vô nhân tính thiếu não đe dọa bằng những từ ngữ tục tĩu dơ bẩn, những hành động tiểu nhân bỉ ổi. Trong truyện có nhiều câu, nhiều đoạn rất thấm thía mô tả suy nghĩ của Gwen Proctor khi cô và các con phải nhận lấy những lời lẽ / những cách cư xử mà họ hoàn toàn không đáng phải chịu. Tuy hiểu rằng người sử dụng Internet không phải toàn người xấu, nhưng quyển sách này vẫn đem đến cho tôi những góc nhìn mới, giúp tôi sáng mắt ra và từ nay thêm phần e sợ khi dùng Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Thiết kế bìa rất hợp với tựa sách, lẽ ra tôi phải sợ nhưng tôi chỉ thấy bìa đẹp!, gợi liên tưởng đến bìa cuốn “Tiếng thét”của Hamanaka Aki. Phần dịch thuật xuất sắc, giúp cho việc đọc câu truyện càng trở nên dễ dàng và thú vị hơn đối với bạn đọc VN. Tuy có để ý tìm kiếm nhưng tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả hay lỗi biên tập nào trong truyện hay không. Loạt truyện “Stillhouse” của tác giả Rachel Caine còn những cuốn khác gồm + Killman Creek: Con lạch chết chóc, đã được dịch tiếng Việt Còn những tựa sách sau thì tôi mạn phép tự dịch là + Wolfhunter River: Dòng sông săn sói + Bitter Falls: Thác nước đắng cay + Heartbreak Bay: Vùng vịnh tim vỡ Hy vọng những cuốn còn lại đều sẽ được dịch và xuất bản tiếng Việt. Bây giờ đọc tiếng Việt, vài năm sau nếu có cơ hội đọc lại nguyên tác tiếng Anh thì tôi nghĩ mình sẽ có thêm quãng thời gian tận hưởng những quyển sách thú vị này. *** (Sea, 29-9-2020) Cáo Biển Non Xanh Gina Royal có lẽ không tin nổi đến một ngày nọ gia đình hạnh phúc của cô lại rơi vào vực thẳm của bi kịch: Người chồng chung sống bao lâu nay thực ra là một thằng sát nhân bệnh hoạn! Tội ác của hắn chỉ thực sự lộ tẩy khi có 1 tai nạn hi hữu xảy ra ở gara, nơi hắn thường xuyên làm việc tại nhà. Gina bị cáo buộc đồng loã nhưng sau đó được tuyên trắng án. Để bắt đầu cuộc sống mới với 2 con, người phụ nữ này sẽ phải làm những gì? “Ác mộng ven hồ” là câu chuyện về hành trình chỉ có trốn chạy và trốn chạy của một người đàn bà yếu ớt không một tấc sắt trong tay. Rong ruổi hết bang này sang bang nọ với những thân phận mới. Mục đích của cô là để đem lại nơi chốn an toàn và ổn định cho các con của mình. Có vẻ định mệnh đã sắp đặt cô dừng chân lại ở vùng Hồ Stillhouse, bang Tenessa. Nhưng vì sao toà đã tuyên án vô tội mà Gina Royal vẫn phải chạy trốn ko ngừng? Nói đến đây tôi lại nhớ về “Thư” của Higashino Keigo: Một kẻ phạm tội bị cầm tù 15 năm; và 15 năm đó cũng là ngần ấy ngày cuộc đời em trai của anh ta bị “cầm tù” ở phía bên ngoài song sắt. Gina có phần giống với người em trong câu chuyện ấy, chính xác thì cuộc đời của cô ngay cả khi chồng bị tống vào ngục vẫn ko thể ngóc đầu lên được, nhưng cô thê thảm theo một cách khác. Cả 3 mẹ con liên tục bị đe doạ tấn công, giết chết. Những thân nhân của các nạn nhân mà thủ phạm là gã chồng cũ không chấp nhận việc Gina vô tội, người ta tìm cách truy lùng họ để trả thù. Bọn cuồng tín tôn thờ chủ nghĩa man rợ phát tán các hình ảnh thoá mạ các con cô…Bằng một cách nào đó, chính người chồng đầu ấp tay gối đã “cầm tù” và bóp nghẹt cơ hội làm lại cuộc đời của vợ con mình. Một con thú khát máu trong vỏ bọc người chồng mẫu mực liệu có bao giờ nghĩ đến viễn cảnh đó hay không? Tôi đọc cuốn sách này nhanh và hoàn thành sớm hơn tôi tưởng. Đây là một cốt truyện gần như đè bẹp yếu tố trinh thám thuần mặc dù có đầy đủ yếu tố: người chết, cảnh sát, nghi phạm, điều tra. Xương sống của truyện tập trung về đời sống nội tâm và cách ứng phó của nhân vật chính với các diễn biến bên ngoài. Nhiều lúc cứ ngỡ như đây là một cuộc chiến sinh tồn, vì vai trò của Gina không khác gì một con mồi dễ triệt hạ. Tôi cũng thừa nhận rằng không ít lần tôi phát bực với nhân vật này. Nhu nhược và yếu đuối, thường tìm cách đổ lỗi cho bản thân mình, có phần hơi kém thông suốt tâm lý của con cái, bề ngoài thì luôn đề phòng nhưng kì thực rất dễ tin người. Tin mình đi, Gina dễ tin người vãi lá; không cần đọc đến đoạn tác giả lồng ghép vào về sau thì ngay từ ban đầu cũng thừa dữ kiện để nhận ra rồi. Nhưng suy xét kĩ thì tôi thấy cũng dễ hiểu. Gina sống với không một sự giúp đỡ và tâm trạng cảnh giác cao độ luôn luôn khiến cô mệt mỏi. Hoàn cảnh khắc nghiệt làm thay đổi tâm tính của cả cô lẫn 2 con. Cuộc sống của cô là chỉ cần bạn ngồi yên một chỗ, rồi tai hoạ và rắc rối cũng sẽ tự dưng tìm đến bạn. Gina không thông minh lên được là bao, nhưng mạnh mẽ thì có, sự mạnh mẽ chậm dần đều. Đơn giản Gina chỉ là một phụ nữ an phận hiền lành, không có kĩ năng va vấp ngoài xã hội từ trước. Nếu nói thứ cảm xúc nào rõ ràng nhất sau khi đọc xong cuốn sách này thì đó là sự phẫn nộ. Không những nạn nhân là nữ, chết thảm, mà đối tượng bị đổ lỗi ở đây cũng vẫn lại là phụ nữ; Luôn là phụ nữ. Một xã hội nhân danh diệt trừ cái ác nhưng không hiểu rõ bản chất cái ác. Kẻ tội đồ lại thành “ai-đồ”, có fandom sùng bái. Cái nhìn thiển cận của đa số con người trong xã hội đối với một cá nhân có vết đen là vấn đề không thể tránh khỏi, vì khó có người nào thật sự muốn bản thân mình buộc phải có trách nhiệm nhân ái và bao dung với đồng loại. Luật pháp trong câu chuyện này còn thua cả luật rừng. Tôi thấy nực cười nhất là đám cảnh sát. Thầm nghĩ có lẽ tác giả muốn gia tăng độ khó và mức độ hiểm trở cho hành trình của nhân vật chính nên suốt từ đầu đến cuối không có nổi lấy 1 tay nào thông minh nhạy bén Nếu không muốn nói là có mặt chắc chỉ để hằm hè đe doạ. Và cuối truyện thì chỉ cần nói “Tôi nợ chị cả một trời xin lỗi” xí xoá là xong! Tôi không chê tác phẩm này về mặt logic phá án, bởi vì nó quá mờ nhạt, không có gì để phân tích và suy đoán thì biết lấy gì ra để chê? Chẳng có gì khác ngoài một vài biểu hiện không thiện chí và gây khó dễ cho nhân vật chính, không cấu thành nổi dữ kiện để đặt nghi vấn ai là kẻ đứng sau. Và như đã nói từ trước là Gina ngây thơ vãi lá, hoặc nếu tác giả xem đó là thử thách gây bất ngờ cho độc giả phát hiện ra điều bí mật thì xem ra quá nhẹ nhàng. Vậy suy cho cùng, chạy trốn mãi vẫn không thể là giải pháp thực sự hữu hiệu, Gina buộc phải đối mặt và phải trở nên cáo già hơn. Chúng ta chờ xem ở phần 2, “Con Lạch chết chóc” có khởi sắc hơn phần 1 này hay không nhé? À mà phải nói thêm rằng gã chồng trong truyện cũng thuộc dạng bệnh nhất trong các loại bệnh. Các bạn đọc “Vỏ bọc hoàn hảo”- Lisa Gardner; “Những thiên thần mất tích”- Karin Slaughter; “Sau cánh cửa đóng”- B.A Paris dễ thấy hình ảnh tương tự nhưng đảm bảo không “bệnh” bằng Chồng của Gina đâu, mặc dù hắn chỉ xuất hiện qua sự hồi tưởng của cô là nhiều. Phần 1 kết thúc mở, phần 2 sẽ hứa hẹn gay cấn hơn. *** GINA ROYAL Wichita, bang Kansas Gina chẳng bao giờ hỏi tới cái gara. Ý nghĩ ấy sẽ khiến cô phải thao thức bao đêm ròng suốt nhiều năm về sau, làm mí mắt cô nóng ran, đùng đùng giật liên hồi. Lẽ ra mình phải hỏi. Phải biết. Nhưng cô đã không hỏi, cô không biết, và cuối cùng, chính điều đó đã hủy hoại cô. Thường thường, cô về nhà lúc ba giờ chiều, nhưng chồng cô gọi, báo rằng anh có việc gấp ở sở làm và cô phải tới trường đón Brady và Lily thay anh. Cũng chẳng vấn đề gì lắm, thật thế - vẫn còn vô khối thời gian để dọn dẹp nhà cửa trước khi nấu bữa tối. Anh tỏ ra rất đáng yêu và rối rít xin lỗi khi làm xáo trộn lịch trình của cô. Thực sự, Mel có lẽ là người đàn ông tốt nhất, hấp dẫn nhất trên đời và cô sẽ đền đáp cho anh; cô đã quyết định như thế. Tối nay, cô sẽ nấu món anh thích nhất: gan chiên bơ hành, uống kèm với vang pinot noir thượng hạng mà cô vừa lấy ra khỏi tủ và đang bày trên bàn bếp kia. Sau đó là buổi tối cả nhà quây quần, là ngả người trên sofa xem phim cùng lũ trẻ. Chắc sẽ là bộ phim siêu anh hùng mới ra mà bọn trẻ kêu gào đòi xem suốt mấy hôm nay, dẫu Mel rất kĩ tính với các thể loại phim ảnh cho trẻ nhỏ. Lily sẽ cuộn người lại như cục bông tròn nóng sực, rúc sát vào Gina, còn Brady nằm dài trong lòng bố, đầu gác lên tay ghế. Chỉ có những đứa trẻ dẻo người mới nằm thoải mái được như thế, nhưng đó là điều Mel yêu thích nhất trần đời: thời gian bên gia đình. Chậc. Điều yêu thích thứ hai, sau nghề mộc của anh. Gina hy vọng tối hôm nay anh sẽ không kiếm cớ ra ngoài và lại hì hục làm cái nọ, sửa cái kia trong xưởng mộc. Một cuộc sống bình thường. Dễ chịu. Không hoàn hảo - tất nhiên rồi. Chẳng ai có cuộc hôn nhân hoàn hảo cả, phải không nào? Nhưng Gina cảm thấy hài lòng, nói chung là thế. Cô rời nhà mới được có nửa giờ, đủ lâu để phi tới trường, đón bọn trẻ, và phóng trở lại nhà. Ôi trời! Ngộ nhỡ nhà ai bị cháy thì làm sao đây? Đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khi cô rẽ vào góc đường và thấy đèn hiệu nhấp nháy ở khu phố nhà mình. Cô đứng tim trước ý nghĩ đó, nhưng ở giây tiếp theo, giây phút ích kỷ, cô lại nghĩ: Thế này thì bữa tối muộn mất. Chuyện nhỏ nhặt là thế nhưng khiến người ta phát bực. Đường bị chặn hoàn toàn. Cô đếm thấy có ba chiếc xe cảnh sát đằng sau rào chắn, đèn chớp trên xe họ khiến những ngôi nhà gần như giống hệt nhau ở gần đó chìm trong màu đỏ lừ của máu và màu xanh tái của những vết bầm. Một xe cứu thương và một xe cứu hỏa nằm thu lu ở tít cuối đường, rõ ràng đang bị bỏ không. “Mẹ ơi?” Brady, cậu bé bảy tuổi đang ngồi ở ghế sau, hỏi. “Mẹ, có chuyện gì vậy mẹ? Là nhà ta ạ?” Giọng cậu có vẻ phấn khích. “Nhà mình cháy à mẹ?” Gina cho xe đi thật chậm và cố quan sát hiện trường: một bãi cỏ bị xới tung, một thảm lan diên vĩ bị san phẳng và mấy lùm cây bị nghiền nát. Một cái xác hộp thư móp méo vắt vẻo nửa trong nửa ngoài rãnh thoát nước. Hộp thư nhà họ. Bãi cỏ nhà họ. Nhà của họ. Phía cuối bãi chiến trường đó là một chiếc SUV màu nâu sẫm, động cơ vẫn còn đang xì khói. Chiếc xe bị kẹt phân nửa trong bức tường ở mặt tiền gara - xưởng của Mel - và ngật ngưỡng tì lên đống đổ nát từng là một phần của ngôi nhà gạch vững chãi. Cô vẫn luôn nghĩ rằng nhà mình rất vững chãi, rất chắc chắn, rất bình thường. Đống gạch vụn và những miếng thạch cao vỡ nát như một bãi nôn kia nom mới kinh tởm làm sao. Chúng trông mong manh quá. Cô hình dung ra chiếc SUV khi nó lao lên lề đường, hất tung hộp thư, trượt trên sân, và đâm sầm vào gara. Khi trong đầu vẽ ra cảnh tượng đó, chân cô cuối cùng cũng nhấn xuống phanh xe mình, lực đạp khá mạnh, đủ để cô cảm nhận được cú xóc đến tận xương sống. “Mẹ!” Brady hét lên, gần như sát vào tai cô, và theo phản xạ, cô đưa tay lên ra hiệu cho con im lặng. Bên ghế khách, Lily, mười tuổi, đã gỡ tai nghe ra và nhoài về phía trước. Miệng con bé há hốc khi nó nhìn thấy nhà mình bị phá, nhưng nó không nói một lời. Mắt nó vẫn đang trố ra vì choáng. “Mẹ xin lỗi.” Gina nói, nhưng gần như không nhận thức được mình đang nói gì. “Có gì đó không ổn, con ạ. Lily? Có sao không con?” Mời các bạn mượn đọc sách Ác Mộng Ven Hồ của tác giả Rachel Caine & Ngụy Thanh Tuyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Được Báo Trước - Agatha Christie
Trong làng Chipping Cleghorn, một án mạng đã được báo trước trong mục quảng cáo nhỏ của tờ báo địa phương. Khi các bạn cô Blacklock tụ tập để chơi trò chơi, một kế hoạch giết người âm thầm lên dây cót. Đây là truyện thứ 50 của Christie và giữ danh hiệu thành quả đẹp nhất của Bà Marple. Bối cảnh nước Anh sau chiến tranh cũng rất đáng chú ý (một điểm quan trọng của cốt truyện), đây có thể được coi là tác phẩm cuối cùng trong những truyện Christie gợi ý giỏi nhất và nhịp truyện vừa vặn nhất. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Vào khoảng thời gian giữa bảy giờ ba mươi và tám giờ ba mươi tất cả các buổi sáng, trừ chủ nhật, Johnnie Butt đi xe đạp vòng quanh làng Chipping Cleghorn. Huýt sáo to tướng giữa hai hàm răng, anh ta chống một chân xuống đất, trước cửa mỗi ngôi nhà, để tuồn vào thùng thư những tờ báo hàng ngày đã được đặt trước ở bưu điện trên phố High Street. Vậy là anh ta thả tờ Times và tờ Daily Worker vào nhà bà Swettenham, nhà cô Hinchliffe và cô Murgatroyd tờ Daily Telegraph và tờ News Chronicle, vào nhà cô Blacklock tờ Telegraph, tờ Times và tờ Daily Mail. Ở tất cả các nhà, hay gần như tất cả các nhà ở Chipping Cleghorn, anh ta để vào một tờ North Benham và Chipping Cleghorn Gazette, mà mọi người dân địa phương quen gọi đơn giản là Gazette, vào tất cả các ngày thứ sáu. Vì vậy, buổi sáng thứ Sáu, sau khi lướt mắt trên những tít lớn của tờ báo hàng ngày, phần lớn dân cư ở Chipping Cleghorn vội vã mở tờ Gazette ra để chăm chú đọc những tin tức của địa phương. Sau khi đọc qua mục “Trao đổi thư từ”, chín trên mười độc giả tấn công ngay vào mục “những thông báo cá nhân”, nơi đăng những vật để bán hoặc cho thuê, những nhu cầu vô vọng tìm người hầu, rất nhiều thông báo về chó, mèo, vật dụng làm vườn và tất cả các vụ việc thuộc loại rất thú vị đối với những người tạo nên cái cộng đồng nhỏ bé ở Chipping Cleghorn. 2 Cái ngày thứ sáu 29 tháng mười cũng không khác những thứ sáu khác. Bà Swettenham vén những lọn tóc màu tro xinh xắn rủ trên trán, mở tờ báo Times ra, liếc rnột cái nhìn thò ơ trên trang báo cầm ở tay trái, đọc qua cột viết về dân sự rồi sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đặt tờ Times sang một bên, bà vội vã cầm lấy tờ Chipping Cleghorn Gazette. Khi con trai bà, Edmund, đi vào phòng sau đó một lát, bà đang chăm chú đọc mục “những thông báo cá nhân”. - Chào con thân yêu - Bà nói - Nhà Smedley bán con chó Daimler của họ... nó sinh năm 1935... Đã già rồi! Edmund ậm ừ trả lời, rồi rót một tách cà phê, đặt hai khoanh cá trích vào đĩa, ngồi vào bàn và mở tờ Daily Worker ra để đọc mục “xây dựng”. Bà Swettenham đọc to : - Chó ngao, con chó đẹp... Mẹ cũng chẳng hiểu tại sao mọi người lại thích nuôi chó to đến thế, nhất là lúc này... Selina Laurence lại đăng thông báo tìm một cô đầu bếp. Mẹ có thể nói rằng, thời buổi này, đăng thông báo chỉ phí thời gian. Cô ấy cũng không đăng địa chỉ, mà chỉ có số hòm thư lưu thôi. Chó berger Đức. Mẹ chẳng bao giờ thích chó berger cả, không phải vì chúng là giống Đức, chúng ta chẳng còn câu nệ nữa, mà chỉ đơn giản bởi vì mẹ không thích chúng. Bà cần gì, bà Finch? Cánh cửa mở để cho nửa người và cái đầu phụ nữ dễ sợ thò vào với một cái mũ nồi nhung. - Chào bà! Tôi có thể dọn bàn được chưa? - Chưa được! Chúng tôi chưa ăn xong. Bà Finch liếc nhìn Edmund với tờ báo trong tay, hít hà rồi lui ra. - Con chỉ mới bắt đầu! - Edmund phản đối. - Mẹ mong con đừng đọc những tờ báo khủng khiếp ấy nữa! Bà Finch chẳng thích điều đó một tí nào! - Con không hiểu tại sao những ý kiến chính trị của con lại liên quan đến bà Finch! - Nếu con là công nhân đã đành! Nhưng con có làm việc đâu! Edmund bực bội phản đối. - Hoàn toàn không đúng. Con viết một quyển sách.! - Mẹ nói về một công việc thật sự cơ... Còn về bà Finch, chúng ta không thể chế nhạo điều bà ấy suy nghĩ! Nếu bà ấy bị ốm hoặc không đến nữa thì ai thay bà ấy phục vụ chúng ta? ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết Được Báo Trước của tác giả Agatha Christie.
Bí Ẩn Vụ Song Sinh - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Muriell từ phòng ăn nhẹ nhàng bước qua nhà bếp, đưa tay giữ lại cánh cửa lửng chắn ngang giữa hai phòng, để tránh gây tiếng động vì sợ làm thức giấc bà mẹ kế là Nancy Gilman và cô em gái Glamis, con riêng của bà, họ thường ngủ trễ đến tận trưa mới dậy. Sáng nay, bố của Muriell cảm thấy đói hơn mọi khi nên muốn cô làm thêm một đĩa trứng và một miếng xúc xích nữa. Đây là một điều bất thường và Muriell nghĩ rằng thể nào bố cô cũng bảo thôi nếu cô tạo điều kiện để ông nghĩ lại, thành thử cô hơi chần chừ. Nhưng rồi thấy nét mặt quả quyết của bố và ông lại có vẻ hơi nôn nóng vì chờ đợi, cô bèn bước sang nhà bếp trong khi bố cô chăm chú đọc tờ báo buổi sáng, Muriell hiểu rất rõ bố mình, cô mỉm cười nhớ đến sự cố gắng ăn uống kiêng khem của ông vì sợ lên cân, nhưng có lẽ bữa ăn sáng nay là để bù lại bữa tối qua quá sơ sài? Cả hai bố con sống trong một căn biệt thự ba tầng to lớn kiểu cổ và đã được trang hoàng theo kiểu mới kể từ sau khi mẹ Muriell chết. Muriell sinh ra tại đây, cô biết tất cả mọi ngóc ngách và rất quyến luyến với nó. Đã có những lần Muriell cảm thấy ít nhiều xót xa khi căn phòng cũ của mẹ mình đã bị Nancy chiếm chỗ, nhưng những ý nghĩ ấy thường chỉ xẩy ra khi không có mặt Nancy ở nhà mà thôi. Nancy là một người đàn bà rất có tâm hồn và nhiều sáng kiến cũng như có những nét đặc thù trong cung cách nhìn đời và sự vật. Điều đó làm cho bà ta trở thành một con người đặc biệt và dễ mến. Không một ai có thể bực mình khi đối diện với bà ấy. Muriell đã cố tình chần chừ cho đến khi thấy bố có vẻ nôn nóng, cô mới vội vào bếp làm tiếp. Miếng xúc xích lấy trong tủ lạnh ra còn đóng băng nên phải chờ lâu thêm một chút. Sau đó cô đập trứng vào chảo và bớt lửa vì cô biết ông không thích ăn trứng chín quá. Bỏ trứng và xúc xích vào đĩa xong, cô bưng sang phòng ăn, lấy khuỷu tay đẩy nhẹ cánh cửa phòng để tránh tiếng kêu lớn rồi lách nhẹ người đi vào. — Xong rồi bố ơi! - Cô gọi - Bố... Cô chợt ngừng lại không nói tiếp khi thấy chiếc ghế trống trơn, tờ báo đang nằm trên sàn nhà, ly cà phê vẫn còn đầy và điếu thuốc đang hút dở đặt trên đĩa gạt tàn, khói thuốc vẫn tiếp tục bay lên cao. Muriell thay đĩa thức ăn mới cho bố, rồi bỏ một lát bánh mì vào hộp nướng bánh và nhấn nút. Cô đứng chờ bố trở lại bàn ăn, cặp mắt bất chợt để ý đến mục quảng cáo trên tờ báo. Cô cúi xuống nhặt tờ báo. Đó chỉ là mục quảng cáo về các loại quần áo may sẵn. Khi công tắc của bếp nướng bánh ngắt điện và lò xo đẩy miếng bánh lên trên nắp hộp, Muriell nhíu mày thắc mắc không hiểu sao bố cô chưa trở lại bàn ăn. Cô rón rén bước xuống phòng tắm dưới nhà, cửa mở nhưng bên trong không có ai. Cô đi vòng sang các phòng khác và gọi khẽ — Bố, thức ăn nguội rồi! Cô trở lại phòng ăn, vẫn không thấy ai và chợt cảm thấy có sự bất ổn. Cô xem xét kỹ dưới nhà một lần nữa. Liệu bố cô đã đi làm rồi mà không nói cho có biết chăng...? Ông biết rõ là Muriell đang làm trứng cho ông mà? Chính ông đã bảo cô làm thêm mà? Chắc chắn không thể nào ông rời khỏi nhà mà lại không nói cho cô hay. Kể cả trường hợp nếu có điều gì thật khẩn cấp ở văn phòng thì ông cũng phải cho cô biết chứ. Nhưng hẳn là không có gì khẩn cấp vì đâu có nghe thấy chuông điện thoại reo. Trong bếp luôn có đường dây điện thoại song song, có gì thì chuông đã kêu. Như vậy hẳn có chuyện gì ở trên lầu. Có thể Nancy bị ốm chăng? Muriell bước vội lên lầu nhưng vẫn cố giữ im lặng. Cô nhẹ nhàng vặn nắm cửa phòng ngủ và đẩy nhẹ. Nancy Gilman đã thức, nhìn thấy Muriell đứng ngơ ngác nép bên cánh cửa bèn hỏi: — Có gì vậy, Muriell? — Con tìm bố - Muriell đáp. Nancy quay đầu lại nhìn bên giường trống. — Bố đã rời khỏi buồng cả tiếng đồng hồ rồi - Bà nói với giọng hơi lộ vẻ khó chịu, nhưng rồi chợt ý thức liền mỉm cười và tiếp - Có chuyện gì vậy con? Bố lại trễ ăn sáng à? — Dạ không - Muriell nói - Bố muốn ăn thêm và con đã làm xong nhưng ... con sợ nguội. Nét mặt Nancy Gilman thoáng lộ nét lo âu nhưng rồi bà kéo gối tựa sau lưng, mỉm cười, nói: — Ồ, con quá quan tâm đến bố đấy! Bà cười với nụ cười kín đáo và quay sang ngủ tiếp. Như vậy là bố Muriell không có mặt ở tất cả mọi nơi trong nhà, ngoại trừ căn phòng để đồ trên gác. Bất chợt một ý tưởng bỗng khuấy động trong đầu óc Muriell. Gần đây bố cô thường tỏ vẻ khó chịu. Hai hôm trước ông có nói với cô: “Bố dặn con một điều là nếu có bất kỳ chuyện gấp gáp nào liên quan đến công việc làm ăn của bố, thì hãy nhớ rằng bố không muốn dính dáng đến cảnh sát. Con nhớ không? Bố không muốn dính dáng đến cảnh sát.” Muriell đã nhìn bố với cặp mắt ngạc nhiên, muốn ông giải thích rõ hơn, nhưng ông chỉ trả lời một cách đại khái và cố nhấn mạnh cái ý chính của mình là không muốn dính dáng đến cảnh sát. Cô chợt lo lắng nghĩ đến những vụ tự tử, những xác chết treo cổ trên trần nhà. Cô liền chạy như bay lên thang gác. Phòng chứa đồ với những rương thùng quần áo cũ, các bàn ghế cổ. Gian phòng vẫn còn ăm ắp cái hơi hướng của một thời quá vãng. Những căn phòng dưới nhà đang hòa nhập với nhịp độ đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, nhưng tại đây, trong căn phòng này hầu như đón nhận toàn bộ những đồ vật dư thừa, lỗi thời của những ngày đã qua. Nó mang một không khí trầm buồn và cách biệt. Nhìn bao quát xung quanh căn phòng, Muriell cảm thấy hơi yên tâm, nhưng dù sao cô cũng đi vòng khắp hết một lượt, để ý cả đến ngoài hàng hiên sát mái. Không có một ai. Cô thấy vững dạ hơn và bước xuống cầu thang. Vừa tới chân cầu thang, Muriell gặp ngay Glamis, con riêng của mẹ kế. Glamis mặc bộ đồ ngủ mỏng dính. Mái tóc vàng xõa trên khuôn mặt với đôi mắt xanh tỏ vẻ bất bình. — Chị làm gì ầm ĩ ở trên gác vào cái giờ còn sớm như thế này? — Ồ, xin lỗi Glamis - Muriell nói - Chị... chị đang tìm kiếm... — Chị kiếm cái gì vậy? - Glamis hỏi khi thấy Muriell tỏ ra ngần ngừ. — Ồ, chị có chút việc trên ấy - Muriell nói - Chị đã cố nhẹ nhàng. — Em tưởng như có một đàn ngựa chạy trên ấy! Đúng, chạy ngay trên phòng ngủ của em. — Ồ, chị xin lỗi. Glamis bỗng nhiên cười và nói: — Chị tha lỗi cho em. Bị thức giấc nên em cáu giận vô lý. Dưới nhà có cà phê không chị? Muriell gật đầu. — Em cảm thấy khó chịu khi chưa được uống ly cà phê vào buổi sáng - cô em nói - Em sẽ xuống dưới nhà uống một ly rồi trở lên ngủ tiếp. Chị đã xong việc trên phòng để đồ chưa? — Rồi - Muriell đáp - Thôi đừng quan tâm nữa, Glamis. Chị sẽ đem cà phê lên phòng cho em. Không có đường chứ? Glamis gật đầu. — Chị xin lỗi vì đã làm em thức. Chị đang lo ăn sáng cho bố - Muriell nói. — Ở trên phòng để đồ à? - Glamis vừa hỏi vừa cười. Muriell vỗ nhẹ lên vai cô em. —Thôi về phòng đi cưng. Chị sẽ mang cà phê lên cho. — Vâng, cảm ơn chị - Glamis nói - Bạn em là Hartley Elliott đã ở lại nhà mình hồi đêm, anh ta cũng cần được ngủ. — Bạn trai em à? - Muriell hỏi. — Vâng. Anh ta ngủ ở trên phòng Hoa Hồng. Chúng em về nhà đã hơn nửa đêm, rồi ngồi nói chuyện với nhau ngoài hàng hiên. Khi anh ấy mở máy xe tính đi về thì mới biết là quên rút chìa khóa xe trong ổ nên bình điện yếu không đề máy được. Vì vậy em đã bảo anh ấy ngủ lại. — Mẹ biết không? - Muriell hỏi. — Dĩ nhiên là không. Mẹ đang ngủ ngon mà. Chị nghĩ rằng em phải đánh thức mẹ dậy để báo với mẹ là em mời khách ngủ lại nhà mình sao? Em cũng đã lớn, hai mươi tuổi rồi. Và chị nghĩ... Glamis bỗng dưng ngừng lại rồi mỉm cười nói tiếp: — Chị thấy em giống như con ma dại vào buổi sáng như thế này phải không? Muriell vỗ vai cô em. — Thôi cưng, chị sẽ mang cà phê lên. Chui vô giường đi. Trông em trần như nhộng. — Em ấy à? - Glamis hỏi lại và đưa tay vuốt bộ áo ngủ mỏng dính rồi cười và nhẹ nhàng bước về phòng trên hành lang trải thảm. Muriell xuống dưới nhà, tự trấn an rằng có lẽ vì một lý do đặc biệt nào đấy, bố cô đã phải đi ngay đến văn phòng làm việc mà không kịp cho cô biết. Chắc đó là công việc hết sức quan trọng, có thể là một cuộc hẹn mà ông đã quên. Muriell lấy lại sự vui vẻ khi cô rót cà phê vào chiếc tách lớn, bỏ vài miếng bánh mì nướng vào trà, đặt tất cả lên khay và bưng lên phòng cho Glamis. — Ồ, cảm ơn chị - Glamis nói - Chị mang cả bánh mì nướng lớn cho em nữa hà? — Đói không? — Đói muốn chết! - Glamis nói - Em cứ thức dậy là thèm ăn ngay. Nếu không kiêng khem sợ mập, có lẽ em phải xuống nhà hàng dưới phố để ăn sáng. Glamis ngồi nhỏm dậy, dụi tắt điếu thuốc trên đĩa gạt tàn, với tay lấy tách cà phê, nhìn Muriell và nói: — Chị thực là tài, chị Muriell. — Tài gì? — Chị luôn luôn giữ được điều độ. Em thấy chị lúc nào cũng trầm tĩnh và đầy nghị lực. Còn em thì như con ngố nếu sáng dậy mà không được uống cà phê. Glamis nhai mẩu bánh và uống vài ngụm cà phê. Sau đó cô vội đẩy đĩa bánh và tách cà phê sang một bên, mỉm cười vừa nói với Muriell vừa ngả đầu nằm lại trên giường. — Cảm ơn chị. Em ngủ đây. Muriell bước ra khỏi phòng, đóng nhẹ cửa và trở lại phòng ăn. Hôm nay là ngày nghỉ của người nấu bếp, còn người giúp việc dọn dẹp và rửa chén đĩa sẽ đến vào giờ muộn hơn. Một lần nữa tư tưởng bất ổn lại xuất hiện trong đầu óc Muriell khi cô nhìn thấy đĩa trứng trên bàn ăn đã nguội lạnh, tờ báo vẫn nằm bên chiếc ghế trống trơn. Thật là bất thường, bố cô đi mà không nói lấy một lời, sao bố lại có thể vô tâm như thế được. Bố biết là Muriell đang ở trong bếp mà... Bỗng cô nhìn thấy chiếc cặp táp của ông. Không bao giờ bố cô đi làm mà quên đem theo chiếc cặp táp này. Muriell biết rằng bố cô có một số giấy tờ quan trọng để trong cặp. Ông đã phải làm gấp vào đêm qua để kịp sáng nay đưa đến văn phòng. Ngay cả lúc sáng khi đang ngồi trước bàn ăn, ông cũng đã lấy tập giấy tờ ấy ra để xem xét lại và ghi chú thêm. Muriell bước tới cầm lấy chiếc cặp và mở ra. Tập giấy tờ tài liệu vẫn còn nguyên trong ấy. Muriell cầm lên rút các giấy tờ bên trong ra xem rồi bỏ trở lại trong tấm bìa cứng bọc ngoài. Bất chợt cô để ý đến hàng chữ viết tay của bố cô ghi trên đầu tấm bìa: Trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào, hãy liên lạc với luật sư Perry Mason ngay lập tức. Tuyệt đối không được liên lạc với bất cứ nơi nào khác.' Dòng chữ ghi có cả chữ kí của bố cô và được viết bằng bút mực. Chỗ chữ kí hơi bị nhòe một chút có lẽ vì ông đã vội cất tập giấy vào trong cặp trước khi chờ đủ thời gian cho mực khô. Ngoài ra bên cạnh chỗ chữ viết, có ghi một số điện thoại, chắc là số điện thoại của văn phòng luật sư Perry Mason. Liệu có phải bố cô đã viết những hàng chữ này lúc ngồi trên bàn ăn sáng không? Muriell nhìn đồng hồ. Đã chín giờ kém mười. Cô đóng cặp táp lại và bước đến bên ghế bố cô đã ngồi. Cô không thấy chiếc khăn ăn của ông. Như vậy là khi bố cô đi, ông đã cầm theo chiếc khăn ăn. Bỗng dưng ý nghĩ của sự mất chiếc khăn ăn khiến cho Muriell cảm thấy sợ hãi. Cô lật tờ báo lên, xem dưới gầm bàn, tìm khắp phòng, sau đó cô bước qua phòng khách rồi trở ra cầu thang định lên lầu và lúc này cô chợt nhớ đến xưởng làm việc. Đúng rồi! Phía sau biệt thự là một dãy nhà khá lớn, đầu dãy phía bắc là gara xe chia làm ba ngăn. Kế tiếp là một phòng dùng làm phòng tối dành cho bà Nancy rửa phim ảnh và phía cuối của dãy nhà là một xưởng riêng của ông Carter Gilman, chia làm hai phần, một làm đồ gốm và một làm đồ mộc như các hộp bằng gỗ quý để đựng đồ nữ trang, các hộp đựng đồ khâu vá và các khung ảnh trang hoàng. Muriell đẩy mạnh cửa bước ra ngoài hành lang, cô rảo chân qua sân cỏ phía sau nhà, tiến đến trước cánh cửa xưởng mộc. Cô mở mạnh cửa gọi lớn: — Bố! Cô bước vào trong và bất chợt khựng lại. Một chiếc ghế gãy nằm trên sàn, bên cạnh là một vũng màu đỏ thẫm. Mạt cưa văng tung tóe trên nền ximăng và những tờ giấy bạc rải rác khắp nơi. Các tờ giấy bạc đều là loại một trăm đôla và Muriell nhìn thấy có đến khoảng trăm tờ như vậy khắp phòng. Muriell nhìn qua bên phải chỗ cánh cửa dẫn sang phòng rửa ảnh của bà Nancy, ngay trước cánh cửa, trên sàn ximăng là chiếc khăn ăn của bố cô. Muriell bước tới mở cánh cửa phòng rửa ảnh. Mùi chua của thuốc rửa ảnh xông lên mũi. Ánh sáng từ ngoài cánh cửa rọi vào nhưng vẫn không đủ sáng. — Bố ơi! - Muriell gọi. Im lặng vẫn bao trùm căn phòng. Muriell bước qua hết phòng rửa ảnh, mở và đẩy mạnh cánh của thông sang gara. Chiếc xe thể thao và chiếc xe nhỏ vẫn nằm đúng vị trí nhưng chiếc xe lớn thì không còn ở đấy nữa. Muriell ý thức được sự kiện vắng mặt chiếc xe của bố, tim cô bỗng đánh thình thịch. Bố cô đã rời phòng ăn đi xuống gara, trong tay vẫn còn cầm nguyên chiếc khăn ăn. Phải có một biến cố nào đấy khiến ông phải đi xuống dưới nhà mà không ý thức được là trong tay mình đang cầm chiếc khăn ăn. Chắc ông đã xuống gara trước, rồi đi qua phòng rửa ảnh và mở cửa bước sang xưởng mộc. Những gì ông nhìn thấy trong xưởng hẳn đã làm ông đánh rơi chiếc khăn ăn. Như vậy chuyện gì đã xảy ra? Chiếc ghế gãy nằm trên sàn mang ý nghĩa gì? Tại sao các giấy bạc lại tung tóe trên sàn và nhất là cái vũng màu đỏ thẫm kia? Muriell liền đi đến quyết định, cô bước vội lại bàn điện thoại trong xưởng, nhấn nút liên lạc với văn phòng làm việc của Carter Gilman. Khi được văn phòng báo cho biết là ông không có ở đấy, cô bèn lật gấp các trang sách cuốn điện thoại niên giám tìm số văn phòng luật sư Perry Mason. Tiếng trả lời trên điện thoại cho biết luật sư Perry Mason chưa tới, nhưng thư ký riêng của ông ta đang có mặt. — Vâng, tôi nói chuyện với cô thư ký cũng được, - Muriell nói. Vài giây sau tiếng nói trên đầu máy vang lên. — Tôi là Della Street, thư ký riêng của luật sư Perry Mason nghe đây. Muriell nói thật nhanh: — Vâng, hiện giờ tôi thấy lo lắng quá. Bố tôi tự dưng biến mất. Tôi tìm thấy tờ giấy ghi trong cặp táp của bố tôi bảo rằng hãy gọi cho luật sư Perry Mason trong trường hợp có biến cố xảy ra và... và hẳn có điều gì rất bí mật trong vụ này. Tôi... — Xin lỗi, cô có thể cho biết tên bố cô? — Carter Gilman. Mẹ tôi đã mất. Tôi ở đây với bố tôi cùng mẹ kế và con riêng của bà ta. Chúng tôi ... — Xin vui lòng cho biết tên cô. — Muriell Gilman. — Cô có thể cho tôi số điện thoại của nhà cô không? Muriell cho biết số điện thoại. — Và địa chỉ nữa? — 6231 Đại lộ Vauxman. — À, luật sư Perry Mason vừa mới tới - Della Street nói. - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong vòng năm phút. — Cảm ơn cô - Muriell đáp và cúp máy. ... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Vụ Song Sinh của tác giả Erle Stanley Gardner.
Người Lạ Trong Gương - Sidney Sheldon.
Sách Nói Người Lạ Trong Gương   Người Lạ Trong Gương vẫn là một trong nhiều câu chuyện Betseller của nhà văn nổi tiếng Sidney Sheldon. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ Nhất vừa kết thúc được hai năm. Detroit thuộc bang Michigan được coi là một trong những thành phố công nghiệp phát triển nhất nhì toàn cầu. Không còn lo cung cấp xe tăng, máy bay cho các đồng minh tận châu Âu xa xôi, nay các hãng xe hơi của Detroit chỉ còn tập trung sản xuất, nâng cao, hoàn thiện sản phẩm chính của mình để nhanh chóng sau đó, mỗi ngày, hàng ngàn chiếc xe được xuất xưởng, chở tới khắp thế giới, nơi người tiêu dùng khao khát nó. Ngược lại, hàng vạn lao động từ khắp nước Mỹ, khắp cả châu Âu, đổ xô đến Detroit. Ai cũng hy vọng tràn trề song không phải ai cũng toại nguyện. Paul Templarhaus và vợ là Frieda, dân Đức, cũng nằm trong số hy vọng đó. Đang học nghề tại một lò mổ ở Muchen, anh lấy vợ, lấy luôn hồi môn của vợ để di cư sang New York, để mở hàng bán thịt và để...lỗ vốn. Rời New York nhưng không rời nghề bán thịt, anh dắt vợ đến St.Louis, đến Boston và rồi đến Detroit, song ở đâu cửa hàng anh cũng lỗ hơn là lãi. Điều đó thật khó hiểu, vì ở vào thời kỳ kinh tế phát triển, nhu cầu ăn ngon, nhất là cứ bốc hơi đi? Anh khó hiểu chứ Frieda, vợ anh, thì biết thừa. Thực ra, chồng chị chỉ lo làm thơ chứ đâu chịu lo làm ăn. Ngồi trước bàn thịt mà đầu óc anh chỉ quẩn quanh với câu với chữ, với ý với tứ chứ nào đâu với miếng thăn miếng đùi và nhất là với chuyện mời chào khách bỏ tiền ra mua. Không một tờ báo hay nhà xuất bản nào chịu mua thơ của anh, ngược lại, những người máu thịt của anh thì đông vô kể nhưng không ai chịu trả tiền, vì anh luôn sẵn sàng cho họ chịu. Đến nỗi người ta đồn thổi khắp mấy con phố, lan ra cả ngoại ô, rằng, muốn không mất tiền song lại muốn có thịt ăn thì cứ việc đến cửa hiệu Paul Templarhaus. Frieda chưa từng biết tới đàn ông trước khi Paul cầu hôn cô. Mà nói là anh cầu hôn với cha cô mới đúng, và lập tức được cả cha lẫn con đồng ý, nhất là ông già lại đang lo rằng cô con gái sẽ sống bám lấy mình suốt đời, thậm chí ông còn tặng thêm hồi môn, ngoài số đã định trước đó, để hai vợ chồng sớm xa chạy cao bay, nghĩa là di dân, mà với ông, càng xa càng cao thì càng tốt. Còn Frieda? Paul đâu biết vừa thấy anh cô đã yêu liền. Đã bao giờ cô được gặp nhà thơ, thậm chí một người thích làm thơ? Ngoại hình anh thì cô mê tít, bởi nó vô cùng phù hợp với người tình trong mộng mà đêm vẫn luẩn quẩn bên cô. Anh hơi gầy, mắt cận thị màu xanh nhạt, tóc thưa, nói năng e dè... nghĩa là theo cô, rất trí thức, rất nhà thơ. Vợ chồng dắt nhau sang New York cô mới dám tin thiên- tài- đẹp- trai này thực sự là của mình. Cô biết mình, nếu không bị nhìn là xấu xí thì cũng chẳng ai coi là đẹp đẽ gì, ngoài đôi mắt xanh biếc lanh lợi như vay mượn của ai đó, còn lại cô thừa hưởng toàn bộ cái xấu xí của họ hàng hang hốc nội ngoại nhà cô. Nào mũi to, trán dô, cằm bạnh...nào thân hình ục ịch...nào dáng đi lật bật...Con tim, Paul cũng như bất kể ai không mù, đều dễ dàng nhận ra những cái xấu đó, vậy sao anh vẫn cầu hôn cô? Có phải vì là nhà thơ nên anh tinh tường hơn người đời, nhìn ra được bao vẻ đẹp của cô ẩn náu bên trong cái vẻ ngoài xấu xí đó? Cô đâu biết, tuy không phải dân đào mỏ, cũng chẳng là kẻ thực dụng, song với Paul, điều hấp dẫn lớn nhất ở cô vợ có vẻ ngoài xấu xí đó chính là đống của hồi môn kia. Anh hy vọng, thậm chí tin tưởng, nhờ nó mà bằng cách này hay cách khác, anh sẽ thoát khỏi đám lòng, tiết, gân, xương nơi lò mổ, có cửa hàng riêng, có đủ tiền sinh sống và toàn tâm toàn ý với Nàng Thơ của mình. Frieda, kể từ hôm nhận được lời cầu hôn của Paul, đã tưởng tượng, đã thêu dệt ra bao mộng vàng của đêm tân hôn. Nơi họ đến nghỉ tuần trăng mật thì tuyệt rồi: ngôi nhà nhỏ ven hồ năm trong một khu thành cổ, lại ở giữa rừng, giữa đồng cỏ mênh mông. Thế rồi, cô hình dung, Paul sẽ ôm cô, miệng thì thầm lời yêu, tay lần cởi váy áo. Rồi anh sẽ hôn cô, thoạt tiên ở môi, ở cổ, rồi có thể cả ở tai, cô hy vọng thế. Sau đó, môi anh sẽ lướt dần xuống vai xuống ngực cô, ngậm thật lâu vào vú cô, rồi lướt khắp thân thể trần truồng của cô, nhẹ nhàng, mơn man, y hệt trong những cuốn sách mà cô đã vụng trộm đọc. Thế rồi anh khẩn khoản, như âu yếm, nhờ cô cởi bỏ giúp quần áo của anh. Tất nhiên cô cứ để anh nài nỉ, mãi sau mới chịu nghe. Cô đã bào giừo giúp ai việc đó mà bảo làm ngay được? Rồi cô sẽ thấy cái gì? Chả gì cả ngoài cái con vật của anh thẳng đơ và vênh vang như cán cờ Đức quốc xã. Nghe nới là đau lắm thì phải. "Nó" như thế kia cơ mà? Và anh sẽ nói gì với cô trước khi làm đau cô nhỉ? Anh khen người cô đẹp, hay giảm đơn như cánh lò mổ, "người cô nhiều thịt"? Chắc anh không đơn giản vậy đâu. Anh là nhà thơ kia mà. Chả có gì giống như cô tưởng tượng hoặc thêu dệt hoặc hình dung cả. Tối đến, ăn no xong, hai người vào phòng ngủ - cô phải tự đi vào vì không thấy anh tỏ ý muốn bế, như sách tả- và trong khi cô đang hồi hộp chờ đợi những gì tiếp theo thì anh đã lăn luôn ra chiếc giường tân hôn sau khi vội vội vàng vàng cởi bỏ quần áo. Anh nằm đó, dang chân dang tay, phô ra thân hình gày gò, bộ ngực lép kẹp và...cái của nợ kia nhỏ tí, ẽo uột ẩn sau đám lông lá, như xấu hổ. Chỉ thấy anh nhìn mình như chờ đợi, Frieda hiểu rằng mình sẽ phải tự cởi bỏ váy áo, tự leo lên giường chứ chẳng có ai sẽ hay dẫn. Cô thở dài, vừa thả váy xuống vừa tự nhủ, to nhỏ đâu quan trọng gì, với lại mình cần tình yêu của anh chứ đâu cần cái đó nhỏ hay to...Hãy chờ những gì anh sắp nói với mình đây. Anh sẽ thủ thỉ...sẽ bày tỏ. Nhưng anh chẳng hé một lời,dù to hay nhỏ. Cô vừa hồi hộp đặt mình xuống giường, còn chưa kịp nhích sát lại gần anh thì đã bị anh đẩy vai cho nằm ngửa ra để anh ngã sấp lên bụng cô, nhét cái đó vào, rồi sau vài lần nhấp nhô cô thấy anh rên khẽ, rùng mình khẽ và lăn xuống bên cô. Tất cả là vậy ư? Chả lẽ nó đã kết thúc khi cô còn tưởng nó chưa bắt đầu? Thực ra, chuyện đó với Paul chỉ là vấn đề giải quyết nhu cầu của phần "con" chứ không phải phần "người", và xưa nay anh cũng chỉ làm việc đó với đám gái điếm nhung nhúc ở Muchen. Theo thói quen, anh nhổm dậy móc ví định trả tiền thì chợt nhớ từ nay mình làm chuyện này sẽ không phải tốn một xu nào cả. Trong khi Frieda còn chưa hết ngơ ngác thì Paul đã ngáy nhè nhẹ. Anh ngủ, mặt vô tư như đứa trẻ. Cô quyết không khóc, tự nhủ, mấy ai vừa ý ở ngay lần đầu. Rồi anh sẽ khác. Rồi anh sẽ là người chồng tuyệt vời về mọi mặt chứ không riêng tình dục. Vả lại, tình dục đâu phải là quan trọng nhất với mình... Song càng ngày Frieda càng thất vọng hơn về Paul. Là vợ thì phải nghe lời chồng, cô chấp nhận, nhưng cô đâu có ngu ngốc để không thấy, dù muộn, những bài thơ của anh dở toẹt mặc anh mỗi ngày thêm lao tâm khổ tứ vì nó, và cũng vì nó mà anh sống như kẻ mộng du, đôi khi cứ như thằng ngớ ngẩn. Và quan trọng hơn nữa là vì cái ả thơ ấy mà đống hồi môn của cô cứ ngày một vơi dần. Khi hai vợ chồng chuyển tới Detroit thì Frieda không chịu đựng thêm được nữa. Sắp trắng tay rồi. Hôm đó, sau khi rà soát số hồi môn ít ỏi còn lại, cô lẳng lặng bước vào cửa hàng thịt của Paul, lẳng lặng chiếm giữ quầy thu tiền, để rồi từ đó không rời nó ra nữa. Không bán chịu, đó là biện pháp đầu tiên của cô. Paul hoảng hồn, nhưng đau chỉ có thế. Frieda tìm mọi cách quảng cáo chất lượng thịt tuyệt hảo của cửa hàng và kèm theo đó là tăng giá ở những món buộc phải tăng, và ngược lại. Bây giờ thì đã nhìn thấy đồng tiền đi vào chứ không chỉ nom thấy miếng thịt đi ra, như trước. Lãi nhỏ kéo theo lãi lớn. Việc buôn bán cứ khấm khá dần lên. Từ lúc nào chẳng biết, Frieda trở thành người ra lệnh còn Paul cứ răm rắp làm theo. Quen đi, ngày một ngày hai đã biến cô trở thành độc đoán, chuyên quyền, không chỉ ở cửa hàng thịt mà còn ở việc đầu tư tiền nong vào đâu, nên sống ở vùng nào và mùa hè này nghỉ tại đâu thì tốt nhất. Rồi cả việc chăn gối nữa. Giờ thì Paul đừng mong chỉ thoả mãn phần "con" của mình còn vợ ra sao thì mặc. Bây giờ chính Frieda là người quyết định làm chuyện đó, mặc Paul khoẻ hay yếu, có hứng hay không. Cái việc này bỗng trở nên khủng khiếp với Paul khi Frieda quyết định sẽ có con chỉ trong vòng một năm, không thể muộn hơn. Cô buộc chồng phải thực hiện bằng được việc làm tình trong những ngày có nhiều khả năng thụ thai, mặc Paul có hôm mệt đến phát ốm, mà là ốm thật chứ không phải vờ để trốn tránh. "Cho vào!", cô ra lệnh. Paul quấn cái đó của anh quanh ngón tay. "Mềm như sợi dây thế này thì cho vào đâu?". Frieda vẫn tảng lờ như điếc. Mấy tháng sau anh được tạm nghỉ vì đã hoàn thành sứ mệnh. Anh thích có con gái nhưng vợ anh thì ngược lại. Vì vậy, chẳng mấy ai quen biết họ tỏ ra ngạc nhiên khi thấy Frieda sinh con trai. Ngày lâm bồn, Frieda chịu tốn tiền để mời bằng được bà đỡ đến nhà vì không muốn sinh con tại bệnh viện. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc, ao nấy xúm quanh đều trợn mắt ngạc nhiên khi nhìn nó. Chẳng phải nó dị dạng hay thừa gì, thiếu gì. Song, giữa hai đùi nó, cái ở đứa trẻ khác người ta gọi là chim thì ở đây, nếu tạm so sánh, phải gọi là đại bàng. Bởi nó to quá khổ. Bố nó nằm mơ cũng chẳng được như thế. Không hiểu sao Frieda lại kiêu hãnh nghĩ vậy. Tên nó là Tobias. Do Frieda đặt, tất nhiên. Paul đòi dạy bảo thằng bé. Chuyện học hành, chữ nghĩa anh giỏi hơn cô. Vả lại, dạy dỗ con trai là việc của ông bố mà. Không phản đối, song Frieda không mấy khi để hai bố con ngồi riêng với nhau. Chính là cô, vừa nuôi vừa dạy nó, bằng những món ăn vừa ngon vừa bổ, và bằng những mệnh lệnh rắn như sắt thép. Lên năm tuổi, Toby cao nhưng gầy đến thảm hại, đôi mắt xanh biếc như của mẹ, luôn có vẻ đăm chiêu. Nó vừa yêu vừa sợ mẹ, mong ngóng được mẹ ôm ấp để có thể dụi sâu đầu vào ngực mẹ. Nhưng Frieda quá ít thời gian cho việc nựng nịu con, bởi còn lo kiếm tiền nuôi cả nhà. Phần khác, cô yêu con, tất nhiên, nhưng quyết không để nó lớn lên uỷ mị, yếu đuối như bố. Vì vậy, tình mẫu tử của Frieda được thể hiẹn bằng những mệnh lệnh cứng rắn, những đòi hỏi khe khắt về kết quả của mỗi công việc mà Toby thực hiện, dù là việc học hành ở trường hay việc mẹ giao ở nhà. Cô ít khi khen con, ngược lại, phạt nhiều hơn, nhưng có lẽ thế lại tốt cho Toby, cô nghĩ. Có một linh tính nào đó mách bảo, ngay giây phút đầu tiên ôm con vào lòng, khiến cô tin chắc sau này nó sẽ nổi danh thiên hạ. Cụ thể ra sao thì cô không biết nhưng cô chắc chắn nó phải như thế, và cô còn luôn nói với con, nhắc nhở con, khiến Toby dường như lớn lên cùng với niềm tin của mẹ. Và Toby biết, một khi mẹ đã muốn là phải được.   ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Gương của tác giả Sidney Sheldon.
Không Có Gì Mãi Mãi - Sidney Sheldon.
Sách Nói Không Có Gì Mãi Mãi   Câu chuyện là cuộc đời của 3 nữ bác sỹ trẻ cùng làm việc tại một bệnh viện lớn ở San Fancisco, và khát vọng mãnh liệt của họ... Nữ bác sĩ Paige Taylor. Cô đã thề đó là cái chết không đau đớn, nhưng khi Paige được thừa hưởng một triệu đô la từ một bệnh nhân, thẩm phán gọi đó là một vụ giết người. Bác sĩ Kat Hunter. Cô đã thề không bao giờ để cho người đàn ông nào lại quá gần mình - cho đến khi cô chấp nhận thách thức một vụ cá cược chết người. Bác sĩ Honey Taft. Để làm việc trong y khoa, cô biết mình sẽ cần một cái gì đó còn hơn cả là người giỏi nhất mà Chúa Trời đã cho cô. “Không có gì mãi mãi” chạy đua từ những quyết định sống còn của một bệnh viện lớn ở San Francisco cho đến sự nóng hổi đầy căng thẳng của một phiên tòa xét xử vụ giết người. Nó sắp đặt những tham vọng và nỗi sợ hãi của những người chữa bệnh và những kẻ giết người, lòng ti tiện và sự hào hiệp của kẻ phản bội và những người yêu nhau… Khi câu chuyện lên đến cao trào, hướng tới đỉnh điểm không thể đoán trước, Sidney Sheldon lại một lần nữa chứng minh rằng không độc giả nào có thể thắng được một bậc thầy của sự kiện bất ngờ. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** SAN FRANCISCO Mùa xuân - 1995 Chưởng lý quận Carl Andrew đang cáu kỉnh: - Chuyện chết tiệt gì thế này? - ông ta nói. - Ba bác sĩ sống chung phòng và làm việc trong cùng một bệnh viện. Một người khiến cho bệnh viện suýt phải đóng cửa, người thứ hai giết bệnh nhân vì một triệu đô- la, còn người thứ ba thì lại bị giết. Andrew ngừng lại, hít một hơi rõ dài: - Mà lại rất là đàn bà! Ba con mụ bác sĩ trời đánh! Báo chí đãi đằng chúng cứ như những danh nhân. Nào Chương trình 60 phút. Nào thì phóng sự đặc biệt của Barbara Walters. Tôi không thể cầm một tờ báo hay tạp chí nào lên mà không phải nhìn ảnh hay đọc bài viết về chúng. Chẳng mấy đâu, rồi Hollywood sẽ tung ra một bộ phim biến ba con mụ này thành những nữ kiệt? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Chính phủ trưng mặt các ả lên tem bưu điện như Presley vậy. Ôi, lạy Chúa, thật chịu hết nổi! - Ông ta giáng một quả đấm xuống bức hình người đàn bà in trên bìa tạp chí Time. Dòng tít viết: "Bác sĩ Paige Taylor - Thiên thần từ bi hay đồ đệ của ác quỷ?" - Bác sĩ Paige Taylor, - giọng ông chưởng lý quận đầy ghê tởm. Ông ta quay sang Gus Venable, viên chánh công tố. - Tôi giao vụ này cho anh đấy, Gus. Tôi muốn kết án. Tội sát nhân. Phòng hơi ngạt. - Đừng lo, - Gus Venable trầm giọng, - cứ để nó cho tôi. Ngồi trong phòng xử án nhìn bác sĩ Paige Taylor, Gus Venable nghĩ: Cô ta lẩn tránh toà. Rồi ông ta tự cười mình. Không ai có thể lẩn tránh được toà. Cô ta dáng cao, thon thả, với đôi mắt nâu huyền nổi bật trên gương mặt nhợt nhạt. Một người quan sát thờ ơ chắc chỉ xem cô ta như một loại đàn bà quyến rũ. Người tinh ý hơn mới nhận thấy còn những điều khác. Đó là tất cả những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời cùng tồn tại trong cô ta. Nét hớn hở vui tươi của đứa bé thêm vào vẻ băn khoăn e lệ của tuổi hoa niên và sự khôn ngoan, nỗi đau khổ của đàn bà. Có một vẻ ngây thơ nơi cô ta. Cô ta là cô gái mà một người đàn ông có thể lấy làm hãnh diện dẫn về giới thiệu với cha mẹ mình, Gus nghĩ mỉa mai, nếu cha mẹ anh ta hợp gu với những tên giết người máu lạnh. Có một nét gì xa xăm, gần như huyền bí trong mắt cô ta, một vẻ gì đó nói lên rằng bác sĩ Paige Taylor đã lùi sâu vào nội tâm, tới một thời gian khác, một nơi chốn khác, xa khỏi phòng xử án lạnh lùng, cằn cỗi, nơi cô ta đã bị đẩy vào. Phiên xử diễn ra tại Toà Công lý San Francisco tôn nghiêm, cổ kính trên phố Bryant. Nơi đặt toà án tối cao và nhà tù tiểu bang là một công trình trông đầy hăm doạ, cao bảy tầng, bằng đá vuông, xám xịt. Khách đến dự phiên toà được lùa qua một dãy hành lang kiểm soát điện tử. Trên gác, tầng ba, là phòng xử án. Trong phòng 121, nơi xét xử những vụ giết người, ghế quan toà tựa sát mặt tường chính diện, đằng sau là lá cờ nước Mỹ. Bên trái là chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn, chính giữa đặt hai bàn được ngăn bằng lối đi, một bàn dành cho luật sư bên nguyên, bàn kia dành cho luật sư bên bị. Phòng xử án đã chật ních phóng viên và đầy ắp loại khán giả say mê dự các phiên toà xử tai nạn giao thông trên đường cao tốc và tội giết người. Trong các phiên xử tội giết người, đây là vụ hấp dẫn nhất. Chỉ riêng Gus Venable, luật sư công tố, cũng đáng để xem rồi. Ông ta to cao lừng lững, với bờm tóc xám, chòm râu dê, và cung cách lịch lãm của một điền chủ miền Nam, mặc dù ông chưa bao giờ ở miền Nam cả. Ông có vẻ mặt ngơ ngác vô tư và bộ óc của một cỗ máy tính. Nhãn hiệu của ông ta, đông cũng như hè là bộ complê trắng khoác ngoài chiếc sơ- mi cổ hồ cứng đã lỗi thời. Alan Penn, luật sư của Paige Taylor, là sự tương phản với Venable, một con người rắn chắc, năng nổ, lừng danh bới tài gỡ tội cho các thân chủ của mình. Hai luật sư này không bao giờ thiếu cơ hội để đối mặt nhau trước toà án và quan hệ của họ là sự nể trọng nhau miễn cưỡng và ngờ vực nhau hoàn toàn. Venable ngạc nhiên khi thấy Alan Penn đến gặp ông vào tuần trước khi phiên xử bắt đầu. - Hãy cảnh giác với những tay thầy cãi có tài. - Anh đang mưu tính chuyện gì thế, Alan? - Nghe đây, tôi chưa bàn với thân chủ của tôi, nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi, tôi có thể thuyết phục cô ta nhận tội để xin giảm án và đỡ cho nhà nước một khoản án phí, thì sao? - Anh định thương lượng với tôi đấy à, Alan? - Gus Venable với tay xuống bàn giấy, lục lọi - Chẳng thấy cuốn lịch chết tiệt của tôi đâu cả. Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ? - Mùng 1 tháng Sáu. Sao? - Khoan nào, tôi cứ tưởng phải là Giáng sinh cơ đấy nếu không anh đã chẳng hỏi xin một món quà như vậy. - Gus… Venable nhoài người về phía trước. - Anh biết không, Alan, bình thường thì tôi có thể bị anh thuyết phục rồi đấy. Nói thật, bây giờ tôi khoái đi câu ở Alaska hơn. Nhưng câu trả lời là không. Anh biện hộ cho một tên sát nhân tàn nhẫn đã vì tiền mà giết một người bệnh bất lực. Tôi đề nghị án tử hình. - Tôi nghĩ cô ta vô tội, và tôi… - Không, anh không nghĩ thế đâu. Và không ai có thể làm cho bất cứ ai nghĩ như thế. Trường hợp rõ mười mươi rồi. Khách hàng của anh tội lỗi như Cain 1 vậy. - Chưa đâu, chừng nào bồi thẩm đoàn chưa kết tội. - Họ sẽ, - Gus để một khoảng lặng, - họ sẽ kết tội thôi. Sau khi Alan Penn ra về, Gus Venable ngồi nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa xảy ra. Việc Penn đến gặp ông là một dấu hiệu của sự thất bại. Penn hẳn đã hiểu mình ít có cơ thắng nổi vụ này. Venable nghĩ về những chứng cớ không thể chối bỏ mà ông đang nắm cùng các nhân chứng ông sẽ gọi ra thẩm vấn và ông thấy hài lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bác sĩ Paige Taylor sẽ vào phòng hơi ngạt. .. Mời các bạn đón đọc Không Có Gì Mãi Mãi của tác giả Sidney Sheldon.